Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Giáo trình luật công đoàn ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.43 KB, 76 trang )











































TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

________________________________________________








TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN HỌC TẬP

LUẬT CÔNG ĐOÀN










Biên soạn: Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên










Lưu hành nội bộ
Năm 2011



1




MỤC LỤC

Trang

Lời giới thiệu 2


Bài 1: Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
giai cấp công nhân Việt Nam 3
Bài 2: Tổng quan về lịch sử ra đời và chức năng
của Công đoàn Việt Nam 7
Bài 3: Hệ thống tổ chức Công đoàn và tài chính Công đoàn 24
Bài 4: Đoàn viên, cán bộ công đoàn và đại hội công đoàn các cấp 31
Bài 5: Nhiệm vụ và quyền hạn của Công đoàn các cấp 38
Bài 6: Vai trò của Công đoàn trong bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của người lao động trong các doanh nghiệp 52
Bài 7: Công đoàn với công tác vận động lao động nữ 59
Bài 8: Công tác đối ngoại và đổi mới hoạt động Công đoàn
trong giai đoạn hiện nay 66

Danh mục tài liệu tham khảo 74









2




LỜI GIỚI THIỆU


Luật Công đoàn là môn học trong chương trình đào tạo Cử nhân Luật của
Khoa Luật – Đại học Cần Thơ.
Giáo trình Luật Công đoàn được biên soạn nhằm mục đích giảng dạy và học
tập môn học Luật Công đoàn, bên cạnh đó đây còn là tài liệu để cán bộ công đoàn
các ngành, các cấp và người lao động tham khảo vận dụng vào thực tiễn hoạt động
của tổ chức công đoàn, nghiệp đoàn.
Họat động công đoàn đã và đang được đổi mới phù hợp với chủ trương,
đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước và tổ chức Công đoàn, do vậy, yêu cầu
xây dựng được giáo trình thật hoàn thiện là điều rất khó. Trong quá trình nghiên
cứu và giảng dạy, giáo trình sẽ được tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh để đáp ứng yêu
cầu phát triển của phong trào công nhân và hoạt động Công đoàn Việt Nam.
Trong quá trình biên soạn có thể còn nhiều khiếm khuyết nhất định, tác giả
rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc.
Tác giả
Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên
Giảng viên Khoa Luật – Đại học Cần Thơ





















3

Bài 1
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM

Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng, là động lực
chính của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, cơ sở xã hội chủ yếu của Đảng
cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay. Đặc biệt hiện nay trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vai trò của giai cấp công nhân hết
sức quan trọng. Đó là yêu cầu khách quan đối với giai cấp công nhân, nhằm bảo
đảm cho giai cấp công nhân đảm đương là vị trí trung tâm của cách mạng trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh nhằm đáp ứng yêu
cầu cách mạng trong giai đoạn mới, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng (tháng 6 năm 1996) chỉ rõ: Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh về mọi
mặt, phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, nâng cao trình độ học vấn và tay
nghề, có năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, có tác phong công nghiệp
và ý thức tổ chức kỷ luật, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng
cao làm nòng cốt trong việc xây dựng khối liên minh công nhân, nông dân, trí thức
và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.


1. Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo cách mạng và đi đầu trong sự nghiệp
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Vào giữa thế kỷ XIX, trên cơ sở phân tích sâu sắc nền kinh tế đại công
nghiệp tư bản chủ nghĩa, C.Mác đã rút ra kết luận khoa học: Giai cấp công nhân là
người lãnh đạo cách mạng thủ tiêu xã hội tư bản chủ nghĩa và xây dựng thành công
xã hội XHCN.
Là đại biểu cho phương thức sản xuất mới và lại là giai cấp tiên tiến, cách
mạng nhất trong xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam đảm nhận trọng trách lãnh
đạo cách mạng, xây dựng một xã hội mới dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Tuy chiếm tỷ lệ nhỏ trong dân số, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam vẫn
có đầy đủ điều kiện để lãnh đạo cách mạng và trong thực tế đã giữ vai trò ấy một
cách xuất sắc.
Ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế (tiêu biểu cho
lực lượng sản xuất mới, triệt để cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật cao), giai cấp
công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng như trưởng thành trước giai cấp
tư sản dân tộc, ra đời khi có sự khai thác đầu tiên của thực dân Pháp trên đất nước


4

ta và gắn liền với nền kinh tế đó, có mối liên hệ tự nhiên, mật thiết với nông dân,
sớm có Đảng trung thành với học thuyết Mác – Lênin lãnh đạo cho nên không bị
chia rẽ về tư tưởng và tổ chức, đảm bảo cho vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
nước ta.
Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng
XHCN hiện nay giai cấp công nhân không chỉ là giai cấp lãnh đạo mà còn là lực
lượng quan trọng đi đầu và trực tiếp tham gia quá trình chuyển đổi từ nền sản xuất
thủ công nghiệp sang nền sản xuất có công nghệ hiện đại. Bởi vậy phát triển công

nghiệp hóa, hiện đại hóa phải đồng thời với việc phát huy vai trò lãnh đạo và nòng
cốt của giai cấp công nhân.

2. Giai cấp công nhân là nền tảng của liên minh công – nông – trí thức và của
khối đại đoàn kết dân tộc
Xuất phát từ những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn cách
mạng Việt Nam, Đảng ta coi liên minh công – nông – trí thức là một vấn đề chiến
lược, là một điều kiện đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Nông dân lao động nước ta là lực lượng cách mạng rất đông đảo, nhưng giai
cấp nông dân phải đi cùng với giai cấp công nhân và chịu sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân thì mới có thể tự giải phóng và mới đi lên CNXH được. Mặt khác, giai
cấp công nhân đánh giá đầy đủ vai trò cách mạng to lớn của nông dân lao động,
luôn coi họ là người bạn đồng minh tự nhiên đáng tin cậy, cùng đoàn kết, giáo dục
và lãnh đạo họ làm cách mạng.
Trong xây dựng đất nước, giai cấp công nhân liên minh với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức tạo thành nòng cốt của khối đoàn kết toàn dân tập hợp trong
mặt trận dân tộc thống nhất.
Trong liên minh công – nông – trí thức, giai cấp công nhân giữ vị trí trung
tâm để phát triển các mối quan hệ liên minh vững chắc về kinh tế và chính trị với
nông dân; thúc đẩy giao lưu hàng hóa giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành
thị và nông thôn, từng bước công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn, mở rộng
thành phần công nhân trong lao động nông nghiệp. Giai cấp công nhân vươn lên
làm chủ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, đồng thời động viên đội ngũ trí thức
đem hết tâm huyết và tài năng phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng xã hội mới.

3. Giai cấp công nhân là cơ sở chính trị - xã hội của Đảng và Nhà nước
Mỗi chính đảng đều có cơ sở chính trị - xã hội của mình, đó trước hết là lực
lượng chính trị - xã hội mà chính đảng đó đại biểu. Điều quan trọng là lực lượng
chính trị - xã hội đó giữ vai trò như thế nào trong quy luật phát triển xã hội, đối với

các giai cấp, đội ngũ cũng như cộng đồng xã hội.


5

Trong thời đại ngày nay, giai cấp công nhân là lực lượng trung tâm của thời
đại, giai cấp công nhân là lực lượng chính trị - xã hội quyết định chiều hướng phát
triển xã hội, theo quy luật phát triển của nhân loại.
Cơ sở chính trị - xã hội của Đảng là giai cấp công nhân cũng có nghĩa Đảng
cộng sản vừa là sản phẩm, vừa là đội tiên phong, là bộ phận tiên tiến nhất của giai
cấp công nhân. Mặt khác, giai cấp công nhân với đội tiên phong của nó là Đảng
cộng sản còn có một cơ sở chính trị - xã hội nữa là quốc gia, dân tộc, Tổ quốc.
Giai cấp công nhân có nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ chính quyền Nhà nước
của mình, gương mẫu chấp hành mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước, không
ngừng phấn đấu tăng năng suất lao động, tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc
phòng, góp phần vào việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.

