Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Luận văn sinh kế của cư dân xã vô tranh huyện phú lương tỉnh thái nguyên (1986 2015)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.03 MB, 90 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Theo âm Hán Việt, sinh được hiểu là sinh sống, kế là cách thức, phương
pháp, phương cách. Sinh kế là phương thức kiếm sống, cách thức kiếm sống,
những hoạt động cần thiết để có được và đáp ứng những nhu cầu vật chất của
con người như ăn, ở, mặc và sinh hoạt. Có thể nói, sinh kế là một thành tố quan
trọng trong đời sống văn hóa tộc người, có tác động mật thiết và có ảnh hưởng
quan trọng đối với đời sống văn hóa, xã hội, chính trị.
Kể từ khi thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan
trọng. Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng
khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên (đạt ngưỡng thu nhập trung bình),
đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, đồng thời tạo ra nhu cầu và động
lực phát triển cho tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều đó, đã tạo ra
nhiều cơ hội thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế
theo hướng hiện đại.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nổi bật trên, thì Việt Nam vẫn cịn
nguy cơ nghèo và đói nghèo ở những khu vực vùng sâu vùng xa, đối với những
đối tượng đặc biệt như phụ nữ, trẻ em và các nhóm dân tộc thiểu số. Vì vậy,
xóa đói giảm nghèo là vấn đề then chốt của Việt Nam nhằm cải thiện đời sống
để phát triển bền vững. Trong đó, giải quyết triệt để gốc của đói nghèo đó là
sinh kế bền vững.
Vơ Tranh là một xã miền núi thuộc huyện Phú Lương. Trong những
năm qua, được sự quan tâm của các ngành, các cấp, xã Vô Tranh đã cố gắng

1


khai thác có hiệu quả những tiềm năng hiện có để thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, nên kinh
tế - xã hội của xã còn chậm phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có.


Nền nơng nghiệp mang tính chất manh mún, cơ sở sản xuất lạc hậu, năng
suất thấp. Cơng nghiệp, thủ cơng nghiệp mang tính chất nhỏ lẻ, sản xuất cầm
chừng chưa có thị trường xuất khẩu lớn. Giáo dục, y tế cịn nhiều bất cập,
trình độ dân trí nhất là vùng sâu, vùng xa cịn thấp đời sống văn hóa tinh
thần cịn nhiều hạn chế, thiếu đội ngũ lao động có tay nghề kỹ thuật. Đặc
biệt, tỷ lệ đói nghèo cịn cao. Xuất phát từ lý do đó, chúng tơi chọn đề tài
“Sinh kế của cư dân xã Vô Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên
(1986-2015)” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sinh kế là hoạt động tất yếu của con người để tồn tại và đã trở thành
một phần quan trọng của văn hóa tộc người. Nó được coi là thước đo đánh giá
sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Trong những năm gần đây, khi
hội nhập kinh tế với thế giới, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước phát
triển quan trọng, làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội. Tuy nhiên, trình độ
phát triển kinh tế chưa đồng đều ở các vùng, tỉnh. Nhiều nơi đời sống nhân
dân còn nghèo, đặt ra nhiều bài tốn cần giải quyết, trong đó có vấn đề sinh kế
của cư dân. Do vậy, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết của các khoa
học đi sâu phân tích về hoạt động sinh kế của người dân, đặc biệt chú ý đến
đời sống của cư dân nghèo khổ.
Dưới góc độ nghiên cứu về chiến lược sinh kế, sinh kế bền vững cho các
vùng, tỉnh, địa phương có thể xem xét các cơng trình nghiên cứu sau:

2


Năm 2006, PGS. TS Hoàng Mạnh Quân đã Nghiên cứu đặc điểm văn
hóa kiến thức bản địa và chiến lược sinh kế của đồng bào dân tộc thiểu số tại
Đakrong - Quảng Trị, nghiên cứu này được đăng trong tạp chí khoa học của
trường Đại học Nơng Lâm Huế, số 38. Trong nghiên cứu, tác giả đã làm rõ về
kiến thức bản địa và mối liên hệ của nó với chiến lược sinh kế của vùng đồng

bào dân tộc thiểu số. Đồng thời, tác giả cũng đánh giá những điểm tích cực và
hạn chế trong việc vận dụng kiến thức bản địa vào các hoạt động sinh kế.
Trong nghiên cứu này đề cập đến việc xây dựng một chiến lược sinh kế bền
vững để người dân tự xây dựng và phát triển chiến lược sinh kế cho bản thân và
gia đình vừa đảm bảo điều kiện sống hiện tại vừa bảo đảm cho sự phát triển
vững chắc cho tương lai.
Năm 2008, luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Phạm Anh Ngọc
nghiên cứu về Phát trển kinh tế hộ nơng dân ở huyện Phú Lương trong tiến
trình hội nhập kinh tế, quốc tế, trường Đại học Thái Nguyên. Đề tài đề cập
đến tình hình phát triển kinh tế, cơ sở vật chất - kĩ thuật của hộ nông dân
trong huyện. Trên cơ sở đó đề tài rút ra các giải pháp để phát triển kinh tế
hộ nông dân bền vững.
Năm 2010, trong luận văn thạc sĩ Lịch sử của tác giả Trần Thị Thanh
Huệ đã tìm hiểu về Sinh kế của người Dao huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng,
đề tài được hoàn thành tại trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên.
Trong luận văn, tác giả đã đề cập đến các hoạt động sinh kế của người Dao phù
hợp với địa hình, mơi trường, khí hậu như các hoạt động kinh tế trồng trọt,
chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp, khai thác các nguồn lợi từ tự nhiên, từng bước
đảm bảo nhu cầu cuộc sống. Trên cơ sở đó tìm hiểu các yếu tố mới tác động

3


đến sự biến đổi của hoạt động sinh kế nơi đây, đề ra giải pháp phù hợp đem lại
hiệu quả kinh tế cao.
Năm 2010, luận văn Thạc sĩ lịch sử với đề tài Chuyển biến về kinh tế - xã
hội huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2005),
tác giả Trần Minh Thu đã hoàn thành tại trường đại học Sư phạm - Đại học
Thái Nguyên. Đề tài đề cập đến sự chuyển biến về các mặt kinh tế - xã hội
huyện Phú Lương từ 1986 đến 2005, về nông - lâm - thủy sản, thủ cơng nghiệp,

tài chính trước và sau đổi mới. Qua đó rút ra được nhân tố tác động đến nền
kinh tế huyện Phú Lương.
Năm 2012, tác giả Quyền Thị Quỳnh Anh đã bảo vệ thành công luận văn
thạc sĩ Nghiên cứu mối quan hệ giữa sinh kế của người dân địa phương và hoạt
động bảo tồn ở khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long, Tỉnh Ninh
Bình, tại trường Đại học Quốc gia Hà Nội. Đề tài đã tổng quan về sinh học bảo
tồn; mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển. Nghiên cứu các hoạt động sinh kế
của cộng đồng dân cư tại vùng lõi khu bảo tồn và công tác bảo tồn thiên nhiên
của khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long. Tìm hiểu các hoạt động
sinh kế của cộng đồng địa phương và ảnh hưởng của các hoạt động đó tới khu
bảo tồn. Liệt kê và phân tích các hoạt động quản lý và bảo tồn và những ảnh
hưởng của chúng đối với cộng đồng địa phương. Đề xuất một số giải pháp nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý, bảo tồn của Vân Long.
Năm 2012, tác giả Phùng Văn Thạnh đã hoàn thành luận văn Thạc sĩ
kinh tế Giải pháp bảo đảm sinh kế bền vững cho các hộ dân khu tái định cư ở
quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng tại trường Đại học Đà Nẵng. Đề tài đánh
giá thực trạng đời sống kinh tế của cư dân khu tái định cư ở quận Cẩm Lệ,

