Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

(Luận văn thạc sĩ) biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận bình tân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 85 trang )

BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


PHAN NGUYỄN BÁCH KHOA

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THƠNG TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2013

Luan van


BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


PHAN NGUYỄN BÁCH KHOA

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THƠNG TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH
MÃ SỐ



: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
: 60 14 01 14

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRỊNH QUANG TỪ

HÀ NỘI - 2013

Luan van


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG

Trang
3

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG
HỌC PHỔ THƠNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN
BÌNH TÂN
Khái niệm cơ bản về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
Nội dung quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh trung
học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THƠNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BÌNH TÂN
2.1 Đặc điểm tình hình kinh tế xã hội và giáo dục tại địa
bàn quận Bình Tân
2.2 Thực trạng hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh

trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân
2.3 Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
học sinh trung học phổ thông
Chƣơng 3 BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THƠNG QUẬN BÌNH TÂN
1.1
1.2

Yêu cầu đối với biện pháp quản lý hoạt động giáo dục
đạo đức cho học sinh
3.2 Một số biện pháp cơ bản quản lý giáo dục đạo đức cho
học sinh trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình
Tân hiện nay
3.3 Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các
biện pháp
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

17
17
25

31
31
34
37

45


3.1

Luan van

45

47
67
73
75
77


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức là một trong những phạm trù cơ bản của lý luận giáo dục, là nội
dung quan trọng trong rèn luyện phát triển nhân cách của mỗi người Việt Nam.
Đạo đức của người Việt Nam rất giản dị, tự nhiên, trong sáng, đã trở thành một
nhân tố không thể thiếu được trong đời sống tinh thần, là một tiêu chuẩn quan
trọng trong đánh giá, xem xét về phẩm chất nhân cách của mỗi người.
Cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra những
yêu cầu to lớn về chất lượng nguồn lực con người. Đó là sự phát triển tồn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và nhân cách nói chung của con
người Việt Nam, mà trước hết là của thế hệ trẻ.
Coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, Đảng ta đòi hỏi phải
"tăng cường giáo dục cơng dân, giáo dục lịng u nước, chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục đạo đức và nhân văn, lịch sử dân
tộc và bản sắc văn hóa dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của bản thân và
tiền đồ của đất nước". Từ đó cho thấy, giáo dục đạo đức là một trong những

điểm chủ yếu, cốt lõi xuyên suốt và giữ vị trí chủ đạo trong tồn bộ q trình
giáo dục nhân cách, đào tạo con người trong nhà trường ở nước ta, đặc biệt là
đối với học sinh ở lứa tuổi thiếu niên trong nhà trường phổ thông.
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta đang đi vào chiều sâu và được triển khai
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cơ chế thị trường, nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần đang phát huy tác dụng tích cực, tạo nên sự phát triển năng
động và thúc đẩy nhịp độ tăng trưởng kinh tế ở nước ta. Nhưng, kinh tế thị
trường cũng bộc lộ những mặt trái, gây ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống tinh
thần, sự cảm thụ văn hóa - nghệ thuật cũng như trong tâm lý - đạo đức của các
tầng lớp dân cư trong xã hội. Những ảnh hưởng tiêu cực đó len lỏi, thẩm thấu
vào mọi quan hệ xã hội, làm sai lệch các chuẩn mực giá trị, dẫn tới sự suy

Luan van


4
thoái về đạo đức ở một bộ phận xã hội, ảnh hưởng xấu tới thế hệ trẻ, đặc biệt
là lứa tuổi học sinh phổ thơng. Điều đó có thể do nhiều nguyên nhân chủ quan
và khách quan, nhưng quản lý hoạt động giáo dục đạo đức là vấn đề trọng tâm
để tạo ra sức mạnh tổng hợp cải thiện tình hình. Vì vậy, tăng cường quản lý
trong hoạt động giáo dục đạo đức là đòi hỏi khách quan trong giáo dục phổ
thơng hiện nay.
Thành phố Hồ Chí Minh có lịch sử trên 300 năm, nơi đang dẫn đầu cả
nước về tốc độ, quy mô phát triển kinh tế. Trên địa bàn này, sự hội tụ những
đặc điểm, những biểu hiện đạo đức của lớp trẻ, đồng thời thực trạng giáo dục
đạo đức cho học sinh phổ thông đang đặt ra nhiều vấn đề bức xúc cần phải
nghiên cứu và giải quyết. Việc đánh giá đúng tình hình, nhận diện đúng các
vấn đề và tình huống, phát hiện được những trở ngại và vướng mắc trong
quản lý giáo dục để tìm ra các nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức trong các trường trung học phổ thơng ở

thành phố Hồ Chí Minh sẽ góp phần tạo nên những chuyển biến tích cực của
đời sống đạo đức và giáo dục đạo đức hiện nay. Đó là một việc làm cần thiết
để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho thành phố và cho đất nước.
Những lý do trên đã thôi thúc tác giả lựa chọn vấn đề: "Biện pháp quản
lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thơng trên địa bàn
quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay" làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các nghiên cứu ở nước ngoài
Trong đời sống xã hội, giai đoạn lịch sử nào cũng coi trọng vấn đề đạo
đức và giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Điều đó xuất phát từ nhu cầu phân
biệt cái tốt, cái xấu; cái thiện, cái ác trong hành vi ứng xử giữa con người với
con người; giữa con người với thế giới xung quanh. Vì thế, phạm trù đạo đức
và giáo dục đạo đức luôn được các nhà giáo và các nhà khoa học giáo dục
quan tâm nghiên cứu.

