Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Câu luận NHTM1 có đáp án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.78 KB, 12 trang )

Câu 1. Tại sao các ngân hàng thương mại Việt Nam phải gửi dự trữ bắt buộc?
Bình luận quan điểm của các anh/chị về ý kiến: “Việc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam yêu cầu các Ngân hàng Thương mại phải dự trữ bắt buộc với trái
phiếu khơng cần thiết, vì trái phiếu chỉ phải trả khi đáo hạn”.
Trong hệ thống ngân hàng, tiền dự trữ được phân loại căn cứ theo nhiều yếu tố. 
Căn cứ vào yêu cầu dự trữ
Dựa theo yêu cầu dự trữ, tiền dự trữ của các ngân hàng thương mại được phân
thành 2 loại như sau:

✔ Tiền dự trữ bắt buộc (hay dự trữ pháp định)
Tiền dự trữ bắt buộc (tiếng Anh là reserve requirements) là loại tiền dự trữ mà
ngân hàng trung ương yêu cầu các ngân hàng thương mại phải lưu giữ lại. Hay nói
cách khác đây là tỷ lệ phần trăm tiền gửi mà các ngân hàng thương mại buộc phải
giữ làm dự trữ theo yêu cầu của ngân hàng trung ương. 
Trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, tiền dự trữ bắt buộc gồm VND và ngoại
tệ, cụ thể: 


Tiền gửi của kho bạc Nhà nước



Tiền gửi của khách hàng trong và ngoài nước: tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi
có kỳ hạn thuộc loại phải dự trữ bắt buộc, tiền gửi vốn chuyên dùng, tiền gửi
tiết kiệm khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn...



Tiền thu được từ việc phát hành giấy tờ có giá

Tất cả các loại tiền gửi này sẽ được theo dõi trên tài khoản tiền gửi không kỳ hạn


của ngân hàng thương mại tại ngân hàng Nhà nước (tài khoản tiền gửi thanh toán).
Qua bảng trên ta thấy, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cao hay thấp phụ thuộc vào nguồn vốn
ngắn hay dài hạn, loại hình tổ chức tín dụng và loại đồng tiền. 


Tuy nhiên, theo Thơng tư số 30/2019/TT-NHNN sẽ có 03 trường hợp tổ chức tín
dụng khơng cần dự trữ bắt buộc. Cụ thể:


Tổ chức tín dụng được kiểm sốt đặc biệt: thời gian không thực hiện dự trữ là
từ tháng tiếp theo tháng tổ chức tín dụng đó bị Ngân hàng Nhà nước quyết
định đặt vào tình trạng kiểm sốt đặc biệt, đến hết tháng được chấm dứt kiểm
soát đặc biệt;



Tổ chức tín dụng chưa khai trương hoạt động khơng thực hiện dự trữ bắt buộc
cho đến hết tháng tổ chức tín dụng khai trương hoạt động;



Tổ chức tín dụng được chấp thuận giải thể hoặc có quyết định mở thủ tục phá
sản hoặc có quyết định thu hồi Giấy phép của cơ quan có thẩm quyền: Thời
gian khơng thực hiện dự trữ là từ tháng tiếp theo tháng tổ chức tín dụng được
chấp thuận giải thể hoặc quyết định mở thủ tục phá sản, thu hồi Giấy phép có
hiệu lực.

Có thể thấy, duy trì tiền dự trữ bắt buộc là điều cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi
cho người gửi tiền vào ngân hàng đồng thời bảo đảm cho NHNN có thể điều chỉnh
được khả năng tạo tiền của các NHTM nhằm thực thi chính sách tiền tệ của mình.


✔ Tiền dự trữ vượt mức (hay còn gọi là dự trữ thặng dư)
Tiền dự trữ vượt mức là loại tiền dự trữ vượt trên mức dự trữ bắt buộc theo quy
định của ngân hàng trung ương. 
Thông thường loại tiền dự trữ này nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản của các
ngân hàng thương mại, bảo đảm chi trả thường xuyên cho các khách hàng có nhu
cầu rút tiền mặt tại ngân hàng thương mại.
Tiền dự trữ vượt mức của các ngân hàng thương mại bao gồm 2 loại:


Tiền mặt được lưu giữ tại các ngân hàng thương mại để giao dịch hàng ngày
với khách hàng.