4


thành phố Đà Nẵng. Đồng thời đưa ra giải pháp nhằm đảm bảo sinh kế bền
vững cho cư dân khu tái định cư.
Năm 2013, luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thu Quỳnh trường Đại học
Huế nghiên cứu về Bảo vệ và phát triển rừng gắn với sinh kế bền vững cho
người dân ở Tây Nguyên đã khai thác khía cạnh yếu tố tận dụng nguồn lực
tài nguyên rừng sao cho phục vụ tốt sinh kế bền vững của cư dân Tây
Nguyên, bởi rừng là nguồn tài nguyên chính, quan trọng đối với đời sống
kinh tế, xã hội của khu vực Tây Nguyên.
Năm 2013, với luận án tiến sĩ kinh tế Sinh kế bền vững vùng ven biển

Đồng bằng sơng Hồng trong biến đổi khí hậu: Nghiên cứu điển hình tại tỉnh
Nam Định của tác giả Vũ Thị Hồi Thu tại trường Đại học kinh tế Quốc dân, đã
phân tích, đề ra những sinh kế bền vững vùng ven biển Đồng bằng sơng Hồng
trong điều kiện biến đổi khí hậu. Tác giả nhấn mạnh đến sự biến đổi khí hậu là
nhân tố có ảnh hưởng đến hoạt động sinh kế của cư dân nơi đây. Đồng thời đặt
ra vấn đề làm thế nào để có những hoạt động sinh kế bền vững, những giải
pháp nào cho sinh kế bền vững trong bối cảnh đó.
Năm 2014, tác giả Đinh Chung Kiên đã thực hiện thành công luận văn
Thạc sĩ về Nghiên cứu đề xuất định hướng sinh kế bền vững gắn với bảo tồn và
phát huy giá trị của tài nguyên địa hình ở Vịnh Bái Tử Long. Đề tài được hoàn
thiện tại trường Đại học khoa học tự nhiên - ĐHQGHN. Trong ngiên cứu tác
giả nhấn mạnh tầm quan trọng của tài nguyên địa hình ở Vịnh Bái Tử Long đối
với hoạt động sin kế của cư dân địa phương. Từ đó, đề tài đã đề xuất định
hướng hoạt động sinh kế bền vững gắn liền với yếu tố địa hình sao cho vừa
nâng cao đời sống người dân, vừa bảo vệ và phát huy giá trị tài nguyên này.

5


Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Văn Cường về Nghiên cứu cải
thiện sinh kế trong khai thác hải sản đối với ngư dân vùng ven biển Hải Phịng
được hồn thành năm 2015 tại trường Đại học nông nghiệp - Học viện nông
nghiệp Việt Nam, đã nghiên cứu sinh kế dưới khía cạnh hoạt động sinh kế khai
thác thủy sản. Đối với cư dân vùng biển, hoạt động khai thác hải sản được xem
là hoạt động sinh kế chính. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn chưa thực sự có hiệu
quả so với tiềm năng của biển. Đề tài đã đề ra những giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động sinh kế này.
Cũng trong năm 2015, luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Tám về Sinh kế
của cư dân các làng chài dọc sông Lô thuộc địa phận 2 tỉnh Tuyên Quang và
Phú Thọ tại Học viện Khoa học xã hội. Đề tài nghiên cứu hoạt động sinh kế

nghề làng chài của cư dân tỉnh Tuyên Quang và Phú Thọ. Từ đó, đưa ra nhận
xét nhân tố tác động cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế của cư dân
làng chài.
Tạp chí khoa học, tập 31, số 5, năm 2015, tác giả Bùi Văn Tuấn đã
nghiên cứu về Thực trạng và giải pháp đảm bảo sinh kế bền vững cho cộng
đồng cư dân ven đô Hà Nội trong q trình đơ thị hóa. Tác giả đặt vấn đề
đơ thị hóa là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sinh kế
của cư dân ven đơ Hà Nội. Do đó, vấn dề đặt ra là làm sao đảm bảo tính
bền vững trong các hoạt động sinh kế của cư dân nơi đây. Tác giả đã đề
xuất những giải pháp khắc phục những hạn chế thiếu tính bền vững trong
hoạt động sinh kế của cư dân trong q trình đơ thị hóa sau khi đã nghiên
cứu, khảo sát thực tế.

6


Năm 2015, trong tạp chí khoa học của trường Đại học Cần Thơ, số 38,
trang 120 - 129, tác giả Võ Văn Tuấn và Lê Cảnh Dũng đã nghiên cứu về Các
yếu tố ảnh hưởng đến kết quả sinh kế của nông hộ ở Đồng Bằng Sông Cửu
Long. Các tác giả đã nghiên cứu hoạt động sinh kế của các nông hộ ở Đồng
bằng sông Cửu Long và những yếu tố tác động đến hoạt động sinh kế của cư
dân nơi đây.
Như vậy, điểm qua các cơng trình mà tác giả luận văn đã được tiếp cận
có thể thấy, vấn đề sinh kế đã được nhiều học giả nghiên cứu, quan tâm dưới
nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu về sinh
kế của cư dân xã Vô Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu các hoạt động sinh kế của cư dân xã Vô Tranh.
Chỉ ra các yếu tố tác động đến việc lựa chọn sinh kế cũng như ảnh hưởng
đến hoạt động sinh kế của cư dân xã Vô Tranh.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Sinh kế của người dân xã Vô Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên
bao gồm các hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, dịch vụ,... đảm bảo
cuộc sống của cư dân.
Phạm vi nghiên cứu
Các hoạt động sinh kế của cư dân thuộc địa bàn xã Vô Tranh, huyện Phú
Lương, tỉnh Thái Nguyên trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2015.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tìm hiểu điều kiện tự nhiên, dân cư, xã hội của xã Vô Tranh, những yếu tố
này là nguồn lực ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của cư dân xã Vô Tranh.