4. Xây dựng giai cấp công nhân gắn liền với xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh
Giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, chỉ
trở thành giai cấp lãnh đạo khi giác ngộ sâu sắc về sứ mệnh lịch sử của giai cấp và
chỉ khi giai cấp công nhân được tổ chức chặt chẽ, được dẫn dắt bởi một Đảng tiên
phong trong sạch, vững mạnh.
Xây dựng giai cấp công nhân gắn liền với xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tầm nhìn sâu rộng, tổ chức chặt chẽ nghiêm
minh, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo giỏi, có khả năng đề ra và chỉ đạo thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, giữ vững ổn định chính trị, xã hội,
tranh thủ thời cơ, đẩy mạnh phát triển kinh tế, đưa đất nước vượt qua mọi thử
thách.
Để làm cho Đảng trong sạch, Đảng cần loại bỏ những phần tử thoái hóa biến

chất, Đảng kết nạp những quần chúng ưu tú từ phong trào quần chúng vào tổ chức
Đảng.

5. Chú trọng tạo động lực cho giai cấp công nhân vươn lên đi đầu trong sự
nghiệp đổi mới, không ngừng phát triển về số lượng, nâng cao chất lượng, góp
phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Động lực trực tiếp đối với công nhân là những lợi ích thiết thực về việc làm
và các yêu cầu về văn hóa, xã hội. Đảng, Nhà nước, Công đoàn cần quan tâm
thường xuyên và có những giải pháp cụ thể khắc phục hiện tượng thiếu việc làm,
thu nhập thấp, ít được hưởng thụ văn hóa của công nhân.
Trong giai đoạn mới, để nâng cao chất lượng giai cấp công nhân, điều trước
hết là phải tổ chức tốt việc đào tạo nâng cao trình độ học vấn, trình độ nghề nghiệp,
khả năng tiếp cận với công nghệ, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Đồng thời nâng cao
giác ngộ giai cấp, bồi dưỡng truyền thống yêu nước, tinh thần độc lập tự chủ, ý


6

thức trách nhiệm cho công nhân, tạo thêm việc làm, cải thiện điều kiện làm việc,
thực hiện đúng pháp luật lao động, xây dựng cơ chế bảo đảm quyền của công dân
trong từng doanh nghiệp, cải thiện đời sống vật chất, văn hóa của công nhân, đẩy
mạnh thi đua xây dựng nếp sống văn hóa trong công nhân, lao động.

6. Xây dựng giai cấp công nhân là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng trong
thời kỳ phát triển mới
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng giai cấp công nhân
là một điều kiện quyết định cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của giai cấp công
nhân trong sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời
gắn chặt hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng với công nhân lao động.
Toàn thể Đảng viên có trách nhiệm xây dựng giai cấp công nhân và đẩy

mạnh phong trào công nhân, xây dựng tổ chức công đoàn – tổ chức chính trị-xã hội
rộng lớn của giai cấp công nhân, tích cực tham gia sinh hoạt công đoàn, gương mẫu
thực hiện công tác công đoàn, thể hiện vai trò, trách nhiệm vận động công nhân của
Đảng.

7. Phát huy vai trò của tổ chức công đoàn nhằm thực hiện tốt đường lối vận
động công nhân của Đảng
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công
nhân và của người lao động Việt Nam. Công đoàn mang tính chất giai cấp của giai
cấp công nhân và tính chất quần chúng.
Công đoàn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo tổ chức Công
đoàn nhằm phát huy vai trò của Công đoàn. Công đoàn là sợi dây chuyền nối liền
Đảng với quần chúng công nhân, lao động. Công đoàn là chỗ dựa, là người cộng
tác của Nhà nước.
Công đoàn có nhiệm vụ vận động, tổ chức, tập hợp, giáo dục và xây dựng
đội ngũ công nhân, lao động thành lực lượng cách mạng thực hiện mọi chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Những quan điểm trên đây của Đảng là những định hướng lớn cho công tác
vận động, xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn trong giai đoạn hiện
nay.









7



Bài 2
TỔNG QUAN VỀ LỊCH SỬ RA ĐỜI
VÀ CHỨC NĂNG CỦA CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM

1. Tổng quan về lịch sử ra đời của Công đoàn
1.1. Lịch sử ra đời và sự phát triển của Công đoàn trên thế giới
Giữa thế kỷ 18, cuộc Cách mạng công nghiệp đã diễn ra ở Anh, sau đó tiếp
tục ở nhiều nước khác. Cuộc cách mạng này bắt đầu từ việc phát minh và sử dụng
các máy kéo sợi, máy dệt và đặc biệt là máy hơi nước cùng các máy móc khác,
chuyển lao động bằng tay sang lao động bằng máy đưa năng suất lao động lên cao
chưa từng thấy.
Từ cuộc cách mạng công nghiệp, giai cấp công nhân và giai cấp tư sản đã ra
đời. Hai giai cấp này đối lập nhau về quyền lợi. Do bị bóc lột tàn tệ, giai cấp công
nhân đã đấu tranh chống giai cấp tư sản từ lẻ tẻ, rời rạc, tự phát dần dần thành cuộc
đấu tranh của cả một phân xưởng, một nhà máy, một ngành, một địa phương. Trong
đấu tranh, công nhân nhận thấy cần tập hợp lực lượng, thống nhất hành động mới
bảo vệ được quyền lợi của mình. Do đó đã hình thành một tổ chức để đáp ứng yêu
cầu ấy- đó là Công đoàn.
Vậy nguyên nhân chủ yếu công đoàn ra đời là vì quan hệ lao động do mâu
thuẫn trong mối quan hệ chủ thợ và để tập hợp bảo vệ quyền lợi của công nhân,
công đoàn ra đời là tất yếu khách quan. Công đoàn ra đời đầu tiên ở Anh vào đầu
năm 1776, Pháp năm 1789, Mỹ năm 1827, Đức năm 1848.
Dưới ánh sáng của Chủ nghĩa Mác, phong trào đấu tranh của công nhân ngày
càng được củng cố. Để truyền bá Chủ nghĩa Mác vào sâu rộng trong giai cấp công
nhân, Mác và Ăng-gen đã đứng ra thành lập Hội Liên hiệp Lao động quốc tế (tức
Quốc tế thứ nhất) vào ngày 28-9-1864 ở Luân Đôn. Quốc tế thứ nhất đồng thời làm
nhiệm vụ Quốc tế công đoàn, vạch ra cương lĩnh cơ bản và tích cực đấu tranh cho
các yêu cầu cụ thể của công đoàn.

Phong trào đấu tranh của công nhân và công đoàn ngày càng diễn ra mạnh
mẽ, đặc biệt là sau Quốc tế II được thành lập ngày 14-5-1889 và trong những năm
Chiến tranh thế giới lần thứ I. Thắng lợi Cách mạng tháng 10 Nga 1917 đã làm
vang dội thế giới, giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga, thành
lập nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới, phong trào công đoàn thế giới bước sang
giai đoạn mới.
Trong thời kỳ này, công đoàn Xô Viết có một vị trí cực kỳ quan trọng trong tổ
chức công đoàn quốc tế. Từ sự thắng lợi của Cách mạng tháng 10 Nga, phong trào


8

công nhân và công đoàn đã phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước khác trên thế giới như
Ý, Hung-ra-ri. Sự ra đời của quốc tế III (1919) và Công hội Đỏ (RILU) năm 1921
đã đánh dấu một bước tiến mới của công đoàn thế giới.
Chiến tranh thế giới lần II kết thúc, hệ thống các nước Xã hội chủ nghĩa ra đời
thể hiện sự cân bằng lực lượng giữa Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa tư bản. Bấy
giờ, tổ chức công đoàn đã tích cực tham gia quản lý kinh tế -xã hội. Trong thời kỳ
này, nhiều tổ chức công đoàn ra đời, tiêu biểu nhất là Liên hiệp công đoàn thế giới
tháng 10-1945 (Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức này từ năm
1949); Liên hiệp Quốc tế các công đoàn tự do (1949). Những tổ chức công đoàn
mang tính quốc tế này vẫn tồn tại cho đến ngày nay.
Tuy nhiên, vào thập kỷ cuối của thế kỷ 20, khi chế độ Xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, phong trào công đoàn thế giới đã có những
khủng hoảng về kinh nghiệm, mô hình tổ chức, nội dung và phương pháp hoạt
động. Ở các nước Xã hội chủ nghĩa còn lại như Việt Nam, Trung Quốc, Cu-ba,
Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, công đoàn dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản cầm quyền đang tiến hành đổi mới để phù hợp với tình hình mới.
Hiện nay, trong cơ chế thị trường đang diễn ra sôi động trên phạm vi toàn thế
giới, các tập đoàn tài chính quốc tế, các công ty đa quốc gia đã áp dụng chính sách