Luan van


5
Ngay từ thời cổ đại Khổng Tử đã nhận thức được vai trò quan trọng của
đạo đức đối với sự phát triển của xã hội và của từng con người cụ thể. Ông
chủ trương dùng đức trị để xây dựng và ổn định xã hội. Đó là một xã hội có
các chuẩn mực đạo đức rõ ràng, vua có đức của vua, tơi có đức của tơi, cha ra
cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ, mọi người đều sống và làm việc
đúng theo chính danh của mình. Cốt lõi trong quan điểm của Khổng Tử về
đạo đức là “nhân”, “nghĩa”. Nhân nghĩa là cái tốt đẹp của con người thể hiện
ở nguyên tắc xây dựng, cai trị quốc gia, ở việc trau dồi ý chí, tình cảm, hành
vi trong các mối quan hệ xã hội.
Quan điểm của Khổng Tử về đạo đức và giáo dục đạo đức lúc bấy giờ
là một tiến bộ xã hội. Nó khơng chỉ góp phần bổ sung, phát triển lý luận giáo

dục nhân cách mà còn là một giải pháp cho sự phát triển của xã hội Trung
Hoa cổ đại. Những quan điểm của Khổng Tử về giáo dục đạo đức đã trở
thành quan điểm chính thống của nền giáo dục nho học trong suốt cả thời kỳ
phong kiến ở Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, do hạn chế của hoàn cảnh
lịch sử nên quan điểm của Khổng Tử về đạo đức vẫn mang tính đẳng cấp,
phân biệt đạo đức của quân tử và tiểu nhân, giữa nam và nữ. Về phương pháp
giáo dục đạo đức, Khổng Tử chưa nhìn thấy mối quan hệ biện chứng giữa con
người với xã hội, chưa kết hợp cải tạo con người với cải tạo xã hội. Ông coi
đạo đức là sản phẩm của một cá nhân riêng biệt, được hình thành chủ yếu
bằng con đường tu thân.
Ở phương Tây, thời kỳ cổ đại cũng xuất hiện nhiều quan điểm, nhiều
học thuyết lớn về giáo dục đạo đức. Mặc dù các quan điểm và các học thuyết
đó chưa ảnh hưởng trực tiếp đến nền giáo dục nho học ở nước ta trong thời kỳ
phong kiến nhưng nó là cơ sở cho sự hình thành các quan điểm giáo dục thời
kỳ văn hóa phục hưng tỏa sáng khắp thế giới sau này.
Thời kỳ văn hóa phục hưng, giáo dục được xem như một lĩnh vực tiên
phong trong cuộc đấu tranh chống lại ý thức hệ phong kiến, chống lại sự câu

Luan van


6
kết, lũng đoạn của vương quyền và thần quyền trong trường học. Trong bối
cảnh đó, nhiều học thuyết, nhiều tư tưởng giáo dục tiến bộ đã được xuất hiện.
Nhìn chung, các tư tưởng giáo dục thời kỳ này vẫn đề cao việc giáo dục
đạo đức, nhưng đã có sự phát triển mới về chuẩn mực giá trị đạo đức của con
người và xã hội. Về phương pháp giáo dục, bước đầu đã có sự gắn kết đức
dục với trí dục, gắn giáo dục đạo đức với lao động sản xuất và các hoạt động
khác. Tuy nhiên, các tư tưởng tiến bộ đó phần lớn chỉ mới dừng lại ở ý tưởng,
việc tổ chức thực hiện hầu như chưa đem lại kết quả mong muốn. Chỉ từ khi

chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, thì những vấn đề lý luận về giáo dục nói chung
và giáo dục đạo đức nói riêng mới được nghiên cứu một cách đầy đủ trên cơ
sở khoa học thực sự.
Trên cơ sở thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cách mạng, C. Mác
và Ph. Ăngghen đã khắc phục những hạn chế của một số quan điểm về đạo
đức và giáo dục đạo đức trước đây, kế thừa có chọn lọc những giá trị đạo đức
tiến bộ của các chế độ xã hội trước. Hai ông đã đưa ra những quan điểm của
mình về đạo đức. Đạo đức không thể tách rời cuộc sống của con người. Đạo
đức trước hết phải là sự phản ánh giá trị cao đẹp của đời sống con người trong
mối tương quan giữa người và người, giữa cá nhân và xã hội. Con người bằng
hành động thực tế, quan hệ xã hội và kinh nghiệm lịch sử của mình để xây
dựng nên những tiêu chuẩn, những giá trị đạo đức.
C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ bản chất của đạo đức khơng phải là cái
gì có sẵn hoặc thiên định. Đạo đức được hình thành từ con người và xã hội
lồi người. Ph. Ăngghen viết: “Chúng ta khẳng định rằng, chung quy lại thì
mọi thuyết đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh
tế của xã hội lúc bấy giờ” [01, tr. 157].
Như vậy, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, được hình thành trên
cơ sở tồn tại xã hội, tác động tới xã hội thông qua hoạt động thực tiễn của con

Luan van


7
người trong các thời kỳ lịch sử khác nhau. Trong mỗi chế độ xã hội, những
giá trị đạo đức; những quy tắc, nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức đều được
định ra trên cơ sở điều kiện kinh tế, chính trị của chính xã hội ấy.
Những tư tưởng về đạo đức của C. Mác và Ph. Ăngghen đã được
V.I.Lênin kế thừa, bổ sung, phát triển hoàn chỉnh thành học thuyết mácxít về
đạo đức cộng sản và hiện thực hóa trong cách mạng tháng Mười Nga.