7


Các hoạt động sinh kế của cư dân xã Vô Tranh từ năm 1986 đến năm 2015.
Các chính sách hỗ trợ của Đảng và Nhà nước, các nguồn lực lực ảnh hưởng
đến sinh kế của cư dân và các giải pháp góp phần giúp sinh kế bền vững.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1 Nguồn tư liệu
Được tác giả sử dụng trong đề tài bao gồm
Các cơng trình nghiên cứu là sách, các luận văn, luận án, các bài viết trên
tạp chí liên quan đến vấn đề sinh kế.
Nguồn tư liệu tác giả thu thập từ khảo sát thực tế, đó là các báo cáo do
Ủy ban nhân dân xã Vơ Tranh, các xóm cung cấp, nguồn tư liệu từ quan sát
tham dự, phỏng vấn sâu các hộ gia đình.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic là chủ yếu
kết hợp với việc sử dụng phương pháp điền dã, thống kê, so sánh, tổng hợp để
làm rõ các hoạt động, hiệu quả hoạt động sinh kế của cư dân xã Vô Tranh.

Phương pháp lịch sử là phương pháp tái hiện trung thực bức tranh về
hoạt động sinh kế của cư dân trong xã Vơ Tranh theo đúng trình tự thời gian và
không gian từ 1986 đến 2015.
Nhiệm vụ của phương pháp lịch sử là thông qua các nguồn tư liệu để
nghiên cứu và phục dựng đầy đủ các điều kiện hình thành, quá trình ra đời, phát
triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của các hoạt động sinh kế của cư
dân trong xã. Đồng thời đặt q trình phát triển đó trong mối quan hệ tác động qua
lại với các nhân tố liên quan khác trong suốt q trình vận động của chúng, từ đó
có thể dựng lại bức tranh chân thực của sự vật, hiện tượng như đã xảy ra.
Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu tổng quát các sự kiện,
hiện tượng lịch sử, loại bỏ các yếu tố ngẫu nhiên, không cơ bản để làm bộc lộ
rõ đặc điểm kinh tế của cư dân xã Vô Tranh từ 1986 đến năm 2015, Đường lối,
8


chính sách của Đảng và Nhà nước hỗ trợ cho người dân Vơ Tranh xóa đói,
giảm nghèo, phát triển sinh kế.
Phương pháp điền dã dân tộc học được sử dụng nhằm thu thập những
thơng tin đầy đủ, có giá trị và mang tính chân thực về hoạt động sinh kế của cư
dân xã Vô Tranh với việc quan sát cảnh quan chung của xóm, sinh kế, các hoạt
động sản xuất của các gia đình. Phương pháp phỏng vấn để thu thập tư liệu về
thu nhập của các hộ gia đình từ các hoạt động sinh kế, cách thức sản xuất, nguyện
vọng của người dân…
6. Đóng góp của đề tài
Là cơng trình đầu tiên nghiên cứu hoạt động sinh kế của cư dân xã Vô
Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.
Qua nghiên cứu hoạt động sinh kế của cư dân xã Vơ Tranh nhận diện
được những đóng góp của người dân Vô Tranh trong sự phát triển kinh tế- xã
hội của đất nước.
Gợi ý những giải pháp góp phần làm nâng cao đời sống kinh tế của xã

Vô Tranh.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, mục lục, tài liệu tham khảo, đề tài cấu trúc nội dung
gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về xã Vô Tranh
Chương 2: Hoạt động sinh kế của cư dân xã Vô Tranh (1986 - 2015)
Chương 3: Đánh giá hiệu quả và các yếu tố tác động đến sinh kế của cư
dân xã Vô Tranh.

9


Chương 1
KHÁI QT VỀ XÃ VƠ TRANH
1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Xã Vơ Tranh nằm ở phía Đông Nam của huyện Phú Lương, cách thành
phố Thái Nguyên khoảng 10km về phía Tây Bắc. Phía bắc giáp với xã Tức
Tranh, phía nam giáp với xã Cổ Lũng và Sơn Cẩm. Phía đơng với xã Minh
Lập của huyện Đồng Hỷ, phía tây giáp với thị trấn Giang Tiên và xã Phấn Mễ.
Đến năm 2015, xã Vô Tranh bao gồm 25 đơn vị hành chính cấp xóm, đó
là các xóm:
Liên Hồng 1, Liên Hồng 2, Liên Hồng 3, Liên Hồng 4, Liên Hồng 5,
Liên Hồng 6, Liên Hồng 7, Liên Hồng 8.
Thống Nhất 1, Thống Nhất 2, Thống Nhất 3 và Thống Nhất 4
Trung Thành 1, Trung Thành 2, Trung Thành 3 và Trung Thành 4
Tân Bình 1, Tân Bình 2, Tân Bình 3 và Tân Bình 4
Cầu Bình 1 và Cầu Bình 2
Tồn Thắng
Bình Long
Xóm 1/5

Vơ Tranh có diện tích tự nhiên 1.837,6 ha (18,376 m2). Độ cao trung
bình từ 100m đến 180m, địa hình nghiêng theo hướng Tây Bắc xuống Đông
Nam. Núi ở Vô Tranh không cao, chỉ có dãy núi Lim xếp theo hình vịng cung,
án ngữ ở phía Tây Bắc của xã. Phía Tây Nam có dãy núi Trà Lâu và Đồng Ben.
Đây là dãy núi có ngọn cao nhất ở địa phương, cịn chủ yếu là đồi gị lơ nhơ
như bát úp (chiếm 70% diện tích tự nhiên của tồn xã) mang đặc điểm nổi bật
của địa hình đồi núi trung du phía Bắc Bắc Bộ. Cấu tạo thổ nhưỡng của Vô

10


Tranh chủ yếu là đất thịt pha sét của vùng đồi. Đất ở đây lẫn nhiều chất sắt nên
có màu vàng. Ngồi đất đồi, ở các bãi soi ven sơng của xã cịn có một lượng đất
phù sa do sơng Cầu bồi đắp. Đất canh tác nơng nghiệp của tồn xã chiếm tới
1.461,1 ha. Trong đó đất trồng lúa 2 vụ chiêm 628 ha nằm ở vùng thấp và xen
trong các hẻm đồi, trên gị. Diện tích lúa mùa là 300ha, lúa chiêm là 328 ha.
Đất trồng hoa màu chỉ vào khoảng gần 100 ha. Riêng đất trồng cây chè chiếm
tới 600 ha gần bằng một nửa diện tích đất nông nghiệp. Cây chè không yêu cầu
nghiêm ngặt về đất, song cây chè thích hợp trên đất nhiều mùn, tơi xốp có tầng
canh tác dày trên 50 cm, độ dốc bình qn khơng q 25°. Đất trồng chè phần
lớn là đất đỏ vàng feralit (tích lũy sắt, nhơm) phát triển trên đá granit, gnai,
phiến thạch sét và mica. Đất chua, nghèo chất hữu cơ, hàm lượng dinh dưỡng
NPK tổng số, dễ tiêu và các chất dinh dưỡng trung và vi lượng đều nghèo....
Khác với một số loại cây trồng khác, cây chè ưa đất có phản ứng chua (pH 5,0
đến 5,5) để thuận tiện cho quá trình hấp thu tốt nhất dinh dưỡng khoáng của
cây. Đất trồng cây ăn quả gồm vải, nhãn là 100 ha, còn lại là đất ở, đất thủy lợi
và đất nuôi thủy sản.
Khi xưa, rừng của xã Vô Tranh nhiều gỗ quý hiếm như đinh, lim, sến táu
và nhiều giống thú quý như hổ, báo, hươu, nai, chồn cáo cùng nhiều loại chim
như gà rừng, cu gáy,... Trong những năm kháng chiến, rừng Vô Tranh là nơi cất