đầu tư linh hoạt và phương pháp quản lý mềm dẻo, tăng cường bóc lột công nhân.
Thêm vào đó là tình hình việc làm của công nhân và người lao động trên thế giới
đang trở thành vấn đề lớn.Vì vậy, công đoàn thế giới cần phải đổi mới, kiện toàn tổ
chức công đoàn, phải phấn đấu vươn lên không ngừng vì sự nghiệp hoà bình thế
giới, ổn định kinh tế xã hội và bảo vệ người lao động.
Trải qua một thời gian dài phát triển, nhiều tổ chức công đoàn ở các quốc gia
đã có đủ điều kiện nhận thức và kinh nghiệm xây dựng tổ chức công đoàn, vai trò
và vị trí công đoàn ngày càng được khẳng định. Nhiều tổ chức công đoàn đã đứng
ra đấu tranh đòi dân chủ, công bằng xã hội, đưa ra nhiều kiến nghị đòi tăng tiền
lương, giảm giờ làm, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống cho người lao động. Từ
khi ra đời cho đến nay, tổ chức công đoàn đã có nhiều đóng góp đáng kể cho tiến
trình cách mạng thế giới. Ngày nay, công đoàn đã trở thành một tổ chức quan trọng
trong hệ thống chính trị của nhiều quốc gia.
1.2. Lịch sử ra đời và sự phát triển của Công đoàn ở Việt Nam
Sau Đại chiến thế giới lần thứ I, thực dân Pháp tiến hành ồ ạt đợt khai thác
thuộc địa lần thứ II (1919-1929) ở nước ta. Đây là lúc giai cấp công nhân Việt Nam
tăng nhanh về số lượng và chuyển biến mau lẹ về chất lượng. Đến cuối năm 1929,
số công nhân chuyên nghiệp đã lên tới 22.000 người với cơ cấu thuần nhất, sống
tập trung và phân bố đều trên địa bàn kinh tế cả nước.


9

Ảnh hưởng từ Cách mạng tháng 10 Nga và sau đó đặc biệt là với sự truyền bá
Chủ nghĩa Mác - Lênin của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, phong trào công nhân Việt
Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, hoàn thành bước chuyển biến từ tự phát sang
tự giác, từ đó, sự hình thành và phát triển của tổ chức công đoàn Việt Nam gắn chặt
với cuộc vận động thành lập Đảng. Có thể nói, từ khi Việt Nam Thanh niên cách
mạng đồng chí Hội được thành lập (tháng 6-1925) đến khi Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời (3-2-1930) cũng là lúc xuất hiện các tổ chức công đoàn đầu tiên trong

lịch sử phong trào công nhân nước ta. Các cuộc bãi công từ 1925 đã thể hiện rõ nét
ý thức giai cấp, mục đích chính trị của cuộc tranh đấu. Từ những tổ chức tương tế
buổi đầu đã dần dần xuất hiện các Công hội đỏ bí mật. Năm 1919, sau khi tham gia
vụ binh biến Hắc Hải bị trục xuất về nước, đồng chí Tôn Đức Thắng đã lập ra Công
hội đỏ Sài Gòn với nhiều cơ sở ở nhà máy đèn chợ Quán, xưởng Ba Son. Trong
cuộc bãi công lịch sử ở Ba Son (tháng 8-1925), số hội viên Công hội đỏ ở Sài Gòn
lên tới 300 người, ghi một dấu son trong lịch sử công nhân Việt Nam.
Cùng lúc ấy, một số công nhân và thuỷ thủ Việt Nam làm việc ở Pháp và
Trung Quốc được kết nạp vào Tổng công đoàn thống nhất Pháp và Hải viên Công
hội (Công nhân tàu biển). Từ mùa thu 1928, khi Kỳ bộ Bắc kỳ của Việt Nam Thanh
niên cách mạng đồng chí Hội phát động phong trào vô sản hoá thì Công hội đỏ
càng lớn mạnh nhất là ở Bắc kỳ- trung tâm của phong trào công nhân nước ta.
Sau cuộc bãi công A-vi-a (tháng 6-1929) thắng lợi, đồng chí Nguyễn Đức
Cảnh đã triệu tập Hội nghị Công hội đỏ Bắc kỳ lần thứ I vào ngày 28-7-1929 tại
số nhà 15 Phố Hàng Nón (Hà Nội). Hội nghị quyết định ra báo Lao động, tạp chí
Công hội đỏ để đẩy mạnh công tác công vận.
Công hội đỏ trong cao trào 1930-1931 đã có cơ sở mạnh mẽ khắp trong nước
và đi đầu trong các cuộc bãi công mở đường cho việc thành lập Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Tháng 8-1930, thay mặt Đông phương Bộ của Quốc tế cộng sản, đồng chí Nguyễn
Ái Quốc đã chỉ định Công hội đỏ Việt Nam cử đại biểu đi dự Đại hội Công hội đỏ
quốc tế lần thứ VI ở Mát-xcơ-va. Khi ấy thông qua Công hội đỏ, đồng chí Trần Phú
đã đi khảo sát phong trào công nhân Nam Định, Hải phòng, Hòn Gai để viết bản
Luận cương chính trị lịch sử. Được cử làm trưởng ban Công vận trung ương, ngày
20-1-1931 tại Sài Gòn, đồng chí Trần Phú - Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng đã triệu
tập Hội nghị công nhân Đông Dương lần thứ I vạch ra phương hướng tổ chức và
đấu tranh cho phong trào công nhân và công đoàn.
Trong thời kỳ mặt trận dân chủ Đông Dương (1936-1939) hưởng ứng phong
trào Đông Dương đại hội và đòi tự do cơm áo hoà bình dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Đông Dương hàng ngàn cuộc bãi công của nửa triệu công nhân tham gia
đã nổ ra liên tiếp ở các thành phố lớn trong cả nước. Đầu năm 1937 công nhân đấu

tranh sôi sục đòi quyền tự do lập nghiệp đoàn ở Hà Nội, Sài Gòn, Vinh. Mặc dù


10

bọn phản động thuộc địa ngăn cản, nhiều nghiệp đoàn vẫn được thành lập và tự do
hoạt động, báo chí vẫn tự do xuất bản và công khai tuyên truyền Chủ nghĩa Mác-
Lênin. Chưa giành được toàn bộ quyền tự do nghiệp đoàn, công nhân Việt Nam
không bỏ lỡ cơ hội lập các Hội ái hữu ở khắp nơi.
Tháng 9-1939, Đại chiến Thế giới lần thứ II bùng nổ, các tổ chức của công
nhân và công bộ công đoàn phải rút vào bí mật.
Trong thời kỳ vận động Cách mạng tháng Tám (1939-1945), Hội công nhân
cứu quốc - một lực lượng quan trọng của Mặt trận Việt Minh được thành lập nhất là
ở Bắc và Trung Bộ. Hội công nhân cứu quốc vừa bí mật đấu tranh đòi quyền lợi
hằng ngày, vừa tổ chức các đội võ trang làm nòng cốt cho cuộc nổi dậy ở đô thị.
Cách mạng tháng Tám thành công, nhân dân lao động Việt Nam từ chỗ là dân
nô lệ mất nước đã đứng lên làm chủ đất nước, chủ xí nghiệp. Ngày 2-9-1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
cộng hoà- nhà nước do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Để thực sự thống
nhất về tổ chức công đoàn, Hội nghị cán bộ công nhân cứu quốc họp ngày 20-5-
1946 quyết định đổi Hội công nhân cứu quốc thành Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam. Ngày 20-7-1946, tại thủ đô Hà Nội, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam
chính thức tuyên bố thành lập đánh dấu bước ngoặt của phong trào công đoàn Việt
Nam với một tổ chức thống nhất và ổn định thật sự trong cả nước.
Tháng 1-1949, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam lần thứ I họp ở Thái
Nguyên đã bầu ra Ban chấp hành Trung ương do đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ
tịch danh dự và đồng chí Hoàng Quốc Việt làm Chủ tịch.
Trong sự nghiệp cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và sự nghiệp giải
phóng miền Nam (1954-1975), công đoàn Việt Nam lớn mạnh vượt bậc. Ngày 14-
9-1957, Quốc hội nhất trí thông qua Luật công đoàn qui định vai trò, trách nhiệm,