Tiền gửi thanh toán của ngân hàng thương mại tại ngân hàng trung ương
nhằm làm phương tiện thanh toán của các khách hàng qua ngân hàng trung
ương.

Đặc điểm nổi bật của loại tiền dự trữ vượt mức là:
- Tiền dự trữ vượt mức do các ngân hàng thương mại tự quyết định mà khơng có
tính bắt buộc của ngân hàng trung ương.
- Các ngân hàng thương mại luôn phải duy trì tiền dự trữ vượt mức ở mức độ hợp
lý nhất để tránh 2 hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra:


Nếu duy trì tiền dự trữ vượt mức ít có thể gặp rủi ro về khả năng thanh khoản




Nếu duy trì tiền dự trữ vượt mức quá lớn thì có thể làm giảm lợi nhuận của
ngân hàng do giảm các khoản cho vay và đầu tư.

Câu 2.Tại sao các ngân hàng thương mại Việt Nam phải gửi dự trữ bắt buộc?
Các ngân hàng thương mại Việt Nam phải gửi dự trữ bắt buộc vì DTBB khơng chỉ
có vai trị và tác động to lớn đến hệ thống ngân hàng nói riêng mà cịn ảnh hưởng
trực tiếp đến nền kinh tế vĩ mô của đất nước. Cụ thể:
✔ DTBB là công cụ giúp NHTW khống chế khả năng tạo tiền, hạn chế
mức tăng bội số tín dụng của các NHTM thơng qua hệ số nhân tiền.
Đây cũng là vai trị quan trọng và chủ đạo nhất của DTBB trong việc giúp
NHTW điều tiết khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế.
Theo đó, mỗi động tác cấp tín dụng cho một khách hàng nào đó thơng qua việc
chuyển khoản của ngân hàng này sẽ mở ra một nguồn vốn mới cho một ngân hàng
kế tiếp, sự tiếp diễn của quá trình này chính là q trình tạo tiền của hệ thống ngân
hàng. Quá trình trên làm cho tổng nguồn vốn cho vay của toàn hệ thống được nhân
lên gấp bội so với số tiền gửi ban đầu. Để khống chế khả năng tạo tiền này, NHTW


buộc các NHTM phải trích một phần tiền huy động được theo một tỷ lệ quy định
gửi vào NHTW và không được hưởng lãi.
✔ DTBB là công cụ giúp ổn định và điều tiết lạm phát.
+Để thực hiện việc thắt chặt tiền tệ, hướng đến mục tiêu kiểm soát lạm phát,
NHTW sẽ tiến hành nâng tỷ lệ DTBB lên.
Trong điều kiện các yếu tố không đổi, khi NHTW tăng tỷ lệ DTBB dẫn đến vốn
khả dụng của các NHTM giảm, kéo theo hệ số nhân tiền giảm, cơ số tiền tệ không
thay đổi, à .
+ Ngược lại, để mở rộng tiền tệ nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo
thêm công ăn việc làm cho người lao động thì NHTW sẽ hạ tỷ lệ DTBB.
NHTW giảm tỷ lệ DTBB dẫn đến vốn khả dụng của các NHTM tăng làm cho hệ số

nhân tiền tệ tăng, cơ sở tiền tệ không thay đổi làm cho lượng tiên cung ứng tăng.
✔ Giúp NHTW kiểm sốt tăng tưởng tiền tệ.
Thơng qua DTBB, NHTW có thể kiểm sốt được khối lượng tiền gửi có thể phát
hành séc mà các ngân hàng có thể tạo ra theo mong muốn.
✔ Bình ổn lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng.
Mức dự trữ dự phịng cho phép các ngân hàng có thể điều hoà được những biến
động về vốn khả dụng. Sự thiếu cân bằng tức thời về nhu cầu tiền mặt trong chi trả
có thể được bù đắp ngay trong kỳ bằng một phần lượng dự phịng, từ đó giúp giảm
áp lực đối với lãi suất trên thị trường. Đó chính là cơ chế bình ổn lãi suất qua đêm
trên thị trường tiền tệ .
✔ Tăng tiềm năng tín dụng của các NHTM:


Khi tỷ lệ DTBB thay đổi, nó trực tiếp tác động đến nguồn vốn khả dụng của mỗi
ngân hàng. Với tổng số nguồn tiền gửi huy động được, tỷ lệ DTBB càng thấp thì
phần vốn cịn lại (vốn khả dụng) càng cao, khả năng cho vay của ngân hàng càng
lớn và ngược lại.