giấu vũ khí, che chở cho dân làng, kho tàng và bộ đội. Đã có thời kỳ dọc theo
các bìa rừng ‘‘Đường Gịng” dài hơn 5km của xã là nơi cất giấu những téc xăng
của quốc phòng, những bộ phận máy móc của các nước Liên Xơ, Trung Quốc
viện trợ cho Việt Nam. Do con người và chiến tranh tàn phánên tài nguyên
rừng hầu như cũng cạn kiệt. Hiện nay, chủ yếu là rừng tái sinh.
Vô Tranh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nắng lắm mưa nhiều.
Do vị trí địa lý nên nơi đây chia thành 4 mùa xuân, hạ, thu, đông rất rõ rệt. Nền
nhiệt trung bình hàng năm vào khoảng 20 đến 250C, mùa đông nhiều khi xuống

11


đến 180C thậm chí có khi cịn xuống 7 đến 80C. Lượng mưa trung bình hàng
năm từ 1800mm đến 2000mm. Độ ẩm trung bình khoảng 75%.
Vơ Tranh có sơng Cầu chảy qua phía đơng của xã, đồng thời cũng là ranh
giới tự nhiên giữa Vô Tranh với xã Minh Lập của huyện Đồng Hỷ. Chỉ chảy
ven theo xã chừng 4km, nhưng giá trị của sông Cầu khá quan trọng với người
dân nơi đây. Ngoài việc cấp nước cho sinh hoạt, cho tưới tiêu trong nơng
nghiệp, sơng Cầu cịn là đường giao thơng nối các xã trong vùng phía đơng
Phú Lương với xã Minh Lập (Đồng Hỷ) xuôi về Sơn Cẩm về thành phố Thái
Nguyên. Sông Cầu cùng các khe, suối, ao hồ của xã có diện tích mặt nước khá
lớn, tiện lợi cho nuôi trồng thủy hải sản, là nơi cung cấp một lượng nước lớn
cho nhân dân trong vùng sản xuất nông nghiệp.
Chế độ thủy văn ở đây thay đổi theo mùa rất rõ rệt. Mực nước của
sông, suối, ao hồ lên xuống phụ thuộc vào chế độ mưa hàng năm. Nước
thường lên cao về mùa hạ gây ra lũ lụt, mùa đông khô cạn gây ra hạn hán.
điều đó cũng ảnh hưởng khơng nhỏ đến canh tác nơng nghiệp và đời sống của
nhân dân địa phương.
Vô Tranh không có quốc lộ chạy qua, nhưng cách quốc lộ 3 khoảng 2km.
Đường giao thông từ Giang Tiên nối quốc lộ 3 với trung tâm xã đã được nhựa

hóa từ khá sớm, thuận tiện cho việc đi lại và giao lưu bn bán của người dân.
Tuy nhiên, do đường cịn hẹp, kết cấu vật liệu chưa đáp ứng yêu cầu hiện tại
nên cần được sửa chữa và nâng cấp.
Xã Vô Tranh có 54,86km đường giao thơng. Trục đường liên xã 12km đã
được nhựa hóa đạt trên 50%. Tuy nhiên đường trong thơn xóm có 32km mới
cứng hóa được 2,3km đạt 0,71%. Đường nội đồng chủ yếu là đường đất còn
khoảng 38km rất khó khăn cho việc đi lại của bà con trong xã. Ngay đường
trong 8 xóm Liên Hồng hiện tại cịn hẹp, bởi vậy vấn đề giao thơng trong xã
cịn nhiều hạn chế cần khắc phục.

12


1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội
1.2.1. Đặc điểm kinh tế
Nơng nghiệp trồng lúa nước chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế xã
Vơ Tranh. Tổng diện tích gieo trồng năm 2012: 612ha đạt 100% kế hoạch, đạt
96,6% so với cùng kỳ năm 2011.
Tổng sản lượng lương thực cây có hạt: 3.216,4 tấn đạt 101,6% kế hoạch,
đạt 96% so với năm 2011. Trong đó:
Về diện tích cấy lúa năm 2012: 512ha đạt 100 % kế hoạch, đạt 97 % so với
cùng kỳ, sản lượng cả năm 2.846 tấn đạt 103,3% , đạt 101% so với năm 2011.
Diện tích lúa xuân 228ha, năng suất đạt 57,6 tấn, sản lượng 1.315,5 tấn.
Diện tích lúa mùa 284ha, năng suất đạt 52,5, sản lượng đạt 1.491 tấn.
Thực hiện nhiệm vụ năm 2013 theo Nghị quyết kỳ họp thứ 6 Hội đồng
nhân dân xã, trong bối cảnh chung của nền kinh tế bị suy giảm, hộ sản xuất,
kinh doanh gặp nhiều khó khăn, tình hình thiên tai, dịch bệnh vẫn diễn biến
phức tạp; trước tình hình đó, UBND xã đã tập trung chỉ đạo triển khai đồng bộ
các giải pháp trên các lĩnh vực kinh tế, văn hố xã hội, nội chính, đẩy mạnh cải
cách hành chính theo cõ chế ‘Một cửa’, phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội nông

thôn, xây dựng nơng thơn mới Sản lượng lương thực cây có hạt đạt 2.899 tấn đạt
97,2% kế hoạch giao, đạt 90,1% so với cùng kỳ. vụ xuân gieo xạ 100ha đạt
44%, cấy 128ha đạt 56%. Lúa thuần 203 ha, lúa lai 25 ha. Năng suất bình quân
đạt 54,72 tạ/ha, sản lượng đạt 1.248 tấn vụ mùa diện tích 281,13 ha, năng suất
đạt 48,05 tạ /ha, sản lượng đạt 1.350 tấn. Trong năm tình hình thời tiết có nhiều
diễn biến phức tạp, mưa lớn kéo dài liên tiếp xảy ra do ảnh hưởng của các cơn
bão, 45 ha lúa bị mất trắng và nhiều nhà bị tốc mái, trước tình hình đó UBND
xã đã tập trung chỉ đạo đảm bảo an toàn, hạn chế thiệt hại và khắc phục kịp thời
các hậu quả gây ra, các cơng trình thuỷ lợi đã được khắc phục sửa chữa, nâng
13


cấp, vừa phát huy hiệu quả chống lũ, vừa phục vụ tưới tiêu cho sản xuất và nuôi
trồng thuỷ sản; diện tích ni trồng thủy sản 38 ha (Trong đợt mưa bão đã bị
thiệt hại 16 ha hiện tại còn 22ha, sản lượng 24,3 tấn đạt 80% kế hoạch giao).
Xã Vơ Tranh có điều kiện phát triển kinh tế, đất phù sa, đất pha cát phù
hợp trồng lúa, đất đỏ bazan, đất ferarit thuận lợi phát triển cây chè. Ngoài ra
còn phù hợp phát triển các cây trồng khác (xem bảng 1.1)
Bảng 1.1: Tình hình sử dụng đất đai của xã năm 2013
Chỉ tiêu