quyền hạn của công đoàn Việt Nam.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (tháng 9-1960), trong Đại hội công
đoàn Việt Nam lần thứ II (tháng 2-1961), Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam đổi
tên thành Tổng công đoàn Việt Nam cho phù hợp với tình hình mới. Tháng 2-1974,
tiến hành đại hội Đại biểu lần thứ III.
Khi nước nhà đã thống nhất từ năm 1978 đến nay công đoàn Việt Nam đã tiến
hành 5 lần đại hội: Đại hội lần thứ IV (tháng 5-1978) và tiếp theo Đại hội công
đoàn Việt Nam lần thứ V (tháng 11-1983), Đại hội công đoàn lần VI (tháng 10-
1988), Đại hội công đoàn lần VII (tháng 11-1993), Đại hội công đoàn lần VIII
(tháng 11-1998). Đặc biệt tại Đại hội công đoàn lần VI, đại hội quyết định đổi tên
Tổng công đoàn Việt Nam thành Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam nhằm xác
định rõ nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hoạt động công đoàn không chỉ chú


11

trọng đến đối tượng công nhân- viên chức trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà
nước mà phải mở rộng đến mọi công nhân lao động trong các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh và cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Để định hướng và xây dựng nền tảng cho hoạt động công đoàn trong giai
đoạn mới, Nhà nước ta đã ban hành Luật công đoàn được Quốc hội thông qua ngày
30-6-1990 thay cho Luật công đoàn 1957; đồng thời các kỳ Đại hội đại biểu toàn
quốc của Công đoàn Việt Nam đã thông qua Điều lệ Công đoàn Việt Nam, và Điều
lệ Công đoàn Việt Nam hiện hành được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
thông qua vào ngày 13/10/2003. Đại hội lần IX công đoàn Việt Nam đã thành công
tốt đẹp, với sứ mệnh lịch sử của mình công đoàn sẽ tiếp tục là một nhân tố không
thể thiếu được trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
phấn đấu không ngừng cho sự nghiệp công đoàn, cho việc bảo vệ quyền lợi của
người lao động.
2. Chức năng của Công đoàn Việt Nam

2.1. Khái niệm về công đoàn Việt Nam
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao
động cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ
quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham
gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan
Nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người
lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Điều 10 Hiến pháp 1992).
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của
người lao động Việt Nam (gọi chung là người lao động) tự nguyện lập ra dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam; là thành viên trong hệ thống chính trị của
xã hội Việt Nam; là trường học chủ nghĩa xã hội của người lao động (Điều 1 Luật
Công đoàn 1990).
Nghiệp đoàn là tổ chức cơ sở của công đoàn, tập hợp những người lao động
tự do hợp pháp cùng ngành, nghề, được thành lập theo địa bàn hoặc theo đơn vị lao
động có 10 đoàn viên trở lên và được công đoàn cấp trên quyết định thành lập.
1

Công đoàn xuất hiện khi giới công nhân biết ý thức về sức mạnh tập thể và
biết chăm lo bảo vệ quyền lợi cho chính mình. Tổ chức công đoàn ban đầu chỉ là
một tổ chức được lập ra nhằm đấu tranh và hạn chế sự bóc lột của giới chủ chứ
chưa phải là một tổ chức có nhiều quyền năng như ngày nay. Sự phát triển của công
đoàn gắn liền với sự lớn mạnh của giai cấp công nhân, với sự phát triển của công
nghiệp, kỹ nghệ và sự liên kết của giới những người chủ. Chính trong sự phát triển
đó, sinh hoạt công đoàn cũng được thúc đẩy và dần chiếm được vị trí quan trọng
trong hệ thống các tổ chức xã hội, cũng như trong đời sống của người lao động. Từ

1
Điều 16 Điều lệ Công đoàn năm 2008.



12

chỗ chỉ được thừa nhận trong phạm vi hẹp, ngày nay công đoàn đã được thừa nhận
trong phạm vi toàn xã hội.
2.2. Chức năng của công đoàn Việt Nam
Chức năng của công đoàn biểu hiện một cách khái quát về phạm vi hoạt động,
mục đích hoạt động và sự định hướng trong hoạt động của các cấp trong tổ chức
công đoàn. Các chức năng của công đoàn bao gồm :
- Chức năng bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công nhân và người
lao động.
- Chức năng tổ chức giáo dục, vận động công nhân và người lao động;
- Chức năng đại diện cho người lao động tham gia quản lý kinh tế xã hội,
quản lý Nhà nước.
Chức năng này có thể thay đổi tùy thuộc và điều kiện kinh tế xã hội có liên quan
ở từng giai đoạn. Từ các chức năng đó có thể xác định được các nhiệm vụ chung và
những nhiệm vụ cụ thể cho từng cấp công đoàn ở từng lĩnh vực phù hợp.
2.3. Mục đích, vai trò của công đoàn
* Mục đích của Công đoàn
Hoạt động của công đoàn vừa có mục đích kinh tế vừa có mục đích xã hội. Mục
đích kinh tế của công đoàn thể hiện ở chỗ hoạt động của tổ chức công đoàn gắn với
việc bảo đảm đời sống và điều kiện lao động cho giới lao động, như đòi tăng lương,
giảm giờ làm, bảo đảm các phúc lợi xã hội Mục đích xã hội của công đoàn thể
hiện ở chỗ bên cạnh các mục tiêu kinh tế, tổ chức này còn nhằm bảo vệ các quyền
gắn liền với việc bảo vệ nhân phẩm của người lao động và nâng cao địa vị của
người lao động trong mối tương quan lao động và xã hội của giới chủ.
* Vai trò của Công đoàn
Trong xã hội tư bản, các nghiệp đoàn có vai trò rất quan trọng. Ở đó, các tổ
chức nghiệp đoàn có tư cách như là “lực lượng quân bình”, kéo cân lại vị thế vốn
nhỏ bé của người lao động làm thuê so với thế lực “vạn năng” của nhà tư bản. Nhà
nước tư sản đã dùng công cụ pháp lý để xác lập quyền thành lập và hoạt động

nghiệp đoàn của người lao động, và cũng bằng công cụ pháp lý giữ cho các nghiệp
đoàn hoạt động trong khuôn khổ của trật tự xã hội tư bản.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng, công đoàn cũng
có một vị trí, vai trò rất quan trọng. Ngoài tính chất là một tổ chức nghề nghiệp của
người lao động, công đoàn ở Việt Nam còn được xác định là một tổ chức chính trị
xã hội. Chính tính chất nghề nghiệp và tính chất chính trị xã hội đã khiến cho tổ
chức công đoàn có vị trí, vai trò, chức năng đặc biệt: không chỉ đại diện cho lực
lượng tự mình, công đoàn còn đại diện cho mọi người lao động trong xã hội; không


