Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Đề án tốt nghiệp nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ giám sát của ubkt các cấp ở đảng bộ hà tĩnh trong tình hình mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.32 KB, 36 trang )

MỤC LỤC
Phần1. MỞ ĐẦU.............................................................................................1
1.1. Lý do lựa chọn đề án...........................................................................1
1.2. Mục tiêu của đề án................................................................................3
1.3. Nhiệm vụ của đề án.............................................................................4
1.4. Giới hạn của đề án................................................................................4
Phần 2. NỘI DUNG..........................................................................................5
2.1. Căn cứ xây dựng đề án..........................................................................5
2.3. Tổ chức thực hiện đề án....................................................................27
2.4. Dự kiến hiệu quả của đề án...............................................................31
Phần 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.........................................................32
3.1. Kết luận.............................................................................................32
3.2. Kiến nghị...........................................................................................32
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................34


Phần1. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ ÁN
Công tác kiểm tra, giám sát luôn được Đảng ta coi trọng trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng từ khi thành lập cho đến nay. Đảng đã xác định:
kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng, một bộ phận quan
trọng trong tồn bộ cơng tác xây dựng Đảng; tổ chức đảng phải tiến hành
công tác kiểm tra, giám sát; tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra,
giám sát của Đảng; không kiểm tra coi như không lãnh đạo.
Giám sát vừa là chức năng, vừa là phương thức lãnh đạo của Đảng.
Giám sát là để theo dõi, biết rõ, nắm chắc tình hình thực tiễn và tính khả thi
của các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phát huy nhân tố tích
cực để biểu dương, nhân rộng; ngăn ngừa vi phạm khi mới "manh nha", khắc
phục khuyết điểm, yếu kém. Trong điều kiện Đảng ta là đảng cầm quyền, lãnh
đạo hệ thống chính trị và tồn xã hội mà Đảng khơng thực hiện giám sát chặt
chẽ thì cán bộ, đảng viên rất dễ lộng quyền, tất yếu sẽ dẫn đến tiêu cực, quan


liêu, tham nhũng, giảm lịng tin của nhân dân. Đó là những nguy cơ bên trong
làm suy yếu, thậm chí làm tan rã Đảng, vì thế cơng tác giám sát càng trở nên
trọng yếu và cấp thiết.
Những năm qua Đảng ta đã có nhiều nỗ lực trong việc bổ sung, phát
triển, hoàn thiện các quan điểm, nguyên tắc và phương pháp của công tác này.
Đồng thời đã tăng cường chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của UBKT các cấp
để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng hiên nay. Tính riêng
trong nhiệm kỳ khố X, Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 34
văn bản, hình thành một hệ thống tương đối đồng bộ các quy định về công tác
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng. Đặc biệt, Ban Chấp hành
Trung ương khoá X đã ra Nghị quyết về “Tăng cường cơng tác kiểm tra,
giám sát của Đảng” và Bộ Chính trị ban hành Kết luận về “Chiến lược công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2020” để giải quyết những vấn đề
vừa trước mắt, vừa lâu dài trong cơng tác này của tồn Đảng. Mới đây, Ban
Chấp hành Trung ương khoá XI tiếp tục ra Quyết định 46-QĐ/TW, ngày 111-2011 về “Ban hành hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm


tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII, Chương VIII Điều lệ
Đảng” và Bộ Chính trị tiếp tục ra Quyết định số 68-QĐ/TW về “Ban hành
Quy chế giám sát trong Đảng”. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi Đảng
ta tiếp tục đẩy mạnh lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, cơng nghiệp hố, hiện đại
hố, hội nhập, mở cửa, thì cơng tác giám sát của Đảng nói chung, nhiệm vụ
giám sát của Ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp nói riêng càng có ý nghĩa quan
trọng, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu chung của Đất nước.
Thực hiện các quan điểm, chủ trương chiến lược và chương trình kiểm
tra, giám sát đã đề ra, cơng tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ, tổ chức đảng
nói chung và UBKT các cấp ở tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian qua đã có những
chuyển biến tích cực, khá tồn diện. UBKT các cấp đã chủ động, tích cực
thực hiện giám sát các lĩnh vực quan trọng như: phòng chống tham nhũng,
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, về Chiến lược cán bộ, đổi mới phương