Số lượng (ha)

Cơ cấu (%)

Tổng diện tích đất tự nhiên

1837,60

100


Đất nông nghiệp

1461,05

79,5 %

Đất trồng cây hàng năm

362,24

19,7%

Đất trồng cây lâu năm

761,90

41,5%

Ao hồ thủy sản

33,10

1,8%

Đất lâm nghiệp

303,81

16,5%


Đất phi nơng nghiệp

375,09

20,5%

Đất ở

82,33

4,5%

Đất chun dùng

223,40

12%

Đất chưa sử dụng

1,46

0,08%

(Nguồn: Văn phịng UBND xã cung cấp)
Qua bảng trên cho thấy đến năm 2013 diện tích đất tự nhiên có 1.838 ha
bao gồm đất nơng nghiệp 1.461 ha chiếm gần 80% diện tích trong đó đất trồng
cây lâu năm chiếm 761 ha chiếm trên 40% tổng diện tích; đất phi nơng nghiệp
chiếm 20%; đất lâm nghiệp chiếm 16,5%; đất chuyên dùng chiếm 12%, cịn lại

là đất khác như đất ở, đất ni thủy sản, đất chăn ni gia súc, gia cầm,… và
phần cịn lại chưa sử dụng chiếm 0,08%.

14


Theo thơng kê đến năm 2015, xã có 2.367 hộ với trên 8.000 nhân khẩu
chủ yếu tập trung ở nông thơn. sản xuất nơng nghiệp có nhiều bước phát triển
và đạt được nhiều thành tựu Sản lượng lương thực cây có hạt đạt 2.700 tấn đạt
90% so với cùng kỳ.
Sản lượng chè búp tươi ước đạt 6.667 tấn đạt 1.333 tấn chè búp khơ
(100% kế hoạch), diện tích chè trồng mới và trồng lại 55ha/40ha đạt 137% kế
hoạch huyện giao, trong đó chè trồng mới 02 ha, chè trồng lại 53ha.
Tỷ lệ độ che phủ rừng ổn định ở mức 18%. Diện tích trồng rừng sản xuất
là 15 ha đạt 100% kế hoạch giao, tổng sản lượng gỗ khai thác ước đạt 400m3
đạt 100% kế hoạch.
Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn 531.264.000/474.000.000đ đạt
112,08% kế hoạch năm 2014.
Tạo việc làm mới cho 150/110 lao động đạt 136% kế hoạch giao, số lao
động xuất khẩu trong năm 9/8 đạt 112%, tổng số lao động được đào tạo nghề
trong năm 80/80 đạt 100%.
Công tác giảm nghèo: Giảm tỷ lệ hộ nghèo 2,21% so với kế hoạch giao
(2,35%), không đạt so với chỉ tiêu giao.
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo 100 người đạt 125% kế hoạch giao.
Giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng dưới 5T: 12% đạt 100 % kế hoạch huyện giao.
Tăng dân số tự nhiên 1,31%.
Tỷ lệ dân cư sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh ở nông thôn đạt 95 %.
Tỷ lệ hộ sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh đạt 75% đạt 100% kế hoạch giao.
Xây dựng nơng thơn mới : Tính đến nay xã Vơ Tranh đã đạt được 11/19
tiêu chí xây dựng nơng thôn mới.

Trong năm 2014, mặc dù gặp nhiều tác động xấu của thời tiết, dịch bệnh
ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp nhưng với sự chỉ đạo quyết liệt, áp dụng

15


các giải pháp kỹ thuật trong canh tác, tiếp nhận nhiều chính sách hỗ trợ sản
xuất như: Về giống, phân bón và sản xuất lúa lai. Nên tình hình sản xuất nông
nghiệp năm 2014 của xã khá ổn định. Tổng sản lượng lương thực cây có hạt đạt
2.700 tấn. (Tổng diện tích lúa cả 2 vụ đạt 508 ha, diện tích lúa cao sản 285ha
chiếm 56% tổng diện tích, năng suất bình quân 60 tạ/ha, sản lượng đạt 295 tấn;
tổng diện tích ngơ gieo trồng 66ha, sản lượng 285 tấn đạt 105%. Năng suất các
loại cây rau mầu khác đều đạt theo kế hoạch đề ra).
Năm 2014, UBND đã tập trung xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm
chè, đặc biệt là phát triển các làng nghề truyền thống; chất lượng, giá trị các sản
phẩm chè ngày càng được nâng lên. Sản lượng chè búp tươi ước tính 6.667 tấn
đạt 1.333 tấn chè búp khô đạt 100% kế hoạch huyện giao. Diện tích chè trồng
mới và trồng lại 55ha/40ha đạt 137% kế hoạch huyện giao, trong đó chè trồng
mới 02 ha, chè trồng lại 53ha.
Công tác quản lý, bảo vệ rừng được thực hiện tốt, phát huy được hiệu
quả của kinh tế từ rừng; thực hiện tuyên truyền, chỉ đạo cơng tác phịng, chống
cháy rừng và quy chế phối hợp trách nhiệm bảo vệ rừng trên địa bàn xã; diện
tích trồng rừng sản xuất là 15 ha đạt 100%, tổng sản lượng gỗ khai thác ước đạt
400 m3 đạt 100% kế hoạch.
Năm 2015, tình hình chăn ni cơ bản ổn định, tổng sản lượng thịt hơi
xuất chuồng ước đạt 1.116 tấn đạt 110%. Thực hiện tốt các biện pháp vệ sinh
thú y, phòng, chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm; tăng cường cơng
tác kiểm dịch, kiểm sốt giết mổ tại khu chợ nằm trên địa bàn, khu giết mổ
để ngăn chặn việc tiêu thụ các sản phẩm động vật nhiễm bệnh; trong năm
tình hình dịch bệnh ổn định; đã tổ chức tiêm phòng với 5.773 liều vaccin các

loại, tổng đàn trâu, bò: 211/168 con đạt 126% kế hoạch giao, đàn lợn:
7000/7000 con đạt 100 kế hoạch giao, đàn gia cầm: 50.000/40.000 con đạt
125% kế hoạch giao.