13

chỉ bảo vệ cho lợi ích của người lao động, công đoàn còn đại diện cho họ tham gia
quản lý kinh tế xã hội.
2.4. Tính chất, vị trí của Công đoàn
* Tính chất của Công đoàn Việt Nam
Tính chất của một tổ chức là đặc điểm riêng tương đối ổn định của tổ chức,
để từ đó phân biệt tổ chức đó với đó chức khác. Công đoàn Việt Nam có tính chất
giai cấp của giai cấp công nhân và tính chất quần chúng rộng lớn.
Biểu hiện tính chất giai cấp công nhân của Công đoàn Việt Nam
- Công đoàn Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Hoạt động của Công đoàn Việt Nam nhằm thực hiện mục tiêu chính trị của
Đảng đề ra và thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xóa bỏ
chế độ người bóc lột người, xây dựng chế độ xã hội mới không có người
bóc lột người.
- Xây dựng tổ chức Công đoàn Việt Nam đảm bảo thống nhất hành động
của giai cấp công nhân Việt Nam.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ Công đoàn theo đường lối cán bộ của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
- Tổ chức và hoạt động Công đoàn quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ -

một nguyên tắc tổ chức của giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Biểu hiện tính chất quần chúng của Công đoàn Việt Nam
- Công đoàn Việt Nam kết nạp đông đảo công nhân, viên chức và lao động
vào tổ chức Công đoàn. Mọi người công nhân, viên chức và lao động đều
có quyền tự nguyện gia nhập và ra khỏi tổ chức Công đoàn theo quy định
của Điều lệ Công đoàn Việt Nam.
- Cơ quan lãnh đạo của Công đoàn Việt Nam bao gồm những người được
quần chúng người lao động tín nhiệm để đại diện cho họ.
- Nội dung hoạt động của Công đoàn Việt Nam đáp ứng yêu cầu và nguyện
vọng của người lao động.
- Cán bộ Công đoàn trưởng thành từ phong trào công nhân, từ phong trào
quần chúng ở cơ sở.
Hai tính chất của Công đoàn nêu trên có mối quan hệ gắn bó với nhau và
đều quan trọng như nhau.
* Vị trí của Công đoàn Việt Nam
Vị trí của Công đoàn là địa vị của Công đoàn giữa các tổ chức khác của hệ
thống chính trị và mối quan hệ của Công đoàn với các tổ chức đó.


14

Trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, vị trí của Công đoàn khác nhau
căn bản. Trong chủ nghĩa tư bản, công đoàn đại diện cho quần chúng lao động
đứng đối lập với giai cấp bóc lột đấu tranh đòi lợi ích kinh tế, tiến tới giành chính
quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Trong chủ nghĩa xã hội, Công đoàn trở
thành một thành viên quan trọng trong hệ thống chính trị, là đại diện cho những
người làm chủ xã hội.
Công đoàn Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị, là trung tâm tập
hợp, đoàn kết, giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân, lao động.

Công đoàn là chổ dựa vững chắc của Đảng, là sợi dây nối liền Đảng với quần
chúng. Công đoàn là người cộng tác đắc lực của Nhà nước.
2.5. Nhiệm vụ của công đoàn
Nhiệm vụ của công đoàn là toàn bộ những mục tiêu mà công đoàn cần đạt
tới, là những vấn đề đặt ra mà công đoàn cần giải quyết. Thực hiện các nhiệm vụ đó
chính là thực hiện các chức năng đã được xác định của công đoàn trong một giai
đoạn nhất định, phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của giai đoạn ấy. Nhiệm vụ
của công đoàn là yếu tố dễ biến động hơn so với chức năng. Mỗi nhiệm vụ cũng có
thể có sự quan tâm ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào từng giai đoạn nhất định.
Trong giai đoạn hiện nay, công đoàn có những nhiệm vụ sau đây :
- Đại diện cho người lao động tham gia với cơ quan Nhà nước xây dựng và thực
hiện các chương trình kinh tế xã hội, các chính sách, các cơ chế quản lý kinh tế, các
chủ trương chính sách có liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm của người lao
động.
- Tập hợp, giáo dục và tuyên truyền pháp luật để người lao động hiểu rõ quyền
và nghĩa vụ của mình, của các cơ quan và các tổ chức. Từ đó tạo cho người lao
động các phương thức xử sự phù hợp trong các mối quan hệ xã hội và pháp lý.
- Thực hiện các quyền đã được pháp luật ghi nhận một cách có hiệu quả để bảo
vệ và chăm lo đến lợi ích và đời sống của người lao động.
- Tham gia các quan hệ trong nước và quốc tế nhằm xây dựng các mối quan hệ
đối nội và đối ngoại rộng rãi, góp phần thực hiện đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước, tạo điều kiện tốt cho môi trường lao động xã hội.
Những nhiệm vụ này đã được thể chế trong các văn bản pháp luật của Nhà
nước và chi tiết hóa thành những nhiệm vụ trực tiếp của công đoàn trong quá trình
hoạt động ở các công đoàn cơ sở. Song muốn quá trình hoạt động đó đạt được hiệu
quả, công đoàn cần có những điều kiện nhất định bao gồm:
- Quyền tự do công đoàn,
- Tư cách pháp nhân
- Quyền sở hữu tài sản,



15

- Sự bảo trợ của Nhà nước và các đơn vị sử dụng lao động,
- Các điều kiện khác.
Các điều kiện này, vừa mang tính chất pháp lý, vừa mang tính chất kinh tế -
xã hội, có ý quan trọng đối với hoạt động của công đoàn, chi phối và quyết định
quá trình thực hiện các nhiệm vụ đề ra.
2.6. Đặc điểm và phân loại thẩm quyền của công đoàn
* Đặc điểm thẩm quyền của công đoàn
Thẩm quyền của công đoàn là tổng hợp các quyền và các nghĩa vụ của công
đoàn được pháp luật ghi nhận, có thể thực hiện hoặc phải thực hiện một cách độc
lập với tư cách là một chủ thể, trong một giới hạn nhất định. Đề cập đến thẩm
quyền của công đoàn chính là đề cập đến vấn đề quyền hạn và trách nhiệm của
công đoàn.
Thẩm quyền của công đoàn có những đặc điểm sau đây :
- Mặc dù Công đoàn là một tổ chức chính trị-xã hội của người lao động nhưng
thẩm quyền của công đoàn không phải do công đoàn sáng tạo mà do ý chí của Nhà
nước. Nhà nước quy định cho công đoàn những quyền hạn và trách nhiệm nhất
định trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động thông qua
Luật Công đoàn.
- Tuy chịu sự điều chỉnh của pháp luật song giới hạn của thẩm quyền không chỉ
ở pháp luật mà còn ngay ở các hành vi của tổ chức công đoàn, hơn nữa còn bị chi
phối bởi pháp luật quốc tế trong những trường hợp nhất định.
- Thẩm quyền của công đoàn được pháp luật ghi nhận là các quyền của công
đoàn chứ không gồm các nghĩa vụ. Nói cách khác, pháp luật chỉ ghi nhận quyền
hạn của công đoàn mà không trực tiếp ghi nhận các nghĩa vụ.
- Thẩm quyền của công đoàn vừa là quyền hạn trong việc đại diện cho tập thể
người lao động trong mối tương quan với người sử dụng lao động, vừa là quyền
hạn trong việc tham gia “điều chỉnh” quan hệ lao động.

* Phân loại thẩm quyền của công đoàn:
Việc phân loại các quyền của công đoàn là cần thiết và có ý nghĩa cả về lý
luận lẫn thực tiễn. Nó chẳng những cho thấy được tính chất các quyền của công
đoàn mà còn cho thấy sự tương quan về địa vị pháp lý của tổ chức này với địa vị
pháp lý của các cơ quan, tổ chức hữu quan khác, đặc biệt là với người sử dụng lao
động.
Tùy theo những tiêu chí phân biệt khác nhau, thẩm quyền của công đoàn
được phân thành những loại khác nhau.


16

Căn cứ vào lĩnh vực tác động, công đoàn có thẩm quyền trên hai lĩnh vực
chủ yếu sau:
- Lĩnh vực tham gia quản lý Nhà nước về lao động, quản lý sản xuất kinh
doanh, thực hiện quyền làm chủ tập thể của người lao động.
- Lĩnh vực chăm lo cải thiện điều kiện lao động, điều kiện sống, bảo vệ quyền
và lợi lịch hợp pháp của người lao động.
Căn cứ vào tính chất, công đoàn có ba loại quyền sau :
- Loại quyền tham gia: là loại quyền mà công đoàn chỉ được tham gia đóng góp
ý kiến, hỏi ý kiến, còn việc quyết định là thuộc về cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền hay người sử dụng lao động.
- Loại quyền chung: Tổ chức công đoàn và cơ quan Nhà nước, người sử dụng
lao động có quyền như nhau trong khi quyết định một vấn đề nào đó.
- Loại quyền độc lập: công đoàn có quyền quyết định, còn nghĩa vụ đáp ứng là
thuộc về phía các cơ quan Nhà nước, người sử dụng lao động.
Căn cứ vào cấp công đoàn, thẩm quyền của Công đoàn được chia thành:
- Thẩm quyền của công đoàn trung ương: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam.
- Thẩm quyền của công đoàn cấp trên cơ sở: Các công đoàn tỉnh, ngành, quận,
huyện