✔ Đảm bảo khả năng thanh khoản cho NHTM
Trước đây, DTBB nhằm đảm bảo khả năng thanh toán cho NHTM trước nhu cầu
rút tiền mặt của khách hàng và do đó hạn chế rủi ro thanh khoản cho cả hệ thống.
Tuy nhiên, theo thời gian ý nghĩa này giảm dần vì cho dù NHTM có duy trì một
mức DTBB lớn bao nhiêu thì khi rủi ro thanh khoản vẫn xảy ra, mức dự trữ này
cũng không thể giúp NHTM chống đỡ được nguy cơ phá sản. Mặt khác, NHTM
cũng khơng thể duy trì một mức DTBB q lớn vì đặc điểm của DTBB là khơng
sinh lời, DTBB càng cao thì lợi nhuận của NHTM càng giảm, điều này đi ngược
lại mục tiêu hoạt động vì lợi nhuận của NHTM.
Dù vậy, mục tiêu đảm bảo khả năng thanh khoản cho ngân hàng của DTBB vẫn
không bị mất đi ý nghĩa.
Câu 3. Bình luận quan điểm của các anh/chị về ý kiến: “Việc Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam yêu cầu các Ngân hàng Thương mại phải dự trữ bắt buộc với
trái phiếu là khơng cần thiết, vì trái phiếu chỉ phải trả khi đáo hạn”.
Theo em, quan điểm trên là sai vì:
+ Bản chất cốt lõi của việc NHTW yêu cầu các NHTM phải dự trữ bắt buộc là
khống chế khả năng tạo tiền, hạn chế mức tăng bội số tín dụng của NHTM
nhằm điều hịa mức cung tiền cho nền kinh tế. Mục đích của việc làm này là để hạ
bớt cơn sốt lạm phát, khôi phục hoạt động kinh tế trong trường hợp nền kinh tế
phát triển chưa ổn định; vì vể cơ bản, hai vai trị quan trọng của NHTW là khống
chế lạm phát và tạo công ăn việc làm. Vậy nên, bất kỳ hành động huy động vốn


nào của NHTM nhằm mục đích cho vay,cung tiền ra nền kinh tế thì đều tham gia
vào quá trình tạo tiền.
+ Mặt khác, các NHTM phát hành trái phiếu nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay trung
và dài hạn. Do đó, nguồn vốn huy động được từ trái phiếu cũng góp mặt vào q
trình tạo tiền và phải chịu sự điều chỉnh của NHTW thông qua DTBB là điều vô
cùng cần thiết.
+ Hơn nữa, ý kiến trên còn thiếu chặt chẽ ở chỗ cho rằng “trái phiếu chỉ phải trả
khi đáo hạn”. Đúng là đến ngày đáo hạn, NHTM phải trả khoản vay gốc, tức là giá
trị của tờ trái phiếu cho chủ đầu tư. Tuy nhiên không phải trong suốt quá trình vay,
NHTM chỉ phải trả mỗi khoản vay gốc vào ngày đáo hạn; mà trong quá trình này,
NHTM phải trả những khoản lãi định kỳ theo tháng, quý, hoặc năm tùy thuộc vào
hợp đồng thỏa thuận giữa 2 bên.
“Trái phiếu chỉ phải trả khi đáo hạn” chi đúng với TH trái phiếu zero coupon, tức
là người phát hành trái phiếu này k phải các khoản lãi định kỳ. Trái chủ được mua
với giá thấp hơn mệnh giá (mua chiết khấu) và được hoàn trả số tiền bằng mệnh
giá khi trái phiếu đó đáo hạn.
+Dường như việc khẳng định “trái phiếu chỉ phải trả khi đáo hạn” không phải là lý
do thỏa đáng để giải thích cho quan điểm NHTW yêu cầu NHTM DTBB với trái
phiếu là không cần thiết.