16


Trong năm tình hình thời tiết có nhiều diễn biến phức tạp, mưa lớn kéo
dài liên tiếp xảy ra do ảnh hưởng của các cơn bão, 45 ha lúa bị mất trắng và
nhiều nhà bị tốc mái, trước tình hình đó UBND xã đã tập trung chỉ đạo đảm
bảo an toàn, hạn chế thiệt hại và khắc phục kịp thời các hậu quả gây ra, các
cơng trình thuỷ lợi đã được khắc phục sửa chữa, nâng cấp, vừa phát huy hiệu
quả chống lũ, vừa phục vụ tưới tiêu cho sản xuất và ni trồng thuỷ sản; diện
tích ni trồng thủy sản 38 ha (Trong đợt mưa bão đã bị thiệt hại 16 ha hiện tại
còn 22ha, sản lượng 24,3 tấn đạt 80% kế hoạch giao).
Cơng tác giải phóng mặt bằng luôn được quan tâm chỉ đạo và thực hiện
tốt, từ năm 2010 đến hết năm 2015 có 32 cơng trình xây dựng, đã vận động 345
hộ gia đình hiến 38.766 m² đất và cơng trình, tài sản trên đất. Vận động người
dân giao đất phục vụ dự án đường Quốc lộ 3 đi qua địa bàn xã, các hộ dân đã
tích cực hưởng ứng, giao đất đúng theo tiến độ đã đề ra, khơng có hộ nào gây
khó khăn, cản trở cho dự án.
Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ cơng nghiệp và dịch vụ đã có sự chuyển
biến tích cực. Đến nay, trên địa bàn xã có 106 hộ sản xuất, kinh doanh trong đó:
12 cơ sở gia cơng cơ khí, 15 cơ sở chế biến gỗ, 45 cơ sở dịch vụ vận tải, 34 cơ
sở thương nghiệp, có 03 hợp tác xã, 02 doanh nghiệp tư nhân hoạt động có hiệu
quả; hàng năm tạo việc làm cho nhiều lao động ở địa phương, góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Đảng ủy chủ trương đẩy mạnh phát triển các làng nghề
truyền thống, đến nay trên địa bàn xã đã có 7 làng nghề sản xuất và chế biến
chè được công nhận.
1.2.2. Đặc điểm xã hội

Vô Tranh là miền đất đã hình thành từ rất lâu đời. Ngay từ thời xa xưa
Vơ Tranh đã có nhiều tộc người sinh sống và họ có tinh thần yêu nước nồng
nàn, chung lưng sát cánh để bảo vệ quê hương, làng xóm.

17


Từ xưa, nhân dân đã sống quần tụ thành các làng bản, xóm thơn u
thương đùm bọc lấy nhau theo truyền thống ‘‘Lá lành đùm lá rách”. Trong thời
Pháp thuộc, bọn thực dân, đế quốc dùng thủ đoạn ‘‘Chia để trị” rất thâm độc,
nhưng cũng khơng tách rời được tình làng nghĩa xóm.
Theo số liệu thống kê của Ủy ban nhân dân xã, đến năm 2015, Vơ Tranh
có 8.603 người,mật độ trung bình khoảng 46,8 người/km2 với 8 dân tộc anh em
cùng sinh sống: Kinh, Tày, Nùng, Sán chay, Dao, Mơng, Thái và K’Ho.
Các dân tộc nơi đây tuy có nguồn gốc từ nhiều miền khác nhau, họ mang
những bản sắc khác nhau tạo nên vùng văn hóa đa sắc màu. mỗi dân tộc đều có
riêng sắc thái văn hóa, biểu hiện ở trang phục, nghi lễ thờ cúng tổ tiên, trong
các làn điệu dân ca, dân vũ... Người Sán Chay có điệu Sình Ca, người Nùng có
hát ‘Sli”, người Tày có hát Then, người Kinh có hát Chèo,... tất cả đều rất hài
hòa và trở thành nét đẹp đa dạng trong văn hóa. Bởi vậy trong các ngày lề tết,
hội hè truyền thống, văn hóa từ vốn liếng riêng của mỗi dân tộc ấy được bộc lộ
càng thêm phong phú, đa dạng.
Các dân tộc đều có tục thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ,... về nghi lễ của
từng dân tộc có sự khác biệt nhưng đều thể hiện đạo hiếu của con cháu. Nếu
người Kinh có tục cúng giỗ cha mẹ vì nhớ ngày chết thì người Tày, Nùng, Cao
Lan lại tổ chức ăn sinh nhật để nhớ ngày sinh...
Từ xa xưa, đồng bào ở Vô Tranh theo đạo Phật, thờ Thánh, phật ở đền,
chùa, thờ Thổ công trong nhà, thờ Thành Hồng làng ở đình,... Từ sau năm
1975 người miền xi lên phát triển kinh tế, thì Thiên Chúa Giáo được du nhập.
Tuy nhiên dù là đạo nào đi chăng nữa thì người dân nơi đây đều sống theo tâm

nguyện ‘‘Tốt đời đẹp đạo” nên đoàn kết thương u hết lịng khơng phân biệt.

18


Bảng 1.2: Diện tích đất, cơ sở thờ tự của các tơn giáo
Diện tích (m2)

Số lượng cơ sở thờ tụ
Đã được cấp

Tơn Giáo

Năm

Năm

Năm

Năm

giấy chứng

2003

2015

2013

2015


nhận quyền

Số điểm
có tranh

sử dụng đất

chấp

Phật giáo

0

0

0

1

0

0

Cơng giáo

1.240

1.240


02

02

02

0

Tin Lành

0

0

0

0

0

0

1.240

1.240

02

02


02

0

Tổng cộng

(Nguồn: Văn phịng UBND xã cung cấp.)
Với chính sách ngu dân để dễ cai trị, bọn thống trị thực dân không cho mở
trường học, lớp học. Ba xã Vơ Tranh, Tức Tranh và Phú Đơ lúc đó chỉ có một
trường tiểu học đặt ở tổng Tức Tranh. Trường học chỉ dành cho con em nhà giàu,
còn đại bộ phận con em nông thôn đều thất học. Hơn 80 năm dưới ách đô hộ của
thực dân Pháp, người dân Vơ Tranh có đến 95% mù chữ nên tình hình dân trí
thời kỳ này tối tăm lạc hậu. Sau khi miền Bắc được giải phóng (năm 1954), đặc
biệt từ sau năm 1975, sự nghiệp giáo dục của xã Vô Tranh phát triển nhanh
chóng. Tồn xã có trên 1000 học sinh từ mẫu giáo đến trung học cơ sở gồm 4
trường. Trường Tiểu học Vô Tranh là một đơn vị đạt tiên tiến cấp tỉnh nhiều năm
liền, có nhiều giáo viên dạy giỏi, nhiều học sinh giỏi đạt giải cấp tỉnh. Trường
cũng là đơn vị đạt chuẩn quốc gia mức độ hai sớm nhất của ngành giáo dục
huyện Phú Lương. Từ năm 1986, số học sinh THPT ngày càng tăng, không ít
con em địa phương trong xã Vô Tranh đang theo học tại các trường Cao đẳng,
Đại học trên địa bàn tỉnh. Theo thống kê của Ủy ban nhân dân xã, đến năm 2005
trên 8000 dân của xã thì số người có trình độ sơ cấp là 1030, Trung cấp 426, Cao
đẳng, Đại học chiếm 311 xấp xỉ 25%.