thức lãnh đạo của Đảng, cải cách hành chính… Thực tế cho thấy, giám sát là
một nhiệm vụ mới, nhưng quá trình thực hiện đã có kết quả và tác dụng bước
đầu trong việc hạn chế và phòng ngừa vi phạm, tiêu cực của tổ chức đảng và
đảng viên. Qua giám sát đã phát hiện nhiều sơ hở, bất cập trong quản lý kinh
tế - xã hội mà người thực thi công vụ lợi dụng để trục lợi, gây thiệt hại lợi ích
của Nhà nước, lợi ích chính đáng của người dân; phát hiện những cơ chế,
chính sách khơng phù hợp với thực tế cuộc sống để từ đó làm cơ sở kiến nghị
với các cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung, từng bước hoàn thiện cơ chế,
chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, một số UBKT các cấp, nhất là cơ sở, nhận thức về công
tác giám sát chưa đầy đủ; lúng túng trong việc xây dựng được chương trình,
kế hoạch và tổ chức thực hiện; việc giám sát đảng viên là cấp ủy viên cùng
cấp, người đứng đầu các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và các tổ chức trong
hệ thống chính trị trong thực hiện nhiệm vụ, chức trách được giao cịn ít. Việc
chăm lo kiện toàn bộ máy UBKT, đào tạo đội ngũ cán bộ kiểm tra ở một số
nơi chưa được quan tâm đúng mức, trình độ cán bộ làm cơng tác giám sát
nhìn chung còn bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình
hiện nay. Vì vậy, hiệu lực, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ giám sát của UBKT
các cấp cịn nhiều hạn chế, bất cập. Trước tình hình thực tế đó, việc nâng cao


chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ giám sát của UBKT các cấp ở Đảng
bộ Hà Tĩnh là cần thiết nhằm ngăn ngừa, hạn chế vi phạm, mặt khác để giúp
cho cán bộ UBKT các cấp nắm vững phương pháp, nghiệp vụ, từng bước đưa
việc thực hiện nhiệm vụ giám sát tổ chức đảng, đảng viên đạt chất lượng, hiệu
quả hơn trong những năm tới, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức đảng, đảng viên.
Đó chính là lý do học viên chọn nội dung: “Nâng cao chất lượng,
hiệu quả nhiệm vụ giám sát của UBKT các cấp ở Đảng bộ Hà Tĩnh trong
tình hình mới” làm đề tài khố luận tốt nghiệp chương trình Cao cấp lý

luận Chính trị nhằm đưa ra một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao
chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm giám sát của UBKT các cấp ở tỉnh Hà
Tĩnh trong tình hình mới.
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ ÁN
Nâng cao được chất lượng và hiệu quả của UBKT các cấp để từ đó góp
phần vào việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, tăng
cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân
chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật Đảng, phòng ngừa, ngăn chặn sự suy thối về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, bảo vệ quan điểm
đường lối của Đảng, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, quan liêu, xa
dân, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII, Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII và nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp.
Công tác giám sát trước hết phải tác động vào tư tưởng và nhận thức
của những người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng, tổ chức Nhà nước và các
đồn thể chính trị - xã hội. Từng bước hoàn thiện nội dung, phương pháp
nâng cao hiệu quả công tác giám sát của UBKT các cấp, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong tình hình mới.
Kịp thời đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm của tổ chức đảng, đảng
viên nhằm phát huy ưu điểm, làm rõ những thiết sót, khuyết điểm để uốn nắn,
khắc phục, ngăn ngừa, xử lý nghiêm minh vi phạm; tổng kết thực tiễn, bổ sung,
hoàn thiện và phát triển đường lối, chủ trưởng của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước. Từ đó, góp phần xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh,
thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh nhà.


1.3. NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ ÁN
Góp phấn nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ giám sát của UBKT
các cấp ở Đảng bộ Hà Tĩnh.
Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật
của Đảng để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức trong cấp uỷ, UBKT,

cán bộ, đảng viên và nhân dân; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng và đội ngũ cán bộ làm cơng tác kiểm tra; phịng ngừa,
ngăn chặn sự suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống và các hoạt
động tiêu cực khác của cán bộ, đảng viên, xử lý nghiêm các trường hợp vi
phạm để giữ vững kỷ cương, kỷ luật trong Đảng; tập trung kiểm tra đảng viên,
tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm và triển khai toàn diện các
nhiệm vụ Điều lệ Đảng quy định, nhiệm vụ cấp uỷ giao; góp phần thực hiện
thắng lợi nghị quyết đại hội đảng các cấp, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XVII
1.4. GIỚI HẠN CỦA ĐỀ ÁN
Đối tượng của Đề án: UBKT các cấp thuộc Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh.
Đề án được triển khai trên phạm vi toàn tỉnh, thống nhất thực hiện
trong UBKT các cấp.
Thời gian nghiên cứu và thực hiện của đề án từ Quý II năm 2012 đến
hết năm 2016.