V.I.Lênin khẳng định giáo dục cộng sản chính là giáo dục đạo đức cộng
sản chủ nghĩa mà trước hết là giáo dục tính kỷ luật trong lao động và trong tập
thể; giáo dục lòng yêu Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vơ sản là
vấn đề có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành nhân cách con người xã hội
chủ nghĩa.
Con đường phấn đấu trở thành người có đạo đức cộng sản đó là mỗi
người phải tích cực tự giác tham gia vào cuộc đấu tranh để giải phóng nhân
loại cần lao và tham gia lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng công nhân
và nông dân. Đạo đức cộng sản là “cuộc đấu tranh để củng cố và hoàn thiện
chủ nghĩa cộng sản”. “Đạo đức cộng sản là đạo đức phục vụ cuộc đấu tranh
ấy, là đạo đức nhằm đoàn kết những người lao động chống lại mọi sự bóc lột,
mọi chế độ tư hữu...” [17, tr. 369].
Đạo đức cộng sản cịn là khả năng tổ chức, tính tổ chức, ý thức làm
chủ, lịng dũng cảm, khơng sợ gian khổ hy sinh, trung thực, bình tĩnh, tự tin
và kiên quyết, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước hành động của mình.
Đặc biệt, đạo đức cộng sản là phải có khả năng tự đánh giá, rút ra mạnh, yếu,
tìm rõ ngun nhân để khơng ngừng rèn luyện, tự hồn thiện về mọi mặt để
trở thành con người phát triển toàn diện.
V.I.Lênin cũng chỉ rõ trách nhiệm của việc giáo dục đạo đức cộng sản
là của toàn xã hội và của tất cả mọi người; trước hết đó là trách nhiệm của nhà
trường Xơ Viết, của Đồn thanh niên tiền phong, của các tổ chức đảng, đoàn,

Luan van


8
cán bộ đảng, đoàn và các thế hệ cách mạng lớn tuổi, các lão thành cách mạng,
của đội ngũ thầy, cô giáo. Muốn giáo dục đạo đức cộng sản cho thế hệ trẻ có
kết quả tốt thì bản thân những người làm công tác giáo dục phải là người
gương mẫu, trong sáng, phải là người tiêu biểu để thế hệ trẻ noi theo, nhìn vào

và học tập; làm được như vậy, đạo đức cộng sản mới thực sự trở thành đời
sống tinh thần, mang tính giáo dục cao cho mỗi cá nhân và toàn xã hội.
Các nghiên cứu ở trong nước
Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng nghìn năm Lịch sử oai hùng. Trong
q trình đó đã hình thành và phát triển giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam
trên nền tảng của truyền thống quá trình đấu tranh dựng nước và bảo vệ, phát
triển đất nước. Theo Nguyễn Thế Kiệt, vai trò của các hệ tư tưởng Phật giáo,
Đạo giáo, đặc biệt là Nho giáo đã ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần
Việt Nam. Mỗi học thuyết tơn giáo đã giải thích được một khía cạnh của cuộc
sống. Do đó, tư tưởng triết học đạo đức Việt Nam, giá trị đạo đức ưu trội, cốt
lõi trong các giá trị truyền thống dân tộc trở thành phẩm chất nhân cách đặc
trưng con người Việt Nam.
Cuối thế kỷ XIX thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, nền giáo dục
phong kiến bị thay đổi toàn bộ. Hệ thống giáo dục nhà trường chú trọng đến
nội dung giảng dạy kiến thức khoa học thực nghiệm, thực dụng nhằm đào tạo
lớp người phục vụ cho lợi ích thực dân Pháp cho việc chinh phục thuộc địa.
Sau cách mạng tháng tám (1945) và trong suốt hai cuộc kháng chiến
chống Pháp, nền giáo dục Việt nam với mục đích giáo dục con người phục vụ
“Kháng chiến, kiến quốc” đã luôn gắn chặt hai mặt đức và tài trong mục tiêu
giáo dục thế hệ trẻ, trong đó lấy Đức làm gốc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa
lớn của nhân loại đã để lại cho chúng ta một di sản văn hóa vơ cùng q báu
trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực. Đặc biệt là vấn đề đạo đức và giáo dục đạo

Luan van


9
đức cách mạng. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng

viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài
và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là một trong những
vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người
cách mạng. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì
mới hồn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sơng thì có nguồn mới có
nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù có tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [19, tr. 283]. Người quan niệm đạo
đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc:
“Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém” [19, tr.
452]; Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh khơng có nghĩa là tuyệt
đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà khơng có đức là
người vơ dụng. Đức và tài phải thống nhất với nhau để hoàn thành nhiệm vụ
cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người
Việt Nam trong thời đại mới bao gồm:
Một là, trung với nước, hiếu với dân. Đây là phẩm chất quan trọng
nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Từ khái niệm cũ “trung
với vua, hiếu với cha mẹ” trong đạo đức truyền thống của xã hội phong kiến
phương Đơng, Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức
ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước, hiếu với dân”. Đó là một cuộc
cách mạng trong quan niệm đạo đức.