19


Cơng tác chăm sóc sức khỏe của người dân được quan tâm. Trạm xá xã
Vô Tranh hiện đã đạt chuẩn quốc gia với đội ngũ y, bác sĩ có trình độ, y đức
cùng với các trang thiết bị đầy đủ và hiện đại. Vì vậy, đảm bảo việc chăm sóc

sức khỏe của nhân dân, tuổi thọ trung bình của người dân ngày càng cao.
Vô Tranh là một trong những xã thuộc huyện Phú Lương có đơn vị Trại
giam Phú Sơn 4 đóng trên địa bàn. Đây là đơn vị được nhà nước 2 lần phong
tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tuy là đơn vị độc lập trực thuộc
Trung ương nhưng có mối quan hệ rất gắn bó và giúp đỡ với địa phương. Đặc
biệt trong những công trình lớn như trạm điện, trạm bơm, đường xá, cầu cống,
trường học,... Có thể nói đóng góp xây dưng địa phương là truyền thống của
các đơn vị an ninh và lực lượng vũ trang nói chung từ xưa đến nay. Ngược lại
Đảng bộ, chính quyền nhân dân địa phương cũng ln tạo điều kiên cho đơn vị
hồn thành tốt nhiệm vụ. Địa phương coi dơn vị gắn bó như người nhà, ln là
tai mắt, cảnh giác, giữ bí mật, giúp đỡ đơn vị hồn thành suất sắc nhiệm vụ. Đó
cũng là niềm tự hào, vinh dự chung của nhân dân các dân tộc xã Vơ Tranh.
Hiện nay, nhiều cơng trình hạ tầng của xã được xây dựng quy củ:trụ sở
UBND, trường học, trạm y tế, bưu điện văn hóa,.... Nhà ở của người dân đã
có 92% là nhà xây, trong đó có tới 50% được kiên cố hóa. Tuy nhiên, xã Vơ
Tranh vẫn cịn tới gần 8% nhà dân là nhà tranh, vách đất cần được nâng cấp
trong giai đoạn xây dựng nơng thơn mới. Về điện, xã có 6 trạm biến áp công
suất từ 150 đến 250 KVA phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Mương máng tưới
tiêu ở đây trong số 144,3km mương chính và 10km mương nội đồng đã được
cứng hóa 5km. Xã đã xây được 4 đập nước với 4 trạm bơm, nên công tác
thủy lợi phục vụ cho nông nghiệp rất thuận tiện. Các công trình phúc lợi như
nhà văn hóa các xóm, nghĩa trang liệt sĩ, chợ nông thôn,... khá đầy đủ phục
vụ nhu cầu dân sinh của địa phương.
20


Đẩy mạnh việc chuyển giao, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, trong
đó chú trọng đến yếu tố giống, kỹ thuật canh tác và phòng chống dịch bệnh.
UBND xã thường xuyên phối hợp với các phòng chức năng của UBND
huyện kiểm tra về nguồn gốc, xuất xứ, chất lượng của sản phẩm; đối với các

hộ kinh doanh thuộc bảo vệ thực vật đều được qua đào tạo, bồi dưỡng kiến
thức thường xuyên, có chứng chỉ hành nghề, địa điểm bán phù hợp với quy
định. Vấn đề thủy lợi của địa phương chủ yếu phụ thuộc vào 2 đường cung
cấp chính từ các trạm bơm lấy nước từ Sơng Cầu, Sông Đu, đập nước Khe
Dạt tổng là 4 trạm; nguồn nước dùng tưới chè chủ yếu do các hộ dân chủ
động từ giếng đào. Đến năm 2015, xã Vô Tranh có tổng 14km kênh mương
chính đã cứng hóa 5,8km cịn 8,2km, kênh nội đồng cịn 4km chưa cứng hóa.
Xã Vơ Tranh có 04 trường học: trong đó 1 trường mẫu giáo, 2 trường
tiểu học và 1 trường trung học cơ sở số học sinh đầu năm 1.472 em, số giáo
viên 106 người. Công tác giáo dục và đào tạo của xã đã thu được nhiều kết quả
quan trọng, chất lượng dạy và học từ bậc mầm non đến bậc trung học đều được
nâng lên. Việc triển khai thực hiện các chương trình, các cuộc vận động về giáo
dục được thực hiện đồng bộ, công tác phổ cập giáo dục ở các cấp học được thực
hiện và duy trì tốt, tỷ lệ trẻ 5 tuổi được huy động đến trường cao. Xã có Trung
tâm học tập cộng đồng, đã đi vào hoạt động ổn định. Cơng tác xã hội hóa giáo
dục, công tác khuyến học, khuyến tài được các ban, ngành, đồn thể và nhân dân
Vơ Tranh thực hiện có hiệu quả.
Hiện tại, có 3/4 trường của xã đạt chuẩn Quốc gia, trường tiểu học Vô
Tranh đạt I chuẩn mức độ II, trường Tiểu học 2 đạt chuẩn mức độ I. Xã cũng
duy trì và giữ vững phổ cập giáo dục trung học cơ sở, phổ cập giáo dục bậc tiểu

21


học đúng độ tuổi và phổ cập mầm non 5 tuổi, từng bước triển khai thực hiện đề
án phổ cập bậc trung học phổ thông.
Hoạt động của Trung tâm học tập cộng đồng có nhiều tiến bộ, thu hút và
tổ chức được nhiều lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật sản xuất nơng
lâm nghiệp, tìm hiểu trợ giúp pháp lý nâng cao nhận thức của nhân dân về pháp
luật. Trong năm 2015, xã đã tổ chức 52 lớp tập huấn với 2.255 người tham

gia,cụ thể:
Dạy nghề cho nông dân được 06 lớp với 185 học viên; tổ chức tập huấn
kỹ thuật được 46 lớp cho 2070 lượt người; tổ chức tuyên truyền được 37 buổi
với 3.125 lượt người tham gia; tổ chức các hội nghị được 38 buổi.
Công tác quản lý Nhà nước về các hoạt động văn hố thơng tin, thể
thao được quan tâm thường xun, UBND xã đã chỉ đạo cán bộ văn hóa xã
hội thường xun nắm bắt thơng tin, rà sốt tình hình hoạt động của các
điểm truy cập internet công cộng, các dịch vụ giải trí khác. Tiến hành kiểm
tra thiết chế văn hóa tồn bộ 25 xóm đảm bảo có nơi sinh hoạt cộng đồng
cho nhân dân. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
gắn với thực hiện các tiêu chí xây dựng nơng thơn mới được triển khai thực
hiện có hiệu quả. Theo như thống kê, năm 2015 số xóm đăng ký văn hóa
25 xóm; đạt làng văn hóa là 24 xóm trong tổng số 25 xóm. Số hộ đăng ký
gia đình văn hóa 2.312/2.367 hộ; số hộ đạt gia đình văn hóa là 2.130 hộ
trong tổng số 2.312; hộ đạt gia đình văn hóa tiêu biểu 24 hộ; số cơ quan văn
hóa đạt 6 cơ quan.
Để đẩy mạnh phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập
trong những năm qua các tổ chức tín dụng đã hỗ trợ các tổ chức, cá nhân,
doanh nghiệp mởi rộng sản xuất, tính đến nay thu nhập bình quân đầu