Phần 2. NỘI DUNG
2.1. CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
2.1.1. Căn cứ khoa học lý luận
- Khái niệm về giám sát của Đảng
Giám sát của Đảng là việc cấp ủy, tổ chức đảng theo dõi, xem xét, đánh
giá hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên chịu giám sát trong việc chấp hành
nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng; chính sách pháp luật của Nhà nước và đạo đức, lối sống theo quy định
của Ban Chấp hành Trung ương.
Giám sát của UBKT các cấp là việc UBKT theo dõi, xem xét, đánh giá
hoạt động của cấp ủy viên, cán bộ diện cấp ủy quản lý, tổ chức đảng cấp dưới
về thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nghị quyết của cấp
ủy và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

Như vậy, giám sát của Đảng có phạm vi hẹp hơn so với giám sát nói
chung, vì giám sát này chỉ diễn ra trong nội bộ Đảng.
- Quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
của Đảng ta về giám sát
+ Vị trí, vai trị của cơng tác giám sát
Các Mác là người đã đã đề cập đến công tác giám sát mặc dù còn rất
đơn giản, Điều 42, Điều lệ của Liên đồn những người cộng sản, ghi rõ: "Vì
lợi ích của liên đoàn, cần phải tổ chức việc theo dõi những người buộc phải
rút khỏi liên đoàn và bị khai trừ cũng như các phần tử khả nghi nói chung và
ngăn ngừa họ làm hại liên đoàn. Phải lập tức báo cáo chi bộ tương ứng biết
về những âm mưu của những người đó” [3, tr. 737-738]. Do điều kiện lúc đó
khó khăn, nên hình thức giám sát của tổ chức cấp trên với tổ chức cấp dưới và
hội viên chủ yếu bằng hình thức gián tiếp (thơng qua báo cáo thường xuyên
của tổ chức cấp dưới lên tổ chức cấp trên) hoặc giám sát trực tiếp thông qua
đại hội, hội nghị. Điều 11, Điều lệ: "Mọi hội viên của Liên đoàn khi thay đổi
chỗ ở đều phải báo cáo trước việc đó với chủ tịch chi bộ mình". Điều 21, Điều
lệ quy định việc giám sát của đại hội đối với Ban chấp hành Trung ương: "Ban


chấp hành Trung ương là cơ quan chấp hành quyền lực của tồn Liên đồn và
với tư cách đó; phải báo cáo công tác với Đại hội" [3, tr. 733, 735].
Trong từng trường hợp, yêu cầu cụ thể của cuộc đấu tranh với các phần
tử phản cách mạng, cơ hội, bọn địa chủ, bọn nhà giàu, giai cấp tư sản, bọn ăn
cắp, nhận hối lộ, để bảo vệ thành quả cách mạng nhanh chóng xây dựng một
xã hội mới, Lênin thường dùng thuật ngữ "kiểm tra", "kiểm soát" bao hàm cả
giám sát. "Để khuyến khích đến mức cao nhất tinh thần phát huy sáng kiến, tính
chủ động và phạm vi hoạt động rộng lớn của địa phương cũng như để lấy kinh
nghiệm của địa phương và sự giám sát của địa phương mà kiểm tra công tác
của cơ quan Trung ương và ngược lại…" [24].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến công tác giám sát đối

với hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Cũng như
Lênin, Người chủ yếu dùng khái niệm kiểm tra, kiểm soát nhưng với ý nghĩa
là giám sát để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh trong thực tế, có nhấn mạnh
mặt cơng tác “kiểm tra” hoặc mặt cơng tác “kiểm sốt”, trong từng trường hợp,
tình huống cụ thể… Vì theo Người kiểm tra, kiểm sốt đã bao hàm cả giám sát,
nhưng khi cần thiết, Người muốn nhấn mạnh ở một giác độ hay một yêu cầu nào
đó mang tính cụ thể, có tính chính xác cụ thể, rõ ràng thì Người dùng các từ
"điều tra”, "xem xét", "nắm tình hình", "nghe báo cáo","theo dõi" thay cho từ
giám sát. Song cũng có trường hợp Người nói riêng về giám sát trong Đảng;
giám sát đối với cán bộ, đảng viên.
Vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác
giám sát, q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn nhận thức
đúng và cho rằng giám sát là công việc không thể thiếu trong hoạt động
lãnh đạo và quản lý diễn ra trong tất cả các khâu của quy trình lãnh đạo và
quản lý của Đảng và Nhà nước.
Công tác giám sát giúp Đảng, Nhà nước nắm chắc được tình hình lãnh
đạo thực hiện chủ trương, chính sách trong thực tế cuộc sống, thấy được tổ chức,
cá nhân nào chấp hành tốt, tổ chức cá nhân nào chấp hành khơng tốt, có gì đúng
đắn, có gì khơng phù hợp cần phải uốn nắn, bổ khuyết; công tác giám sát giúp
Đảng, Nhà nước quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, công
chức tu dưỡng, trau dồi đạo đức cách mạng, tính tiên phong gương mẫu của


người cộng sản; cơng tác giám sát cịn giúp Đảng chủ động phòng ngừa, ngăn
chặn những sai phạm của tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Trong điều kiện hiện nay, giám sát hoạt động của tổ chức đảng, đảng
viên là vấn đề vơ cùng cấp bách, địi hỏi của công tác xây dựng Đảng và yêu
cầu của cách mạng Việt Nam. Vì đây là cơng tác quan trọng, hữu hiệu nhất
ngăn chặn sớm nguy cơ sai lầm về đường lối, suy thoái về đạo đức lối sống
của đội ngũ cán bộ, đảng viên, tình trạng lộng quyền và lạm quyền trong điều