Luan van


10
Hai là, yêu thương con người. Đây là một trong những phẩm chất đẹp

nhất của con người Việt Nam. Tình thương yêu con người được hình thành
trong lịch sử và đã trở thành truyền thống của dân tộc.
Tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh là tình u thương của
người cộng sản. Không phải thuần túy là sự đồng cảm tâm lý, khơng phải sự
thương hại, sự xót xa của tình thương tơn giáo. Tình u thương ở đây là phải
giải phóng con người, tạo cơ hội cho con người được phát triển hoàn toàn.
Ba là, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư. Đây là phẩm chất chung của
con người, là phẩm chất đạo đức mới, thể hiện mối quan hệ rộng lớn vượt qua
khuôn khổ quốc gia, dân tộc. Bồi dưỡng đạo đức cho con người Việt Nam là
phải bồi dưỡng tinh thần quốc tế trong sáng ở mỗi người.
Theo Hồ Chí Minh: đạo đức cách mạng khơng phải điều gì xa lạ mà
thực chất đạo đức cách mạng được hình thành từ thực tiễn hoạt động rèn
luyện hàng ngày trong công tác, chiến đấu của mỗi người.
Thực chất của giáo dục đạo đức chính là hình thành ở con người đức
tính tốt, lịng nhân ái, nổi trội ở đó là tinh thần u nước, lịng trung thành đối
với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân.
Mục tiêu của giáo dục đạo đức là nhằm loại bỏ những thói hư, tật xấu,
tư tưởng lạc hậu, trì trệ, sự ích kỷ cá nhân, tính vơ nhân đạo. Vì theo Hồ Chí
Minh: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho
lòng tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất
dần đi. Đó là thái độ của người cách mạng” [15, tr. 558].
Từ việc xác định rõ thực chất của vấn đề giáo dục đạo đức, xác định rõ
mục tiêu của giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh đã nêu lên những nguyên tắc
xây dựng đạo đức mới:
Nói đi đơi với làm, phải nêu gương về đạo đức. Đây là nguyên tắc rèn
để rèn luyện, là cơ sở để phân biệt đạo đức cách mạng với đạo đức không
cách mạng.

Luan van



11
Xây đi đôi với chống, phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi.
Đây là ngun tắc có tính quy luật trong giáo dục đạo đức mới. Muốn xây
dựng đạo đức mới thì nhất thiết phải chống lại các tệ nạn, tiêu cực, thối hóa
biến chất, chống là nhằm mục đích để xây và lấy xây làm chính.
Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời. Đạo đức không phải là từ trên trời rơi
xuống mà được đào tạo, rèn luyện bền bỉ hàng ngày để phát triển và củng cố:
“ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Đạo đức không
thường xuyên tu dưỡng sẽ bị hoen ố.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức là một cơ sở lý
luận xuyên suốt, luôn hướng dẫn, chỉ đường cho Đảng, quân đội, nhân dân ta
học tập, rèn luyện, phấn đấu trong sự nghiệp xây dựng đất nước thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đến năm 1979 Bộ chính trị và Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
ra nghị quyết vế cải cách giáo dục và Ủy ban cải cách giáo dục Trung ương đã
ra quyết định số 01 về cuộc vận động tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng
trong trường học, đã ghi rõ: “Nội dung đạo đức cần được giáo dục cho học sinh
từ mẫu giáo đến đại học, nội dung chủ yếu dựa vào 5 điều bác Hồ dạy”.
Tiếp sau đó đã có nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức như:
 Thứ trưởng Vũ Đình Nho “Một số vấn đề lý luận và tư tưởng về giáo
dục đạo đức cách mạng trong trường học” (Báo Nghiên cứu giáo dục số 6/
1980).
 Tác giả Trần Quang “Dạy đạo đức trong trường học” (Báo giáo dục
thời đại số 18/1999).
 Tác giả Lê Châu “Cần xác định đúng môn Giáo Dục Công Dân trong
trường trung học phổ thông” (Báo Giáo dục thời đại ngày 25/5/2001).
 Giáo sư Đặng Vũ Hoạt “Đổi mới công tác giáo viên chủ nhiệm với
việc giáo dục đạo đức cho học sinh” Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 8/1992.


Luan van


12
 PGS- TS Hà Nhật Thăng “Thực trạng đạo đức, tư tưởng chính trị, lối
sống của thanh niên- học sinh- sinh viên” (Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số
39/2002).
Về cơng tác quản lý giáo dục đạo đức trong những năm qua cũng có
nhiều tác giả nghiên cứu như:
 PGS-TS Đặng Quốc Bảo có bài “Những vấn đề cơ bản về quản lý
giáo dục” 1998.
 Tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc “Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo”
1998.
Nghị quyết của hội nghị lần II của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khố VII (1996) có nêu: “Mục tiêu chủ yếu là giáo dục tồn diện đức, trí, thể,
mỹ ở tất cả các bậc học, hết sức coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, nhân
cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành” .
Với tư tưởng này Đảng và Nhà nước ta đã đặt con người vào vị trí
trung tâm: Con người là mục tiêu và là động lực của sự phát triển.
Trong giai đoạn hiện nay đất nước đang trong quá trình hội nhập với
quốc tế và khu vực, việc giáo dục nhân cách mới cho học sinh là nhiệm vụ và
là mục tiêu cơ bản của sự nghiệp giáo dục đào tạo. Giáo dục nhân cách mới
mà thời đại mới yêu cầu là “Giáo dục cho học sinh, sinh viên lòng yêu nước,
yêu chủ nghĩa xã hội, có bản lĩnh vững vàng, tư duy sáng tạo, có năng lực
thực hành, có khả năng thích ứng với nền kinh tế nhiều thành phần”. Đặc biệt
là, ngày 7/11/2006, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Sau
5 năm thực hiện cuộc vận động đã tạo ra phong trào phấn đấu tu dưỡng đạo
đức trong mọi tầng lớp xã hội, mang lại hiệu quả tốt. Do đó, Bộ Chính trị
khóa XI tiếp tục có Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14 tháng 5 năm 2011 về tiếp

tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Luan van


13
Những văn kiện này là tài liệu đặc biệt quan trọng và có giá trị cao đối với
giáo dục đạo đức xã hội nói chung, tổ chức quản lý giáo dục đạo đức cho học
sinh nói riêng.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, ngành giáo dục- đào tạo đã quan tâm và có
nhiều văn bản chỉ đạo giáo dục đạo đức truyền thống cho học sinh trong nhà
trường và đã tổ chức nhiều chương trình hội thảo, tọa đàm về cơng tác phòng
chống tệ nạn xã hội và ma túy xâm nhập học đường.
Như vậy, vấn đề giáo dục đạo đức cho các đối tượng, cho học sinh đã
được nhiều công trình nghiên cứu, nhiều tài liệu trình bày. Nhưng vấn đề
quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cịn ít tài liệu, cơng trình đề cập. Do đó,
nghiên cứu về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức là vấn đề mới mẻ và cần
thiết. Đặc biệt là, ở thành phố Hồ Chí Minh nói chung và ở quận Bình Tân nói
riêng, nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề giáo dục cũng như quản lý
giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ thông chưa được thực hiện một cách
có hệ thống.
Vì vậy chúng tơi hy vọng đề tài: “Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục
đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay” sẽ góp phần giúp cho các trường trung học phổ
thơng trên địa bàn quận Bình Tân có thể nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
cho học sinh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lí luận và thực tiễn của giáo dục và
quản lý giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của học

sinh trung học phổ thông, đề tài đề xuất một số biện pháp cơ bản quản lý hoạt
động giáo dục đạo đức trong trường trung học phổ thông trên địa bàn quận
Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng
yêu cầu phát triển mới của đất nước.

Luan van


14
Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài đã thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Khái quát một số vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục đạo đức và quản
lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trên địa bàn quận Bình Tân;
- Nghiên cứu thực trạng về tình hình giáo dục đạo đức và quản lý hoạt
động giáo dục đạo đức ở 5 trường trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình
Tân (An Lạc, Vĩnh Lộc, Nguyễn Hữu Cảnh, Bình Hưng Hồ, Bình Tân);
- Đề xuất một số biện pháp chủ yếu quản lý hoạt động giáo dục đạo
đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay.
4. Khách thể, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức học sinh
trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân.
Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
cho học sinh trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các biện pháp quản
lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thơng trên địa bàn
quận Bình Tân.
Số liệu khảo sát được thực hiện trên đội ngũ cán bộ quản lý, các lực
lượng tham gia giáo dục đạo đức, giáo viên và học sinh từ năm 2008 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học

Việc quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ
thông là nội dung cơ bản của quản lý giáo dục trong nhà trường, ảnh hưởng
đến chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức trên địa bàn quận Bình Tân còn
nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã hội hiện nay.
Nếu phát huy được vai trò chỉ đạo, điều hành; tổ chức tốt nâng cao nhận thức

Luan van


15
về giáo dục đạo đức cho cán bộ giáo viên và học sinh; tạo điều kiện cho giáo
viên sử dụng hiệu quả các hình thức, phương pháp giáo dục, đồng thời phát
huy vai trò của nhà trường trong phối hợp với các lực lượng giáo dục trên địa
bàn thì quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thơng
trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh sẽ đáp ứng được yêu cầu
giáo dục hiện nay.
6. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu
Quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã dựa trên cơ sở những quan
điểm cơ bản của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa
Mác-Lênin; quán triệt những tư tưởng cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm đường lối của Đảng về giáo dục, nhất là các quan điểm trong các
văn kiện nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khoá IX, X,
XI. Sử dụng các phương pháp tiếp cận hệ thống cấu trúc trong xem xét, phân
tích các đối tượng nghiên cứu để giải quyết các nhiệm vụ đề ra.
Các phương pháp cụ thể
- Phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết: khái quát các tài liệu lý luận
và thực tiễn để xây dựng những quan niệm, khái niệm, xây dựng những quy
trình, những nguyên tắc nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức và quản

lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thơng trên địa bàn
quận Bình Tân.
- Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn: sử dụng những phương pháp
quan sát, điều tra, phỏng vấn, đàm thoại...để thu thập các tài liệu về thực trạng
giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung
học phổ thông.
- Phƣơng pháp chuyên gia: Chúng tôi sẽ hỏi ý kiến các chuyên gia
am hiểu về giáo dục đạo đức và quản lý hoạt động giáo dục đạo đức về thực

Luan van


16
trạng và các biện pháp nâng cao chất lượng quản lý hoạt động giáo dục đạo
đức của học sinh trên địa bàn quận Bình Tân.
- Phƣơng pháp tốn thống kê: Sử dụng để tính tốn và xử lý các số
liệu điều tra thực trạng đã thu được từ đó rút ra nhận xét cần thiết cho đề tài.
7. Ý nghĩa của đề tài
- Kết quả nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài là tài liệu
tham khảo cho công tác quản lý và nghiên cứu giáo dục đạo đức của các
trường trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân.
- Nội dung các biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học
sinh trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân do đề tài đề xuất có thể
ứng dụng nâng cao chất lượng giáo dục và quản lý giáo dục đạo đức cho học
sinh ở các trường trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân.
8. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và trích dẫn,
các phụ lục, luận văn có 3 chương:

Luan van



17
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC ĐẠO
ĐỨC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN BÌNH TÂN
1.1. Khái niệm cơ bản về quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
1.1.1. Hoạt động giáo dục đạo đức
Đạo đức là khái niệm luân thường đạo lý của con người được sử dụng
để phân biệt tốt- xấu, đúng - sai, cái thiện – cái ác ... trong cuộc sống, được sử
dụng trong ba phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và sự
trừng phạt. Trong đời sống xã hội, nói đến đạo đức là nói đến các giá trị, các
chuẩn mực đạo đức. Những quan niệm về các giá trị và chuẩn mực đạo đức
có tính lịch sử - xã hội và gắn liền với các tư tưởng về triết học, về văn hóa
trong mỗi thời kỳ lịch sử; chịu sự chi phối của các tư tưởng tôn giáo, chủ
nghĩa nhân văn, và những luật lệ của một xã hội, phản ánh trong cách đối xử
của con người với môi trường xung quanh, với cộng đồng với người khác và
với bản thân mình.
Theo quan niệm trước đây, đạo đức được hiểu đồng nghĩa với luân lý,
đó là những chuẩn mực, hành vi được xã hội quy định, được nhiều người thừa
nhận và tự giác thực hiện. Đó là những quy ước cộng đồng xã hội qua thời
gian được thừa nhận và trở thành truyền thống đạo lý trong ứng xử giữa người
với người, người với tự nhiên, xã hội.
Ngày nay, trong hồn cảnh xã hội ln vận động, phát triển, quan niệm
về đạo đức được mở rộng phạm vi. Đạo đức không chỉ là phạm trù luân lý,
những quy định đối nhân xử thế giữa người với người trong mọi phạm vi từ
nhỏ đến lớn. Đạo đức còn được mở rộng đến vấn đề ý thức, trách nhiệm giữ
gìn, bảo vệ hịa bình, biết hợp tác phát triển cùng với các dân tộc khác, giáo dục
trách nhiệm, xã hội lành mạnh, giáo dục việc thực hiện nghĩa vụ công dân


Luan van


18
trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, thực hiện các mục tiêu của
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và tinh thần cảnh giác cách mạng trong xây dựng
và bảo vệ tổ quốc. Với ý nghĩ đó, có thể hiểu đạo đức một là một hình thái ý
thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó
con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với tiến bộ xã
hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội.
Giáo dục đạo đức là một nội dung quan trọng của quá trình giáo dục
theo nghĩa hẹp nhằm hình thành cho con người những quan điểm cơ bản nhất,
những nguyên tắc, chuẩn mực quan trọng nhất làm cơ sở để con người có thể
lựa chọn, đánh giá đúng đắn các hiện tượng đạo đức xã hội; biết tự đánh giá,
tự suy ngẫm về hành vi, cách ứng xử của mình. Vì thế, giáo dục đạo đức là
thực hiện hình thành và phát triển nhân cách cho con người tương ứng với
từng giai đoạn phát triển trong cuộc sống.
Giáo sư Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt viết: “Giáo dục đạo đức là q
trình biến các chuẩn mực đạo đức, từ những địi hỏi bên ngoài của xã hội đối
với cá nhân thành những đòi hỏi bên trong của bản thân, thành niềm tin, nhu
cầu, thói quen của người được giáo dục”. Đó là quá trình tác động tới học sinh
của nhà trường, gia đình và xã hội, nhằm hình thành cho học sinh ý thức, tình
cảm, niềm tin đạo đức và cuối cùng quan trọng nhất là hình thành cho họ thói
quen, hành vi đạo đức trong đời sống xã hội. Song giáo dục trong nhà trường
giữ vai trò chủ đạo định hướng “ Giáo dục đạo đức cho học sinh là bộ phận
quan trọng có tính chất nền tảng của giáo dục trong nhà trường xã hội chủ
nghĩa” [07, tr. 128].
Giáo dục đạo đức là sự hình thành nhân cách được tổ chức một cách có
mục đích, có tổ chức thơng qua các hoạt động và các quan hệ giữa nhà Giáo

dục với người được giáo dục nhằm giúp người được giáo dục chiếm lĩnh
những kinh nghiệm xã hội của loài người.

Luan van


19
Trong bất kỳ xã hội nào, vấn đề giáo dục đạo đức cho con người theo
chuẩn mực giá trị đạo đức của xã hội vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng. Giáo
dục đạo đức là con đường chủ yếu để hình thành cho con người những quan
điểm, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản nhất. Cùng với
q trình giáo dục và hoạt động tích cực của mình, con người càng hiểu rõ vai
trị to lớn của lương tâm, ý thức, danh dự và các phẩm chất đạo đức của cá
nhân đối với bản thân mình trong đời sống cộng đồng, từ đó tham gia có ý
thức, có trách nhiệm vào thúc đẩy tiến bộ xã hội
Nói đến hoạt động giáo dục đạo đức là nhấn mạnh xem xét giáo dục
đạo đức theo cấu trúc hoạt động, tức là phải xem xét động cơ, mục đích,
phương tiện cũng như hệ thống các hành động, thao tác tương ứng của hoạt
động đó. Mặt khác, quản lý được thực hiện bằng những công việc cụ thể như
xác định mục tiêu; xác định quyết tâm và xây dựng kế hoạch; tổ chức lực
lượng, điều kiện và phương tiện bảo đảm cho việc thực hiện kế hoạch; tổ chức
thực hiện theo kế hoạch đã đề ra; kiểm tra, đánh giá kết quả đạt được, điều
chỉnh việc thực hiện để kết quả đạt được như mong muốn. Đây là những tư
tưởng cơ bản để làm rõ khái niệm quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho
học sinh.
1.1.2. Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lý lên đối tượng quản lý về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...
thơng qua các luật lệ, các chính sách, các quy định theo những nguyên tắc,
phương pháp nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự vận động của đối

tượng theo đúng yêu cầu của chủ thể quản lý, đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra.
Mọi người trong xã hội đều hoạt động trong những tổ chức xã hội,
những nhóm và cộng đồng. Trong khi đó, mỗi người là một nhân cách độc
đáo, khơng lặp lại. Vì thế, khi cần hướng đến một mục tiêu chung, mong