- Các quyền của công đoàn cơ sở: công đoàn của các đơn vị sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ.
3. Địa vị pháp lý của Công đoàn Việt Nam
Địa vị pháp lý của công đoàn thể hiện trên hai lĩnh vực chủ yếu là:
- Lĩnh vực tham gia quản lý nhà nước về lao động, quản lý sản xuất kinh
doanh, thực hiện quyền làm chủ tập thể lao động.
- Lĩnh vực chăm lo cải thiện đời sống và việc làm cho người lao động, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động được pháp luật quy định.
3.1. Địa vị pháp lý của Công đoàn trong lĩnh vực tham gia quản lý nhà nước về
lao động, quản lý sản xuất kinh doanh, thực hiện quyền làm chủ của tập thể lao
động
3.1.1. Công đoàn trong việc tham gia quản lý Nhà nước về lao động
Nội dung quản lý Nhà nước về lao động bao gồm: việc xây dựng và tổ chức
các chương trình quốc gia về lao động, việc làm, các chế độ chính sách về lao động
và xã hội; phân bổ sử dụng nguồn lao động, thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp
luật lao động
Trong hoạt động quản lý Nhà nước về lao động, công đoàn có quyền :


17

- Tham gia xây dựng các chương trình quốc gia về kinh tế xã hội,
- Quyền tham dự hội nghị của các cơ quan chính quyền các cấp,
- Tham gia giải quyết việc làm,
- Tham gia quản lý bảo hiểm xã hội,
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và công đoàn các cấp có quyền tham gia
giám sát việc quản lý Nhà nước về lao động theo quy định của pháp luật.
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam có quyền trình dự án luật ra Quốc hội,
tham gia kiểm tra, giám sát việc thi hành các quy định của pháp luật lao động, tham
gia hướng dẫn việc thực hiện những văn bản pháp quy về lao động có liên quan và

trong phạm vi được Nhà nước giao.
Liên đoàn lao động địa phương tham gia ý kiến với chính quyền cùng cấp về
những vấn đề quản lý lao động tại địa phương, tham gia kiểm tra, giám sát việc
thực hiện các văn bản pháp luật lao động. Công đoàn ngành đi sâu vào việc quản lý
kinh tế kỹ thuật trong ngành, tham gia xây dựng và thực hiện các chế độ chính sách
về lao động, tiền lương, tiền thưởng, về đào tạo, quản lý và sử dụng tốt đội ngũ cán
bộ kỹ thuật của ngành.
Trong phạm vi chức năng của mình, công đoàn tham gia kiểm tra việc chấp
hành pháp luật về hợp đồng lao động, tiền lương, kỷ luật lao động, bảo hộ lao động,
bảo hiểm xã hội và các quy định khác có liên quan đến quyền và lợi ích của người
lao động. Trong khi kiểm tra giám sát, công đoàn có quyền yêu cầu người sử dụng
lao động (người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tổ chức ) trả lời những vấn đề đặt ra,
kiến nghị các biện pháp sửa chữa thiếu sót, ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm pháp
luật và xử lý người vi phạm. Người sử dụng lao động trong phạm vi chức trách của
mình, phải trả lời cho công đoàn biết kết quả giải quyết những kiến nghị do tổ chức
này nêu ra trong thời hạn pháp luật quy định. Đối với những vấn đề chưa có điều
kiện giải quyết hoặc không thể giải quyết được cũng cần phải cho biết rõ lý do.
Ngoài ra trong những trường hợp cần thiết, công đoàn có thể tổ chức đối
thoại giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động để giải quyết những vấn đề
liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động.
3.1.2. Việc thừa nhận tổ chức công đoàn cơ sở và tạo điều kiện thuận lợi để công
đoàn hoạt động
Khi tổ chức công đoàn được thành lập theo đúng Luật Công đoàn, Điều lệ công
đoàn, thì người sử dụng lao động phải thừa nhận tổ chức đó. Người sử dụng lao
động phải cộng tác chặt chẽ và tạo điều kiện thuận lợi để công đoàn hoạt động theo
quy định của Bộ luật Lao động và Luật Công đoàn. Người sử dụng lao động không
được phân biệt đối xử vì lý do người lao động thành lập, gia nhập, hoạt động công
đoàn, không được dùng các biện pháp kinh tế và các thủ đoạn khác để can thiệp



18

vào tổ chức, hoạt động công đoàn; phải bảo đảm các phương tiện cần thiết cho
công đoàn hoạt động, phải dành một số thời gian cần thiết cho cán bộ công đoàn
không chuyên trách hoạt động, có trả lương
2
. Đối với người làm công tác công
đoàn chuyên trách thì tiền lương của họ do quỹ công đoàn chi trả, song phúc lợi tập
thể và các quyền lợi khác cũng được hưởng như mọi người khác trong doanh
nghiệp.
Ở những doanh nghiệp đang hoạt động chưa có tổ chức công đoàn thì chậm
nhất sau sáu tháng, kể từ ngày 01/01/2003 và ở những doanh nghiệp mới thành lập
thì sau sáu tháng kể từ ngày bắt đầu hoạt động, công đoàn địa phương, công đoàn
ngành có trách nhiệm thành lập tổ chức công đoàn lâm thời tại doanh nghiệp để đại
diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và tập thể lao động.
3.1.3. Công đoàn trong việc tổ chức, chỉ đạo đại hội công nhân viên chức, và
phong trào thi đua trong cơ quan, doanh nghiệp
Đại hội công nhân viên chức là hình thức hoạt động dân chủ của người lao động
để bàn về việc thực hiện mục tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh và vấn đề cải thiện
các điều kiện làm việc, sinh hoạt và đời sống của người lao động.
Giám đốc cùng với công đoàn chịu trách nhiệm chuẩn bị nội dung và tổ chức
đại hội. Thông thường đại hội công nhân viên chức họp mỗi năm 2 lần, ít nhất mỗi
năm 1 lần. Thông qua đại hội, tập thể lao động đề ra phương hướng và biện pháp
thực hiện sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống, kể cả việc đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ, tay nghề cho người lao động.
Để có thể hoàn thành tốt mục tiêu sản xuất kinh doanh, trên cơ sở đó cải thiện
đời sống của người lao động, công đoàn cùng với người sử dụng lao động đề ra
phương hướng, biện pháp và các chỉ tiêu thi đua để tổ chức và vận động các phong
trào thi đua. Mục đích của việc tổ chức các phong trào thi đua là nhằm phát huy
sáng kiến, trao đổi kinh nghiệm để tăng năng suất lao động, hiệu quả công tác, tiết

kiệm nguyên vật liệu, hoàn thành tốt mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Đối với những
người trực tiếp sản xuất, mục tiêu đó thể hiện ở việc áp dụng các biện pháp hoàn
thành tốt định mức lao động, định mức tiêu hao vật tư Đối với những người làm
công tát khoa học kỹ thuật, mục tiêu đó thể hiện ở các biện pháp thực hiện tốt các
đề tài nghiên cứu nhằm thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật. Đối với những người
làm công tác nghiệp vụ hành chính, mục tiêu đó là việc hoàn thành nhiệm vụ,
chương trình công tác chuyên môn.
Trong phong trào thi đua, giám đốc có nghĩa vụ cung cấp các điều kiện vật chất
cho việc duy trì phong trào thi đua. Công đoàn có quyền yêu cầu giám đốc và các