kiện Đảng ta là Đảng cầm quyền. Trong giai đoạn cách mạng mới, phải tăng
cường công tác giám sát trong Đảng, nhằm chủ động phòng ngừa ngăn chặn
vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên.
Lần đầu tiên, nhiệm vụ giám sát được Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X chỉ rõ: “Giao thêm chức năng giám sát cho cấp uỷ đảng và uỷ ban kiểm
tra các cấp, coi kiểm tra, giám sát trước hết là nhiệm vụ của cấp uỷ, gắn công
tác kiểm tra với cơng tác giám sát, có giám sát mới phát hiện được các vấn đề
mới, khắc phục được thiếu sót, khuyết điểm ngay từ lúc mới manh nha”. Điều
30, Điều lệ Đảng (khóa X) quy định: "Kiểm tra, giám sát là những chức năng
lãnh đạo của Đảng". Điều 32 bổ sung một trong những nhiệm vụ của UBKT
các cấp: "Giám sát cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ diện cấp ủy cùng cấp quản lý
và tổ chức đảng cấp dưới về thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng, nghị quyết của cấp ủy và đạo đức, phẩm chất lối sống theo quy định
của Ban Chấp hành Trung ương".
Điều lệ Đảng lần thứ XI tiếp tục khẳng định: "Kiểm tra, giám sát là
những chức năng lãnh đạo của Đảng"; "UBKT các cấp có nhiệm vụ: giám sát
cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ diện cấp ủy cùng cấp quản lý và tổ chức đảng
cấp dưới về việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nghị
quyết của cấp ủy và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành
Trung ương" [12, tr.52].
+ Nội dung giám sát của UBKT các cấp
Đối với tổ chức đảng: Giám sát việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực
hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy
định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng, của cấp ủy cấp trên và cấp mình;
pháp luật của Nhà nước, việc thực hiện chương trình, kế hoạch cơng tác toàn


khóa, hằng năm của cấp ủy, tổ chức đảng trên các lĩnh vực
Đối với cấp ủy viên và cán bộ diện cấp ủy cùng cấp quản lý: Giám sát
chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ

thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng, của cấp ủy cấp trên và
cấp mình; pháp luật của Nhà nước. Việc giữ gìn đạo đức, lối sống; về tiêu
chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ
đảng viên; việc thực hiện chế độ kê khai và công khai tài sản của cán bộ,
đảng viên theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
+ Đối tượng giám sát
UBKT các cấp giám sát đối tượng là: Chi bộ, đảng ủy bộ phận, đảng ủy
cơ sở; cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy cấp dưới từ cấp trên
cơ sở trở lên; các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy, các ban cán sự
đảng, đảng đoàn thuộc cấp ủy cùng cấp; cấp ủy viên cùng cấp (kể cả bí thư,
phó bí thư ủy viên ban thường vụ), đảng viên là cán bộ thuộc diên cấp ủy, ban
thường vụ cấp ủy cùng cấp quản lý.
+ Chủ thể giám sát
UBKT các cấp từ cơ sở đến Trung ương, trong phạm vi chuyên đề
này, chủ thể giám sát là UBKT Tỉnh ủy, UBKT huyện ủy và tương đương,
UBKT cơ sở.
+ Phương pháp giám sát của UBKT các cấp;
Giám sát trực tiếp:
Thành viên uỷ ban kiểm tra dự các cuộc họp của cấp uỷ cùng cấp.
Thành viên uỷ ban kiểm tra phụ trách và cán bộ kiểm tra thường xuyên
theo dõi lĩnh vực, địa bàn; dự các cuộc họp, hội nghị của cấp uỷ, ban thường
vụ cấp uỷ, thường trực cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới.
Thành viên uỷ ban kiểm tra, cán bộ kiểm tra các cấp tham gia các đồn
cơng tác của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ cùng
cấp.
Các đồng chí thành viên uỷ ban kiểm tra các cấp gặp gỡ, trao đổi với
đối tượng giám sát.
Đôn đốc, theo dõi đối tượng kiểm tra chấp hành kết luận kiểm tra,
quyết định kỷ luật; đối tượng giám sát chấp hành thông báo kết quả giám sát