+ Tóm lại yêu cầu DTBB với trái phiếu là vơ cùng cần thiết, vừa đảm bảo được vai
trị điều tiết lạm phát của NHTW thông qua việc khống chế khả năng tạo tiền, vừa
tăng cường sự kiểm soát của ngân hàng trung ương đối với quá trình cung
ứng tiền tệ.

Câu 4. Anh/chị hãy giải thích tại sao chỉ có tiền gửi của cá nhân bằng đồng
Việt Nam mới được tham gia bảo hiểm tiền gửi?


❖ BHTG hiện nay mới chỉ quy định bảo hiểm cho tiền gửi bằng VND của cá
nhân, chứ không bảo hiểm đối với tiền gửi bằng ngoại tệ, kim loại quý
(vàng,…) và các loại tiền gửi khác được quy định tại luật. Vì:
- Điều này hồn tồn phù hợp với thông lệ quốc tế. Các nước trên thế giới cũng chỉ
bảo vệ cho đồng tiền của họ. Hơn nữa, chủ trương của Chính phủ muốn người dân
chỉ sử dụng đồng nội tệ.
-Chủ trương của Nhà nước VN là không bảo hiểm đô la và vàng. Trong Pháp lệnh
Ngoại hối cũng quy định rõ: Nhà nước nghiêm cấm việc dùng đồng ngoại tệ để
thực hiện các giao dịch và thanh toán kinh tế trên lãnh thổ Việt Nam, tức là người
Việt Nam chỉ được dùng đồng Việt Nam trên đất nước Việt Nam. Hiện nay, nền
kinh tế của chúng ta đang bị đơ la hóa và vàng hóa. Luật chỉ quy định bảo hiểm
tiền VND đồng là góp phần củng cố quan điểm chống dola hóa quyết liệt của chính
phủ.
- Đồng thời, chỉ BHTG với đồng Việt Nam vừa góp phần bảo vệ đồng tiền quốc
gia (Việt Nam đồng) vừa bảo vệ quyền lợi của số đơng.
- Hiện có tới trên 90% lượng tiền gửi vào ngân hàng là tiền Việt, nên nếu như có
sự sụp đổ của một ngân hàng nào đó thì sẽ mất đi một lượng tiền rất lớn của dân.
Còn đối với vàng và ngoại tệ, mức tỷ lệ huy động không lớn, nên khả năng để chi
trả cho những trường hợp khi có sự cố xảy ra sẽ đơn giản hơn.
❖ Bên cạnh đó, tiền gửi không phải của cá nhân cũng không được bảo hiểm.
Nguyên nhân vì:

-Các doanh nghiệp, các tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước và các tổ chức chính
trị - xã hội mặc dù có nguồn tiền lớn nhưng các tổ chức này không để nguồn tiền
tạm thời nhàn rỗi tại quỹ hay gửi vào NHTM mà sẽ được bộ phận quản trị DN
quản lý và xây dựng kế hoạch đầu tư, phân bổ phù hợp. Do đó, tiền gửi của các tổ
chức vào NHTM chiếm tỷ trọng không lớn và các khoản tiền này cũng được tự
thân các tổ chức đó quản lý chặt chẽ. Vậy nên việc bảo hiểm tiền gửi đối với tiền


gửi của tổ chức là không cần thiết. Đây cũng là nguyên nhân vì sao pháp luật chỉ
quy định BHTG cho đối tượng là cá nhân.
- Mục tiêu lớn nhất của bảo hiểm tiền gửi là bảo vệ số đông người dân khơng có
điều kiện tham gia sản xuất - kinh doanh, khơng có điều kiện tiếp cận thơng tin