22


người/năm đạt 28,98 triệu đồng/người/năm. Kết quả bình xét hộ nghèo năm
2015 giảm 56 hộ còn 127 hộ đạt 5,36% và 134 hộ cận nghèo đạt 5,66%.
Công tác tuyên truyền được xã Vô Tranh thực hiện tốt. Việc tuyên
truyền bám sát các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước và sự chỉ đạo phịng văn hóa huyện, đã tập trung tuyên truyền về công
tác xây dựng nông thơn mới và hồn thành các tiêu chí đã đề ra; tăng cường
kiểm tra, kịp thời sữa chữa các cụm loa của xóm đảm bảo tính hiệu quả

trong việc tiếp âm thu, phát tại địa phương. Duy trì tiếp âm đài huyện 264
buổi, 620 bản tin nội bộ, tuyên truyền tại xóm 55 buổi đảm bảo theo kế
hoạch. Tiến hành lắp đặt mới cụm loa truyền thanh 10 cụm, nhà văn hóa
xây mới 6 nhà, sửa chữa cải tạo 12 nhà.
Công tác khám chữa bệnh trạm y tế xã cơ bản đáp ứng được nhu cầu
khám chữa bệnh của người dân. Mặc dù nhân lực trạm xá chỉ có 8 người nhưng
ln hồn thành nhiệm vụ. Việc tổ chức tiêm chủng định kỳ cho trẻ em đảm bảo
đủ mũi, an toàn. Số lượt bệnh nhân đến khám tại trạm là 7.383 lượt. Duy trì,
kiểm tra, giám sát dịch bệnh và vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn, kịp thời
xử lý các bệnh dịch nguy hiểm, bệnh truyền nhiễm, không để dịch bệnh lây lan
trên diện rộng. Tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực
hiện chính sách dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình;
tổng số sinh ước đến ngày 31/12/2014 là 164 trẻ, giảm 09 trẻ so với cùng kỳ,
trong đó con thứ ba trở lên là 12 trẻ. Tỷ lệ cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ áp
dụng các biện pháp tránh thai hiện đại là 1.292 trong tổng số 1.851.
Công tác dân vận của hệ thống chính trị có nhiều chuyển biến tích cực,
chú trọng đổi mới nội dung, phương pháp tuyên truyền vận động nhân dân thực
hiện tốt các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị ở
23


địa phương. Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các đề án của tỉnh, huyện về công tác
dân vận. Các phong trào thi đua, các cuộc vận động được chỉ đạo đẩy mạnh thực
hiện đạt kết quả tốt. Hoạt động của khối dân vận ln hướng về các xóm đã
mang lại hiệu quả thiết thực, vai trò của mặt trận tổ quốc và các đoàn thể được
nâng lên, khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố và tăng cường, dân chủ ở cơ
sở được phát huy.
Các đồn thể chính trị - xã hội quan tâm chăm lo xây dựng, củng cố tổ
chức, phát triển đoàn viên, hội viên tham gia tổ chức hội, đến nay tỷ lệ thu hút
hội viên hội nông dân đạt 85%, hội cựu chiến binh 97%, hội phụ nữ 82%, đoàn

thanh niên 64%.
Khối dân vận: Tuyên truyền vận động nhân dân phát triển kinh tế, thường
xuyên nắm bắt tình hình trong nhân dân, nhất là tình hình trong các giáo họ;
tuyên truyền các Chỉ thị, Nghị quyết Đảng và chính sách, pháp luật của nhà
nước. Tham mưu giúp cho cấp ủy xây dựng báo cáo thực hiện các Đề án của
huyện, tỉnh về công tác dân vận và nâng cao chất lượng dân chủ ở cơ sở.
Mặt trận Tổ quốc phối hợp với Ban văn hoá xã tổ chức kiểm tra thiết chế
văn hoá tại các xóm. Đồn Thanh niên tổ chức thực hiện các phong trào thanh
niên hưởng ứng tháng thanh niên; tiếp nhận, bàn giao thiếu nhi về sinh hoạt hè,
tổ chức cho các em ngày Quốc tế thiếu nhi, tết Trung thu; triển khai thực hiện
tốt việc tuyên truyền đến đoàn viên thanh niên các đường lối, chủ trương, chính
sách Pháp luật của Đảng và Nhà nước, tuyên truyền về Đại hội Đảng các cấp,
về chương trình xây dựng nơng thơn mới đạt đơn vị vững mạnh tiêu biểu.
Hội Phụ nữ làm tốt công tác chuyên môn, phối hợp tổ chức thực hiện tốt
các nhiệm vụ của địa phương; quản lý tốt nguồn vốn vay của các hộ nhân dân
vay từ các ngân hàng, tổ chức thu tiền mua, lập danh sách đổi thẻ bảo hiểm y tế

24


tự nguyện cho hội viên; hội nông dân thực hiện tốt các hoạt động của hội, tổ
chức lớp tập huấn kỹ thuật gieo cấy và chăm sóc chè cho hội viên, triển khai vốn
vay cho hội viên để phục vụ đấu tư cho sản xuất, kiện toàn chức danh chủ tịch,
phó chủ tịch hội, đạt đơn vị vững mạnh. Hội cựu chiến binh thực hiện tốt việc
tuyên truyền đến hội viên chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tổ
chức tốt các hoạt động gặp mặt, trao đổi kinh nghiệm giữa các chi hơi. Thực hiện
tốt việc rà sốt và kết nạp hội viên mới đạt đơn vị vững mạnh.
Hội Chữ Thập đỏ tiếp tục vận động nhân dân ủng hộ với tinh thần lá lành
đùm lá rách, động viên những gia đình có hồn cảnh khó khăn. Tổ chức vận
động ủng hộ để giúp đỡ gia đình gặp nạn do thiên tai gây sập nhà, gia đình có

người mắc bệnh hiểm nghèo. Thực hiện theo sự chỉ đạo của Đảng ủy, Hội Chữ
thập đỏ cùng với mặt trận tổ quốc, đoàn thanh niên, hội phụ nữ tổ chức vận động
ủng hộ quỹ “vì biển đảo quê hương”, tổng số tiền thu được để gửi đi ủng hộ trên
17 triệu đồng.
Nhiều ngành nghề phụ hình thành và phát triển góp phần tăng thu nhập
cho người dân. hiện nghề chế biến nông lâm sản, vận tải, sửa chữa điện, dịch
vụ ăn uống, làm gạch xỉ... góp phần cho kinh tế đa dạng ở địa phương. Mới đây
nghề ươm trồng cây cảnh dịch vụ nông nghiệp được chú trọng. Nghề cơ khí,
điện tử khá mới mẻ nhưng mang lại thu nhập khá ổn định. Vô Tranh các ngành
nghề phụ phát triển khá phong phú đưa nề kinh tế đi lên. Chính vì vậy, Đại hội
Đảng bộ xã Vơ Tranh nhiệm kỳ 2010 - 2015 đã chỉ ra cơ cấu kinh tế cho hướng
đi chung cả giai đoạn này ‘‘Nông, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ”.

25


×