chuyên đề.
Giám sát gián tiếp:
Xem xét báo cáo hoạt động của tổ chức đảng cấp dưới giữa hai kỳ hội
nghị cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ.
Nghiên cứu các văn bản, báo cáo; thông báo kết luận về các cuộc kiểm
tra, giám sát, kết quả tự phê bình và phê bình, thực hiện chức năng, nhiệm vụ
được giao của cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới.
Ý kiến trao đổi, phản ánh, kiến nghị, báo cáo kết quả thanh tra, kiểm
tra, giám sát của các tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, đồn thể chính trịxã hội; phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng.
Xem xét đơn tố cáo của đảng viên và quần chúng; khiếu nại của tổ
chức, cá nhân đối với tổ chức đảng, đảng viên.
+ Hình thức giám sát
Giám sát thường xuyên
Thông báo cho đối tượng giám sát biết về thành viên của cấp uỷ, uỷ
ban kiểm tra, các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ hoặc cán bộ được
giao thực hiện nhiệm vụ giám sát.
Thực hiện giám sát thường xuyên bằng phương pháp giám sát trực tiếp
và giám sát gián tiếp theo quy định tại Điều 9 của Quy chế giám sát trong
Đảng (Quyết định số 68-QĐ/TW ngày 21/3/2012 của Bộ Chính trị khóa XI).
Giám sát theo chuyên đề
Xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát hằng năm và thơng báo cho
đối tượng giám sát.
Thành lập đồn (tổ) giám sát (gọi chung là đoàn giám sát); xây dựng kế
hoạch giám sát cụ thể đối với tổ chức đảng hoặc đảng viên.
Có văn bản yêu cầu đối tượng giám sát viết báo cáo và cung cấp tài liệu
liên quan đến nội dung giám sát.
Đoàn giám sát nghiên cứu báo cáo, tài liệu; làm việc với các tổ chức, cá
nhân có liên quan; chuẩn bị dự thảo báo cáo kết quả giám sát.
Chủ thể giám sát yêu cầu tổ chức đảng được giám sát hoặc tổ chức

đảng có đảng viên được giám sát tổ chức hội nghị để đối tượng giám sát báo
cáo; đồn giám sát trình bày dự thảo báo cáo kết quả giám sát; hội nghị thảo


luận.
Thông báo kết quả giám sát bằng văn bản đến tổ chức đảng, đảng viên
được giám sát và tổ chức, cá nhân có liên quan.
Theo dõi, đơn đốc đối tượng giám sát thực hiện thông báo kết quả giám sát.
+ Xử lý kết quả giám sát của UBKT các cấp
Kịp thời nhắc nhở, lưu ý, cảnh báo bằng các hình thức thích hợp theo
thẩm quyền với đối tượng giám sát về những vấn đề cần thiết.
Nhận xét, đánh giá kết quả giám sát; xem xét trách nhiệm của đối tượng
giám sát; xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý.
Yêu cầu đối tượng giám sát sửa chữa thiếu sót, khuyết điểm và khắc
phục hậu quả (nếu có).
Yêu cầu tổ chức đảng, đảng viên có liên quan chỉ đạo đối tượng giám
sát chấp hành thông báo kết quả giám sát.
Qua giám sát, quyết định kiểm tra chấp hành, kiểm tra khi có dấu hiệu
vi phạm.
Tuyên truyền, thông báo kết quả hoạt động giám sát theo quy định của Đảng.
- Phân biệt kiểm tra với giám sát, mối quan hệ giữa giám sát trong
Đảng với giám sát của Nhà nước và đồn thể chính trị- xã hội
+ Phân biệt kiểm tra với giám sát
Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng, là bộ phận
quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Kiểm tra và giám sát có mối quan
hệ biện chứng, bổ sung cho nhau tạo ra sự hoàn chỉnh cho sự lãnh đạo của
Đảng. Do vậy, không thể nghiên cứu vấn đề giám sát mà không đặt trong mối
quan hệ với công tác kiểm tra của Đảng.
Kiểm tra của Đảng là việc các tổ chức đảng xem xét, đánh giá, kết luận
về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của đối tượng kiểm tra trong việc chấp

hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Giám sát của Đảng là việc cấp ủy, tổ chức đảng theo dõi, xem xét, đánh
giá hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên chịu giám sát trong việc chấp hành
nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng, pháp luật của Nhà nước và đạo đức, lối sống theo quy định của Ban


Chấp hành Trung ương.
* Những điểm giống nhau giữa kiểm tra và giám sát
Một là, kiểm tra và giám sát là hoạt động của nội bộ Đảng, do cấp uỷ,
tổ chức đảng và uỷ ban kiểm tra thực hiện.
Hai là, nội dung kiểm tra, giám sát: việc chấp hành Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng; chính sách pháp luật
của Nhà nước.
Ba là, đối tượng kiểm tra, giám sát: tổ chức đảng và đảng viên.
Bốn là, mục đích kiểm tra giám sát: Nhằm phục vụ việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị và cơng tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Năm là, định kỳ đều có báo cáo với cấp uỷ theo quy định về tình hình
thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát.
Sáu là, phương pháp kiểm tra, giám sát: đều dựa vào phương pháp
công tác Đảng.
Bảy là, kiểm tra, giám sát tiến hành có tổ chức, đảm bảo cơng khai, dân
chủ, khách quan, thận trọng và do tổ chức có thẩm quyền kết luận, đánh giá.
Tám là, cách tiến hành kiểm tra, giám sát đều theo một quy trình đã
được quy định. Nếu thực hiện sai quy trình, tổ chức đảng, đảng viên có quyền
khiếu nại, tố cáo.
Chín là, kiểm tra, giám sát đều là những chức năng lãnh đạo của Đảng;
mọi tổ chức đảng, đảng viên đều chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng.
* Những điểm khác nhau giữa kiểm tra và giám sát