Câu 5. Bình luận quan điểm của các anh/chị về ý kiến: “Việc hình thành nên
bảo hiểm tiền gửi sẽ khuyến khích các ngân hàng đầu tư vào các lĩnh vực mạo
hiểm, làm tăng mức rủi ro mà ngân hàng chấp nhận, từ đó gây ra các vụ đổ
vỡ trong ngân hàng”.
Theo em, quan điểm trên là hoàn toàn sai vì một số ngun nhân sau:
-Vai trị chính của BHTG là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền,
củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống các TCTD, tránh cảnh hoảng
loạn rút tiền khỏi ngân hàng sau nhiều cuộc khủng hoảng ngân hàng trong quá khứ.
Còn đối với hệ thống các NHTM, BHTG chỉ góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho
hệ thống các ngân hàng phát triển lành mạnh, an toàn và huy động tiền gửi cho đầu
tư phát triển.
Từ đó có thể khẳng định rằng bản chất của việc hình thành BHTG là để tăng niềm
tin của công chúng vào hệ thống NH chứ không phải là bệ đỡ hứng chịu rủi ro khi
các NHTM đầu tư vào các lĩnh vực mạo hiểm.
 
- Hơn nữa, trong thực tế, khi các quốc gia chưa hình thành hệ thống BHTG thì họ

cũng đã sử dụng công cụ “bảo hiểm ngầm”. Tức là mặc dù không cam kết công
khai trước công chúng về việc bảo vệ tiền gửi của họ, nhưng trong trường hợp
ngân hàng phá sản thì Chính phủ phải đứng ra chi trả tiền gửi cho người gửi tiền.
Do đó khơng thể nói các vụ đổ vỡ trong NH bắt nguồn từ việc hình thành BHTG.
- Hơn nữa, ý kiến cho rằng NH đầu tư mạo hiểm từ đó gây ra các cuộc đổ vỡ là
thiếu chặt chẽ và chỉ mang tính chủ quan. Ở VN, k dễ dàng gì để 1 NH được phép
phá sản. Ngay cả khi một số ngân hàng đã xảy ra việc mất khả năng thanh toán
nhưng việc phá sản cũng không diễn ra. NHNN VN sẽ thực hiện mọi biện pháp
kiểm soát đặc biệt và hỗ trợ tạm thời để ngân hàng có thể tự vực dậy mình.
Nguyên nhân vì một NH phá sản, người gửi tiền sẽ phải gánh chịu rủi ro khơng
được hồn trả lại hoặc chỉ được chi trả một phần số tiền đã gửi từ bảo hiểm tiền
gửi. Từ đó gây mất niềm tin của công chúng vào hệ thống NH. Người dân đồng


loạt đi rút tiền. Thay vì gửi ngân hàng, tiền được cất giữ tại nhà, dẫn đến hệ quả
thiếu nguồn vốn cho việc đầu tư trở lại nền kinh tế. Khơng chỉ dừng lại ở đó, tình
trạng này sẽ tạo ra hiệu ứng “Đôminô” với các ngân hàng khác, gây ra cuộc
khủng hoảng về niềm tin đối với toàn bộ nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng có thể sẽ
sụp đổ do lâm vào trạng thái mất khả năng thanh toán, ảnh hưởng trầm trọng đến
sự phát triển kinh tế quốc gia.
- Mặt khác, theo Quyết định 21/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về hạn
mức trả tiền bảo hiểm, số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi được
bảo hiểm (gồm cả gốc và lãi) của một cá nhân tại một tổ chức tham gia BHTG tối
đa là 75.000.000 đồng. Đây là số tiền khá khiêm tốn so với số tiền gửi thực tế. Vậy
nên, NHTM đều nhận thức được rằng BHTG k có trách nhiệm thanh tốn tồn bộ
số nợ
Như vậy, khi một khách hàng gửi nhiều khoản tiền khác nhau tại cùng một tổ chức
tham gia BHTG thì các khoản tiền gửi này khơng được bảo hiểm độc lập. Hạn
mức trả tiền bảo hiểm tối đa là 75 triệu đồng (bao gồm cả gốc và lãi) áp dụng cho
tất cả các khoản tiền gửi của một người tại một tổ chức tham gia BHTG.