Luan van


20
muốn đạt được kết quả chung thì phải có sự phối hợp thống nhất trong suy
nghĩ, trong hành động của tất cả các thành viên trong tổ chức, nhóm hay cộng
đồng đó. Đúng như một nhà tư tưởng đã nói: “Một người độc tấu thì tự điều
khiển lấy mình, cịn một giàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”.
Có thể khái qt, quản lý là q trình tác động có tổ chức, có mục đích
của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý bằng các phương tiện quản lý làm
cho đối tượng quản lý nỗ lực tự giác thực hiện các hành vi và hoạt động theo
ý định của nhà quản lý để đạt được các mục tiêu đã đặt ra trong điều kiện
hoàn cảnh cụ thể.
Xét về lịch sử thì khoa học Quản lý giáo dục xuất hiện sau khoa học
quản lý kinh tế. Hiện nay, quản lý giáo dục là bộ phận quan trọng của hệ
thống quản lý xã hội. Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nhà khoa học
đã đưa ra những cách định nghĩa khác nhau, tương ứng là các quan điểm khác
nhau về quản lý giáo dục. Có thể nêu một số quan niệm tiêu biểu:
- Theo M.I. Kondacop thì “Quản lý giáo dục là tác động có hệ thống, có
kế hoạch, có ý thức và mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến
tất cả các khâu của hệ thống nhằm mục đích bảo đảm cho sự hình thành nhân
cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những quy luật chung của
xã hội cũng như những quy luật của quá trình giáo dục vào sự phát triển thể lực
và tâm lý trẻ em” [29, tr. 17]. Quan niệm này chỉ rõ nơi tác động là tất cả các
khâu của hệ thống; xác định rõ cách tác động của chủ thể quản lý là vận dụng

nhưng quy luật xã hội và quy luật giáo dục; mô tả rõ mục tiêu hướng tới của tác
động quản lý là sự phát triển thể lực và tâm lý trẻ em. Nhưng quan niệm này
chưa tính đến sự chi phối của các yếu tố chính trị xã hội đối với quản lý, do đó
quản lý giáo dục khơng có định hướng chính trị rõ rệt.
- Tác giả Phạm Minh Hạc khái quát: “Quản lý giáo dục là quản lý
trường học, thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm

Luan van


21
của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới
mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và
với từng học sinh”. Ở đây, tác giả nhấn mạnh đường lối chính trị mà cơng tác
quản lý phải quán triệt khi tác động vào đối tượng quản lý. Tuy nhiên, cách
thức, phương tiện tác động chưa được đề cập.
Một số tác giả khác cũng có những cách định nghĩa riêng. Mỗi cách
định nghĩa quản lý giáo dục đều quan tâm làm nổi bật những khía cạnh nhất
định liên quan đến mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của mình. Tuy nhiên,
chúng tơi thấy, bản chất của quản lý giáo dục là q trình tác động có ý thức
của chủ thể quản lý và các thành tố khác trong hệ thống quản lý bằng những
công cụ, phương tiện nhất định, nhằm làm cho kết quả quá trình giáo dục đạt
mục tiêu đã định, phù hợp với đường lối quan điểm của Đảng và nhà nước về
giáo dục. Đây là một công việc rất quan trọng trong đào tạo nguồn nhân lực
nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ có đầy đủ kiến thức và kỹ năng, phẩm chất để
đảm nhận các chức năng xã hội.
Chủ thể quản lý giáo dục là nhà quản lý, tập thể các nhà quản lý hay bộ
máy quản lý giáo dục. Trong trường đó là Hiệu trưởng (cùng với bộ máy giúp
việc của Hiệu trưởng) đến tập thể giáo viên, các tổ chức đoàn thể.
Khách thể quản lý giáo dục bao gồm trường học hoặc là hoạt động giáo

dục trên một địa bàn (cơ quan quản lý giáo dục các cấp), trong đó có bốn
thành tố của một hệ thống xã hội: Tư tưởng (quan điểm đường lối, nguyên lý
chính sách chế độ, giáo dục...) con người ( giáo viên, cán bộ công nhân viên
và các hoạt động của họ...) quá trình giáo dục ( diễn ra trong không gian và
thời gian ), vật chất, tài chính ( trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho giáo dục,
ngân sách, ngân quỹ...).
Trong quản lý giáo dục, chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý
một cách có ý thức nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra và chính sự thực

Luan van


22
hiện thành công mục tiêu quản lý giáo dục lại bảo đảm cho thực hiện được
các mục tiêu giáo dục nói chung của nhà trường.
Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức là bộ phận của quản lý giáo dục
nói chung trong nhà trường hướng vào mục tiêu cụ thể là giáo dục đạo đức
cho học sinh. Mục tiêu giáo dục cụ thể này trong mối quan hệ với các mục
tiêu quá trình giáo dục bộ phận khác như giáo dục phát triển trí tuệ, giáo dục
phát triển thể chất, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường, giáo dục đạo đức...
Trong quản lý hoạt động giáo dục đạo đức, việc xây dựng kế hoạch quản
lý là phân tích đánh giá tình hình giáo dục đạo đức đang tiến hành trong nhà
trường, thấy được vai trò thực tế của từng lực lượng tham gia hoạt động giáo
dục đạo đức thực hiện nhiệm vụ theo chức trách của mình thế nào, mối quan
hệ, hợp tác phối hợp của các lực lượng với nhau thực hiện hiệu quả các tác
động giáo dục; thấy được những điều kiện phương tiện, tài chính, quỹ thời gian
bảo đảm... để từ đó đề ra mục tiêu mới về nhận thức và hành vi đạo đức của
học sinh cần phải đạt được; kịp thời có những chủ trương và quyết tâm hành
động đạt được mục tiêu; xác định những yêu cầu mới đối với các thành phần và
lực lượng; những điều kiện, phương tiện và tương ứng để thực hiện mục tiêu.