Thứ nhất, về mục đích
Giám sát để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn xảy ra vi phạm từ lúc
mới manh nha; giúp đối tượng được giám sát thực hiện đúng quy định, quy
chế; phát hiện, góp ý, phản ánh, đề xuất; giám sát để phòng ngừa ngăn chặn
khuyết điểm, vi phạm là chính. Qua giám sát, nếu phát hiện có dấu hiệu vi
phạm thì mới tiến hành kiểm tra.
Kiểm tra là để làm rõ đúng, sai, sau khi kiểm tra phải kết luận và xử lý
(nếu có). Có thể có vi phạm rồi mới tiến hành kiểm tra, có những vụ việc vi


phạm đã qua nhiều năm mới tiến hành kiểm tra làm rõ nội dung, tính chất,
mức độ, tác hại và nguyên nhân của vi phạm để xử lý.
Thứ hai, về chủ thể, đối tượng
Chủ thể công tác giám sát hẹp hơn chủ thể công tác kiểm tra. Nếu chủ
thể công tác kiểm tra có ban cán sự đảng, đảng đồn thì chủ thể giám sát
khơng bao gồm 2 chủ thể này (Điều lệ Đảng khóa X). Hiện nay, theo Điều lệ
Đảng khóa XI, ban cán sự đảng, đảng đồn khơng thực hiện nhiệm vụ kiểm
tra, giám sát, mà chỉ lãnh đạo nhiệm vụ kiểm tra.
Đối tượng của kiểm tra: đảng viên là chủ thể kiểm tra, vừa là đối tượng
kiểm tra. Nhưng trong giám sát, đảng viên là đối tượng giám sát và chỉ trở
thành chủ thể giám sát khi được tổ chức đảng có thẩm quyền phân cơng. Như
vậy, đối tượng giám sát rộng hơn đối tượng kiểm tra, vì đối tượng giám sát
bao gồm cả các tiểu ban, hội đồng, tổ công tác do cấp uỷ các cấp lập ra. Mặt
khác, đối tượng kiểm tra chỉ là đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ
diện cấp ủy cùng cấp quản lý và tổ chức đảng cấp dưới; cịn giám sát thì đối
với đảng viên, cấp ủy viên cùng cấp (kể cả bí thư, phó bí thư).
Thứ ba, trong kiểm tra, chủ thể hoạt động và đối tượng chịu sự tác động
của hoạt động đó có thể đồng nhất hoặc không đồng nhất với nhau. Mặt khác,
trong kiểm tra, chủ thể thực hiện kiểm tra có thể tự xem xét, đánh giá tình
trạng tốt, xấu của cơng việc đã hoặc đang làm của chính mình, đồng thời có

thể kiểm tra, xem xét, đánh giá tình trạng tốt, xấu của công việc đã hoặc đang
làm của đối tượng được kiểm tra (có thể là cấp dưới). Trong giám sát, chủ thể
không thể tự theo dõi, xem xét, hoạt động của chính mình. Nói cách khác,
kiểm tra có thể tự kiểm tra hoặc chịu sự kiểm tra của tổ chức đảng có thẩm
quyền theo chương trình kế hoạch. Cịn giám sát là phải từ bên ngồi, bên
trên… mà nhìn xuống, soi vào. Tức là khơng có hình thức tự giám sát.
Thứ tư, về nội dung và tính chất: Giám sát được tiến hành trực tiếp,
thường xuyên, liên tục trên tất cả các lĩnh vực của công tác xây dựng Đảng,
công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng, nên có nội dung rất rộng.
Giám sát về tư tưởng chính trị; giám sát về cơng việc; giám sát về các mối
quan hệ; giám sát về sinh hoạt, đạo đức lối sống; giám sát việc thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao; giám sát việc thực hiện các quy định, quy chế…