- Nguyên nhân phá sản của các NH trước đây k xuất phát từ BHTG dẫn đến NH
đầu tư mạo hiểm

Câu 6. Quốc hội cho ý kiến dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi
một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi như: đối
tượng, loại tiền được bảo hiểm, mức phí, mơ hình hoạt động của bảo hiểm tiền
gửi…
Trong khi đa số các ý kiến đồng ý với dự thảo Luật, chỉ bảo hiểm tiền gửi của
người gửi tiền cá nhân là chính, thì có một số ý kiến cho rằng cần phải mở rộng đối
tượng được tham gia bảo hiểm tiền gửi. Theo đại biểu Minh Thắm (đoàn Lâm
Đồng), số tiền nằm trong các tổ chức nhiều, vì vậy, cần mở rộng cả các đối tượng


này nhằm thu hút vốn để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cho phát triển kinh tế, xã
hội.
Tuy nhiên, Báo cáo giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Chủ nhiệm Ủy
ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu trình bày, với các cơ quan quản lý nhà
nước, các tổ chức chính trị xã hội, việc quản lý tài chính phải tuân theo các quy
định của các cơ quan, tổ chức và đối với doanh nghiệp cũng được quản lý chặt chẽ
theo quản trị doanh nghiệp, do vậy, các tổ chức này không để nguồn tiền tạm thời
nhàn rỗi tại quỹ hoặc sử dụng vào việc khác không phù hợp với quy định của pháp
luật.
Liên quan đến loại tiền được bảo hiểm, cũng vẫn cịn có các ý kiến khác nhau
trong việc chỉ bảo hiểm với tiền đồng Việt Nam như trong dự thảo hay đề nghị
xem xét bổ sung thêm việc bảo hiểm tiền gửi đối với tiền gửi bằng ngoại tệ và kim
loại quý.
Đại biểu Nguyễn Thanh Hải (đồn Hồ Bình) cho rằng nếu chỉ quy định bảo hiểm
tiền gửi cho mỗi tiền đồng Việt Nam thì chưa hợp lý vì trong nhân dân đang tồn tại
nhiều loại tiền gửi bằng ngoại tệ và vàng, nếu lấy lý do e sợ “đơ la hố” là khơng
thuyết phục.

Tuy nhiên, một số ý kiến đồng tình với Dự thảo khi cho rằng Nhà nước đã cho
phép người dân được gửi ngoại tệ và vàng tại ngân hàng, đồng thời khuyến khích
người dân bán lại ngoại tệ cho ngân hàng mà khơng tích trữ ngoại tệ, bảo hiểm tiền
gửi đối với ngoại tệ và kim loại quý có thể tạo ra cách hiểu khơng chính xác là Nhà
nước khuyến khích việc tích trữ ngoại tệ và kim loại q. Điều này khơng nhất
quán với chính sách ngoại hối cũng như tạo tâm lý thiếu tin tưởng vào sự ổn định
của giá trị đồng tiền, có thể gây xáo trộn thị trường tiền tệ.
Đồng tình với lập luận trên, song đại biểu Nguyễn Anh Sơn (đoàn Nam Định) đưa
ra giải pháp hài hoà hơn, đó là trong khi Nhà nước cũng đã cho phép người dân gửi
vàng, ngoại tệ tại ngân hàng, thì ngân hàng có thể quy đổi sang tiền Việt Nam tại
thời điểm đó và bảo hiểm tiền gửi để bảo đảm quyền lợi cho người dân.


Ngồi ra, một số vấn đề về  mơ hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi, hạn mức tiền gửi,
phí bảo hiểm tiền gửi cũng được nhiều  ý kiến tranh luận.
Trong đó, về phí bảo hiểm tiền gửi, đa số các đại biểu nhất trí khơng quy định một
con số cứng nhắc về mức phí bảo hiểm như trong dự thảo Luật, mà giao cho Thủ
tướng Chính phủ quy định khung phí bảo hiểm tiền gửi, trên cơ sở này Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam quy định mức phí cụ thể cho các tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi dựa trên đánh giá, phân loại các tổ chức tín dụng.
Bên cạnh đó, mơ hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi nên giữ ngun mơ hình bảo hiểm
tiền gửi Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ thành lập như hiện nay và giao Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam quản lý nhà nước.



×