Về tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động giáo dục đạo đức, nhiệm vụ
của quản lý trước hết là, quán triệt rõ mục tiêu giáo dục đạo đức cho các lực
lượng giáo dục, cho học sinh, nhằm tạo ra sự thống nhất trong nhận thức; làm
cho họ nắm chắc nội dung các biện pháp tiến hành, các điều kiện và thời gian
thực hiện, các kết quả phải đạt được qua giáo dục đạo đức cho học sinh. Từ
đó bố trí lực lượng, phân cơng trách nhiệm, giao chỉ tiêu, xác định yêu cầu
thực hiện cho từng đối tượng, từng bộ phận theo kế hoạch giáo dục đạo đức
cho học sinh đã xác định.
Quá trình chỉ đạo thực hiện kế hoạch giáo dục đạo đức, các quyết định
quản lý được ban hành dưới dạng các mệnh lệnh, chỉ thị bằng các văn bản

Luan van


23
hoặc lời nói yêu cầu các lực lượng, cá nhân thực hiện theo nhiệm vụ, chức
trách đã được phân công. Tùy theo phân cấp trách nhiệm, chức trách nhiệm
vụ của từng cá nhân và tổ chức, các quyết định quản lý trong quản lý hoạt
động giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thơng có thể
do Hiệu trưởng, các thầy cô trong Ban Giám hiệu ban hành; các yêu cầu, các
hướng dẫn chỉ đạo của cán bộ đồn đội, của thầy cơ giáo trong triển khai thực
hiện các nhiệm vụ theo mệnh lệnh của Hiệu trưởng và Ban Giám hiệu, theo
chương trình kế hoạch giáo dục đạo đức đã ban hành.
Công tác kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh trong quản lý hoạt động giáo
dục đạo đức chủ yếu là xem xét nội dung các hoạt động giáo dục và rèn luyện
đạo đức đang thực hiện so với kế hoạch, đối chiếu với chương trình đặt ra có
đúng khơng, sai lệch như thế nào; đánh giá mức độ nghiêm trọng ảnh hưởng
của các sai lệch đến mục tiêu giáo dục đạo đức, ảnh hưởng đến kết quả và
chất lượng giáo dục đào tạo nói chung. Những phát hiện này là căn cứ quan
trọng để chủ thể quản lý chủ trương, biện pháp điều chỉnh kịp thời về lực

lượng, về tổ chức, về biện pháp, phương tiện thực hiện, bảo đảm cho kết quả
giáo dục đạo đức đạt được phù hợp với mục tiêu đã đề ra. Đây một chức năng
quan trọng của quản lý, đồng thời cũng là một khâu cơ bản của toàn bộ quá
trình quản lý đặt ra.
Trên đây là những vấn đề cơ bản trong khái niệm quản lý hoạt động
giáo dục đạo đức. Khi xem xét quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho một
đối tượng cụ thể, những chủ thể, đối tượng quản lý được xác định; những mục
tiêu, cách thức tổ chức tiến hành được cụ thể hóa cho đối tượng đó.
Vậy, có thể khái quát Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh
trung học phổ thơng trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay là một bộ phận do lãnh đạo nhà trường tổ chức điều khiển các lực lượng
giáo dục thực hiện chương trình, kế hoạch giáo dục đạo đức cho học sinh

Luan van


24
trung học phổ thông nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đạo đức đã đề ra trong
điều kiện kinh tế xã hội quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
1.1.3. Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành, cách giải quyết một vấn đề cụ
thể, thực hiện được mục đích đề ra. Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý viết:
“Biện pháp là cách làm, cách thức tiến hành giải quyết một vấn đề cụ thể”.
Biện pháp quản lý là cách làm của chủ thể quản lý sử dụng các công cụ
quản lý tác động vào từng khâu, từng yếu tố trong hệ thống quản lý, làm cho
hệ thống quản lý vận động, biến đổi tạo ra kết quả đáp ứng mục đích quản lý
đã đề ra. Chủ thể quản lý sử dụng các biện pháp để theo dõi sát công việc
đang diễn ra; kiểm tra chặt chẽ phát hiện kịp thời các sai lệch để uốn nắn; tổ
chức tốt việc tự kiểm tra, tự giám sát của các bộ phận để hệ thống thực hiện
tốt các chức năng, nhiệm vụ đã xác định.

Vậy, có thể khái quát: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ
Chí Minh là tổng hợp các cách thức quản lý của Ban giám hiệu, các tổ chuyên
môn và cán bộ nhà trường tác động đến quá trình giáo dục đạo đức nhằm làm
cho quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh thực hiện tốt kế hoạch và đạt
mục tiêu giáo dục đạo đưc đã đề ra.
Khái quát trên đã chỉ ra rằng, mục đích cơ bản của các biện pháp quản
lý hoạt động giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông quận Bình
Tân là làm cho cán bộ nhà trường, các thầy cô giáo và học sinh ý thức rõ ý
nghĩa, vai trị của giáo dục đạo đức, tích cực huy động mọi sức lực và cố
gắng; khai thác mọi điều kiện phương tiện hiện có để trang bị nhận thức, hình
thành thái độ hành vi đạo đức đúng đắn cho học sinh. Các biện pháp được thể
hiện ở các hành động, việc làm của các thầy cô Ban Giám hiệu và giáo viên
tích cực hướng dẫn, kiểm tra, kiểm sốt các hoạt động giáo dục đạo đức, từ

Luan van


×