nên mang tính chủ động phịng ngừa, khơng để xảy ra vi phạm; khi giám sát
phát hiện được có vi phạm, kịp thời ngăn chặn không để gây hậu quả lớn hơn.
Qua hoạt động giám sát, có thể kịp thời cảnh báo, nhắc nhở cá nhân, tổ chức
có biểu hiện khơng đúng, lệch lạc trong q trình triển khai thực hiện chủ
trương nghị quyết, quyết định… hoặc có biểu hiện không đúng trong đạo đức,
lối sống và sinh hoạt… để kịp thời phát huy ưu điểm, uốn nắn khắc phục thiếu
sót, khuyết điểm, chủ động ngăn chặn khơng để cho khuyết điểm trở thành vi
phạm, vi phạm ít nghiêm trọng trở thành vi phạm nghiêm trọng; còn nội dung
của kiểm tra chủ yếu là kiểm tra việc và kiểm tra người, được tiến hành bằng
các cuộc kiểm tra (chủ yếu khi sự việc đã xảy ra) theo quy trình kế hoạch đã
đề ra. Qua mỗi cuộc kiểm tra, phải có kết luận cụ thể và xử lý vi phạm (nếu vi
phạm đến mức phải xử lý).
Thứ năm, về hình thức và phương pháp kiểm tra và giám sát.
Hình thức kiểm tra gồm: định kỳ, thường xuyên, bất thường.
Hình thức giám sát gồm: giám sát thường xuyên và giám sát theo
chuyên đề.

Phương pháp kiểm tra: Có 5 phương pháp chủ yếu đó là: Dựa vào tổ
chức đảng; Phát huy tính tự giác, tự phê bình và phê bình của tổ chức đảng và
đảng viên; Phát huy trách nhiệm xây dựng đảng của quần chúng; Làm tốt
công tác thẩm tra xác minh; Kết hợp chặt chẽ công tác kiểm tra của Đảng với
công tác thanh tra của Nhà nước, thanh tra nhân dân, cơng tác kiểm tra của
các đồn thể chính trị - xã hội và phối hợp của các ban ngành có liên quan.
- Phương pháp giám sát: Giám sát trực tiếp và Giám sát gián tiếp.
Qua nghiên cứu hình thức, phương pháp của giám sát cho thấy, giám
sát có tính chất theo dõi thường xuyên, liên tục, nên trong giám sát thường
xuyên theo địa bàn, lĩnh vực được phân công... khơng thành lập đồn và tổ
chức thành từng cuộc, khơng tiến hành phương pháp thẩm tra, xác minh, cho
nên không lấy kết quả giám sát làm căn cứ để xem xét thi hành kỷ luật như
kiểm tra. Vì vậy, kết quả của hoạt động giám sát dừng lại ở nhận định, đánh
giá, nhận xét, đề xuất, kiến nghị, không kết luận, xem xét, xử lý như kiểm tra.
Kiểm tra được tiến hành định kỳ hoặc đột xuất theo yêu cầu của nhiệm
vụ chính trị và cơng tác xây dựng Đảng trong từng thời gian. Công tác kiểm


tra xem xét từng vụ việc cụ thể; được tiến hành theo quy trình, tổ chức thành
cuộc kiểm tra; trong kiểm tra, thẩm tra, xác minh là bắt buộc, chưa thẩm tra,
xác minh thì chưa được kết luận. Thực hiện tốt công tác thẩm tra, xác minh là
thực hiện tốt mối quan hệ giữa tự giác và bắt buộc trong cơng tác xây dựng
Đảng, giữ gìn kỷ luật Đảng và cơng tác kiểm tra, thi hành kỷ luật Đảng… Vì
vậy, công tác kiểm tra phải làm rõ bản chất của sự việc để kết luận rõ đúng,
sai, nội dung, tính chất, mức độ và nguyên nhân, cho nên kiểm tra phản ánh
tính bản chất, cịn giám sát phản ánh tính hiện tượng. Do tính chất của kiểm
tra khơng tiến hành thường xuyên liên tục mà tiến hành định kỳ, đột xuất, có
trọng tâm, trọng điểm, nên tính tồn diện, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn
sai phạm của kiểm tra hạn chế hơn giám sát.
Giám sát chỉ tiến hành đối với các hoạt động, cơng việc đang diễn ra,

cịn kiểm tra là kiểm tra các hoạt động, công việc đang diễn ra hoặc đã diễn ra
và kết thúc. Vì vậy, quy trình thực hiện khác nhau.
+ Mối quan hệ giữa giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước
và các đồn thể chính trị - xã hội
Giám sát khơng chỉ là chức năng lãnh đạo của Đảng, là nhiệm vụ của
các tổ chức đảng, trong đó có UBKT các cấp mà giám sát còn là chức năng
quản lý của Nhà nước và chức năng lãnh đạo của đồn thể chính trị- xã hội.
Giám sát trong Đảng là giám sát trực tiếp đối với tổ chức đảng và đảng
viên theo nguyên tắc, phương pháp công tác Đảng, được tiến hành trong nội
bộ Đảng.
Giám sát của Nhà nước là giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân
các cấp đối với các cơ quan nhà nước. Đây là giám sát mang tính quyền lực
Nhà nước.
Giám sát của các đồn thể chính trị- xã hội: thông qua Uỷ ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước; đại biểu và cán
bộ, cơng chức Nhà nước. Tính chất của loại hình giám sát này mang ý nghĩa
nhân dân, ý nghĩa xã hội.
Công tác giám sát trong Đảng, giám sát của Nhà nước và giám sát của
các đoàn thể chính trị- xã hội đều là giám sát hoạt động của các tổ chức, cá
nhân trong việc chấp hành các quy định, quyết định cụ thể, đều có cùng mục