2
Không được ít hơn 3 ngày làm việc trong một tháng.


19

cơ quan chuyên môn hữu quan khác giải quyết những khó khăn về vật chất kỹ
thuật, nhất là việc áp dụng các thành tựu khoa học, sáng kiến mới vào sản xuất.
Công đoàn phối hợp với người sử dụng lao động tổ chức việc sơ kết, tổng kết
phong trào thi đua; có khen thưởng đối với những người lao động có thành tích
trong phong trào và bồi dưỡng những điển hình tốt. Công đoàn có quyền cử đại
diện của mình vào các ban thi đua để tổ chức và chỉ đạo phong trào thi đua.
3.1.4. Công đoàn trong việc ký kết thỏa ước lao động tập thể với người sử dụng lao
động
Thỏa ước lao động tập thể là văn bản ký kết giữa Ban chấp hành công đoàn cơ
sở (hoặc tổ chức công đoàn lâm thời) với giám đốc doanh nghiệp về những vấn đề
có liên quan trong quan hệ lao động.
Theo điều 45 Bộ luật Lao động, công đoàn la một trong hai chủ thể tham gia
xây dựng thỏa ước lao động tập thể. nội dung thỏa ước lao động tập thể bao gồm
những cam kết về việc làm thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, tiền

thưởng, định mức lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo hiểm xã hội
đối với người lao động. Nhà nước khuyến khích các bên ký kết thỏa ước lao động
tập thể với những quy định có lợi hơn cho người lao động so với quy định của pháp
luật lao động.
Các điều khoản của thỏa ước lao động tập thể chỉ có thể được hình thành trên cơ
sở các bên thương lượng, thỏa thuận tự nguyện và bình đẳng. Người sử dụng lao
động không thể đưa ra các điều kiện ép buộc phía công đoàn ký kết những điều
khoản vi phạm pháp luật.
Nhà nước, bằng công cụ pháp luật để cho công đoàn đại diện cho người lao
động trong việc thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể thể hiện sự tôn
trọng của Nhà nước đối với tổ chức rộng rãi nhất của giai cấp công nhân và những
người lao động. Với quy định đó Nhà nước không chỉ tạo điều kiện để công đoàn
thực hiện chức năng cơ bản nhất là bảo vệ người lao động, mà còn là một phương
pháp pháp lý hữu hiệu để công đoàn tham gia có hiệu quả vào việc quản lý doanh
nghiệp, điều hòa quyền lợi, ngăn ngừa xung đột. Đối với tổ chức công đoàn, việc
pháp luật lao động quy định sự tham gia của công đoàn vào việc ký kết thỏa ước
lao động tập thể cho thấy vai trò và trách nhiệm của công đoàn rất to lớn trong việc
tham gia có hiệu quả vào quản lý doanh nghiệp, và đặc biệt trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người lao động.
3.1.5. Công đoàn trong việc kiểm tra, giám sát an toàn lao động, vệ sinh lao động
và kiểm tra việc chấp hành pháp luật lao động
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam tham gia cùng với Chính phủ trong việc xây
dựng chương trình quốc gia về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động,


20

xây dựng chương trình nghiên cứu khoa học và xây dựng pháp luật về bảo hộ lao
động, an toàn lao động, vệ sinh lao động. (Khoản 3 Điều 95 Bộ luật Lao động)
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành danh mục các loại

bệnh nghề nghiệp sau khi đã lấy ý kiến của tổng liên đoàn lao động Việt Nam và
đại diện người sử dụng lao động.
Luật Công đoàn cũng quy định khá cụ thể quyền của tổ chức công đoàn kiểm
tra, giám sát công tác bảo hộ lao động và chấp hành pháp luật gồm:
- Quyền đề xuất việc xây dựng, bổ sung hoặc sửa đổi các chế độ bảo hộ lao
động và pháp luật lao động với các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước.
- Quyền theo dõi việc cấp phát trang bị phòng hộ; giám sát việc thi hành chế độ
thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi của người lao động; theo dõi, đôn đốc việc
kiểm tra sức khỏe định kỳ cho người lao động; đề xuất với giám đốc và các cơ quan
có trách nhiệm những biện pháp khắc phục và xử lý các vi phạm về an toàn lao
động, vệ sinh lao động.
- Quyền thành lập các tiểu ban bảo hộ lao động ở các cơ sở nhằm giúp cho Ban
chấp hành công đoàn nắm bắt kịp thời các hiện tượng vi phạm về bảo hộ lao động,
đề xuất các kiến nghị về việc xử lý.
- Quyền tổ chức đối thoại giữa người sử dụng lao động với tập thể người lao
động trong những trường hợp cần thiết nhằm làm sáng tỏ hoặc giải quyết những
vướng mắc mà tập thể lao động nêu ra.
3.2. Địa vị pháp lý của Công đoàn trong lĩnh vực chăm lo cải thiện đời sống và
việc làm cho người lao động, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao
động được pháp luật quy định
3.2.1. Công đoàn trong việc giải quyết việc làm cho người lao động và can thiệp
khi người lao động mất việc làm
Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người lao động có cơ hội có việc làm là
trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội, trong đó có tổ
chức công đoàn.
Các cấp công đoàn từ Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam tới các công đoàn cơ
sở phải kết hợp với cơ quan Nhà nước và những người sử dụng lao động trong việc
bàn bạc, giải quyết các vấn đề về quan hệ lao động ở cả tầm vĩ mô và vi mô; Có
quyền lập các tổ chức dịch vụ việc làm, dạy nghề, tương tế, tư vấn pháp luật và các
cơ sở phúc lợi chung cho người lao động và các quyền lợi khác theo quy định của

Luật Công đoàn và của Bộ luật Lao động.
Đối với người lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp mà có thu nhập
thấp hoặc không có đủ việc làm, công đoàn có trách nhiệm bàn bạc với người sử


21

dụng lao động bằng nhiều cách nâng cao tay nghề, đào tạo lại nghề, tạo thêm việc
làm để giúp người lao động có thêm nguồn thu nhập đảm bảo đời sống.
Pháp luật cũng quy định quyền và nghĩa vụ của công đoàn trong việc bảo vệ
người lao động trong lĩnh vực chấm dứt hợp đồng lao động và mất việc làm.
Để tránh việc người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
với người lao động một cách tùy tiện, Điều 17 Bộ luật Lao động quy định nếu
người sử dụng lao động thấy cần cho lần lượt nhiều người lao động thôi việc trong
trường hợp thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ thì phải công bố danh sách, căn cứ vào
nhu cầu của doanh nghiệp, tay nghề, hoàn cảnh gia đình và những yếu tố khác của
từng người để lần lượt cho thôi việc sau khi đã trao đổi, nhất trí với Ban chấp hành
công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp. Việc cho thôi việc chỉ được tiến hành sau khi
đã báo cho cơ quan lao động địa phương biết.
Trong những trường hợp người sử dụng lao động được phép đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động thì trước khi chấm dứt hợp đồng, người sử dụng lao động
phải trao đổi nhất trí với Ban chấp hành công đoàn cơ sở. Trong trường hợp không
nhất trí, hai bên phải báo cáo với cơ quan tổ chức có thẩm quyền. Sau 30 ngày kể từ
ngày báo cho cơ quan lao động biết, người sử dụng lao động mới có quyền quyết
định và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Trường hợp không nhất trí
với người sử dụng lao động, Ban chấp hành công đoàn cơ sở và người lao động có
quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động theo trình tự do pháp luật quy định.
Khi người lao động có quyền tạm đình chỉ người lao động trong những trường
hợp cần thiết theo luật định thì trước khi quyết định tạm đình chỉ công việc, người
sử dụng lao động phải tham khảo ý kiến của Ban chấp hành công đoàn cơ sơ (Điều

92 Bộ luật Lao động).
Các thủ tục trên là bắt buộc và phải có trong mọi trường hợp. Tổ chức công
đoàn có nghĩa vụ góp ý kiến, bàn bạc cụ thể trước những vấn đề có đụng chạm đến
lợi ích hợp pháp của người lao động, nếu không được người sử dụng lao động nhất
trí thì có quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động nhằm bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của người lao động.
3.2.2. Công đoàn với vấn đề đảm bảo tiền lương cho người lao động
Tiền lương là khoản thu nhập chính của người lao động. Vai trò của công đoàn
trong việc đảm bảo tiền lương cho người lao động thể hiện trong các nội dung sau :
- Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam được Chính phủ hỏi ý kiến trước khi quyết
định và công bố mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng, mức lương
tối thiểu ngành và công đoàn có quyền giám sát người sử dụng lao động trả lương
cho người lao động không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.


22

- Trong trường hợp người sử dụng lao động khấu trừ tiền lương thì phải cho
người lao động biết lý do cụ thể và trước khi khấu trừ, người sử dụng lao động phải
thảo luận với Ban chấp hành công đoàn cơ sở. Nếu có khấu trừ cũng không được
quá 30 % tiền lương hàng tháng.
3.2.3. Công đoàn với vấn đề kỷ luật lao động và xử lý kỷ luật lao động
Kỷ luật lao động thể hiện trong bản nội quy của doanh nghiệp do người sử
dụng lao động ban hành. Tuy nhiên, người lao động lại là đối tượng chủ yếu phải
thực hiện bản nội quy ấy. Công đoàn với tư cách là đại diện tập thể người lao động
có quyền tham gia góp ý kiến xây dựng dự thảo nội quy lao động. Bộ luật Lao động
quy định trước khi ban hành nội quy lao động, người sử dụng lao động phải tham
khảo ý kiến của Ban chấp hành công đoàn cơ sở. Ban chấp hành công đoàn cơ sở
cũng được tham khảo ý kiến khi người sử dụng lao động lao động quy định lịch
nghỉ hàng năm.

Việc xử lý kỷ luật lao động mặc dù thuộc thẩm quyền của người sử dụng lao
động song do việc xử lý kỷ luật lao động là một việc hệ trọng có liên quan đến
danh dự việc làm của người lao động, đồng thời để bảo vệ lợi ích chính đáng của
người lao động và nâng cao hiệu quả giáo dục người vi phạm, pháp luật lao động
quy định khi xem xét kỷ luật bắt buộc phải có mặt đương sự và phải có sự tham gia
của Ban chấp hành công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp.
Trong trường hợp người sử dụng lao động ra quyết định sa thải, đơn phương
đình chỉ hợp đồng lao động đối với Ủy viên Ban chấp hành công đoàn cơ sở thì
phải có thỏa thuận với Ban chấp hành công đoàn cơ sở. Nếu người sử dụng lao
động ra quyết định sa thải, đơn phương đình chỉ hợp đồng lao động đối với Chủ
tịch Ban chấp hành công đoàn cơ sở thì phải có thỏa thuận với tổ chức công đoàn
cấp trên trực tiếp.
3.2.4. Công đoàn trong việc tổ chức, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, nghỉ
ngơi, du lịch cho người lao động
Vấn đề nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động không chỉ
riêng trách nhiệm của người sử dụng lao động mà còn là trách nhiệm của các cấp
công đoàn, nhất là Ban chấp hành công đoàn cơ sở, nơi trực tiếp chăm lo, bảo vệ
quyền lợi cho người lao động.
Công đoàn có quyền và trách nhiệm nắm vững hoàn cảnh kinh tế gia đình của
các thành viên tổ chức mình trong doanh nghiệp để từ đó có biện pháp giúp đỡ về
tinh thần và vật chất. Công đoàn cơ sở cùng với người sử dụng lao động chăm lo
đến đời sống văn hóa, hoạt động thể dục, thể thao, tổ chức nghỉ ngơi, du lịch cho
người lao động, nhất là vấn đề tạo nguồn kinh phí và sắp xếp thời gian cho mọi
người lao động hàng năm đều được hưởng các quyền này.


23

Công đoàn phối hợp với người sử dụng lao động trong việc sử dụng quỹ phúc
lợi tập thể của đơn vị được thực hiện công khai và dân chủ trong việc cải thiện đời

sống vật chất, tinh thần, chăm lo sức khỏe cho người lao động. Trong những trường
hợp nhất định công đoàn trong các doanh nghiệp Nhà nước còn có quyền kiểm tra
hoặc đình chỉ việc sử dụng quỹ này nếu thấy việc sử dụng quỹ sai mục đích hoặc
không đúng với nghị quyết của hội nghị công nhân viên chức.
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam còn có thẩm quyền tham gia với Chính phủ
trong các vấn đề xây dựng Điều lệ Bảo hiểm xã hội, thành lập hệ thống tổ chức bảo
hiểm xã hội, xây dựng quy chế tổ chức, hoạt động của quỹ bảo hiểm xã hội (Điều
150 Bộ luật Lao động). Công đoàn địa phương và cơ sở tham gia cùng với các cấp
chính quyền và người sử dụng lao động trong việc thực hiện và giám sát việc thực
hiện các chế độ bảo hiểm xã hội do Nhà nước ban hành.
3.2.5. Công đoàn trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của người lao động và giải
quyết tranh chấp lao động
Tùy từng lĩnh vực và phạm vi hoạt động, công đoàn có quyền tham gia trực tiếp
với người sử dụng lao động hoặc chính quyền cùng cấp giải quyết các khiếu nại, tố
cáo của người lao động hoặc với tư cách là đại diện hợp pháp của tập thể người lao
động, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động khiếu nại, tố cáo với các cơ
quan có thẩm quyền của Nhà nước xem xét và giải quyết.
Công đoàn cơ sở có quyền cử đại diện của mình vào thành phần của hội đồng
hòa giải lao động cơ sở, cử thành viên vào danh sách Hội đồng trọng tài lao động
hoặc tham gia vào quá trình tố tụng tại tòa án.
Ban chấp hành công đoàn cơ sở là người quyết định cuộc đình công sau khi
được quá nửa tập thể người lao động tán thành bằng cách bỏ phiếu kín hoặc lấy chữ
ký. Sau khi đình công Ban chấp hành công đoàn cơ sở có quyền nộp đơn đến tòa án
yêu cầu kết luận cuộc đình công là hợp pháp.
Trường hợp doanh nghiệp không trả được lương cho người lao động ba tháng
liên tiếp thì đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức
công đoàn nộp đơn đến tòa án nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính yêu cầu giải quyết
việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Tóm lại, trong quan hệ lao động, công đoàn là đại diện bảo vệ quyền lợi hợp
pháp cho người lao động. Khi pháp luật lao động quy định công đoàn cùng với cơ

quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội khác chăm lo và bảo vệ quyền lợi
của người lao động, tham gia kiểm tra, giám sát việc thi hành các quy định của
pháp luật lao động thì quyền của công đoàn được cụ thể hóa ở những mức độ khác
nhau. Trong thực tiễn, việc thực thi áp dụng các quy định trên đây của pháp luật lao
động còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố thuộc về năng lực hoạt
động thực tiễn của chính bản thân tổ chức công đoàn .


24



Bài 3
HỆ THỔNG TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN VÀ TÀI CHÍNH CÔNG ĐOÀN

1. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Công đoàn
Công đoàn tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, với nội
dung cơ bản như sau:
3

1. Cơ quan lãnh đạo các cấp công đoàn do bầu cử lập ra. Trường hợp cần
thiết, công đoàn cấp trên được quyền chỉ định bổ sung ủy viên ban chấp hành và
các chức danh trong cơ quan thường trực của ban chấp hành công đoàn cấp dưới.
2. Quyền quyết định cao nhất của mỗi cấp công đoàn là đại hội công đoàn
cấp đó. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo là ban chấp hành.
3. Ban chấp hành công đoàn các cấp hoạt động theo nguyên tắc tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân
phục tùng tổ chức.
4. Nghị quyết của công đoàn các cấp, được thông qua theo đa số và phải
được thi hành nghiêm chỉnh.

5. Khi thành lập mới hoặc tách, nhập tổ chức công đoàn hoặc những đơn
vị, doanh nghiệp chưa có tổ chức công đoàn, công đoàn cấp trên trực tiếp chỉ định
ban chấp hành công đoàn lâm thời hoặc chỉ định bổ sung ủy viên ban chấp hành
công đoàn lâm thời. Thời gian hoạt động của ban chấp hành công đoàn lâm thời
không quá 12 tháng.
2. Hệ thống tổ chức Công đoàn Việt Nam
Công đoàn Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp
công nhân, của người lao động Việt Nam tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam và tổ chức hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Vì vậy, khi nghiên cứu về tổ chức công đoàn cũng mang một ý nghĩa quan trọng
trong nghiên cứu pháp luật lao động vì hoạt động của công đoàn trong việc bảo vệ
quyền lợi của người lao động phải thông qua một hệ thống tổ chức nhất định. Việc
nghiên cứu tổ chức công đoàn là một biện pháp tiếp cận địa vị pháp lý của công
đoàn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động.
2.1. Hệ thống tổ chức công đoàn Việt Nam
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là tổ chức thống nhất có các cấp cơ bản sau
đây:

3
Điều 7 Điều lệ Công đoàn năm 2008.

×