đích là nhằm bảo đảm cho chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước được
thực hiện đầy đủ, thống nhất ở các cơ quan, đơn vị, địa phương, nhằm tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Phương pháp
giám sát trong Đảng chủ yếu là trực tiếp, thường xuyên, liên tục đối với tổ
chức đảng, đảng viên. Giám sát của Nhà nước thông qua thanh tra, được pháp
luật quy định, giám sát của nhân dân là thông qua phản biện xã hội, giám sát
trực tiếp thông qua cơ quan đại diện, thông qua các chức trách của mình mà
giám sát đảng viên.

Cơng tác giám sát trong Đảng có quan hệ mật thiết với giám sát của các
đồn thể chính trị, trong đó chủ yếu với Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể quần
chúng… Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tơn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng.
2.1.2. Căn cứ chính trị pháp lý
- Quyết định số 25-QĐ/TW, ngày 24/11/2006 về việc ban hành Hướng dẫn
thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng
- Quyết định 46-QĐ/TW, ngày 1-11-2011 về “Ban hành hướng dẫn thực hiện
các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
- Quyết định số 68-QĐ/TW về “Ban hành Quy chế giám sát trong Đảng”.
- Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII
nhiệm kỳ 2015 -2020 và nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp.
2.1.3. Căn cứ thực tiển
Một số UBKT, nhất là ở cơ sở chưa quan tâm đúng mức đến việc tổ
chức nghiên cứu, quán triệt các nghị quyết, quy định, hướng dẫn về công tác
giám sát của Đảng, có nơi cịn mang tính hình thức. Do đó, nhận thức về
nhiệm vụ giám sát chưa đầy đủ, sâu sắc.
Một số đơn vị chưa xác định đúng phương hướng, phương châm, nhiệm
vụ giám sát; xây dựng nội dung chương trình, kế hoạch giám sát cịn chung
chung, thiếu trọng tâm, trọng điểm; tổ chức thực hiện hiệu quả chưa cao.
Vai trò tham mưu giúp cấp ủy thực hiện nhiệm vụ giám sát của UBKT
các cấp còn hạn chế, giám sát thường xuyên còn lúng túng; số cuộc giám sát
theo chuyên đề chưa nhiều; chưa tập trung giám sát đảng viên là cấp uỷ viên
cùng cấp, cán bộ thuộc diện cấp ủy cấp mình quản lý, người đứng đầu tổ chức


đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội trong thực hiện chức trách,
nhiệm vụ được giao; lĩnh vực quan trọng, dễ phát sinh vi phạm. Hầu hết
UBKT các cấp (kể cả cấp tỉnh) chưa thực hiện được nhiệm vụ giám sát đối
với các cơ quan tham mưu giúp việc của cấp ủy cấp mình.

Một số UBKT cấp trên chưa chủ động, tích cực hướng dẫn, chỉ đạo
UBKT cấp dưới để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực hiện nhiệm vụ
giám sát.
Trong hoạt động của UBKT các cấp, việc kết hợp giữa công tác kiểm
tra và công tác giám sát chưa thật chặt chẽ, công tác giám sát chưa thật sự hỗ
trợ cho công tác kiểm tra. Thực tiễn cho thấy, hầu hết dấu hiệu vi phạm phát
hiện qua đơn, thư tố cáo. Việc phát hiện dấu hiệu vi phạm từ các tổ chức đảng
còn rất ít. Điều đó chứng tỏ vai trị giám sát phát hiện dấu hiệu vi phạm của
các tổ chức đảng chưa được đề cao.
Đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát, nhất là ở cơ sở, nhìn
chung trình độ, năng lực cịn bất cập, kinh nghiệm cơng tác hạn chế; tính
chiến đấu chưa cao, tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, đùn đẩy thực
hiện nhiệm vụ giám sát vẫn chưa được khắc phục triệt để.
2.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỀ ÁN
2.2.1. Thực trạng thực hiện nhiệm vụ giám sát của UBKT các cấp ở
Đảng bộ Hà Tĩnh
- Đặc điểm tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Tĩnh
Hà Tĩnh có diện tích tự nhiên gần 6.000 km2; dân sớ gần 1,3 triệu
người, trong đó có 11,7% đồng bào theo đạo Thiên Chúa giáo; có 137 km bờ
biển, 145 km đường biên giới. Vùng đất Hà Tĩnh đã sinh ra nhiều danh nhân
tiêu biểu, nhiều người con ưu tú đã góp phần làm rạng danh quê hương, đất
nước, như: Nguyễn Du, Nguyễn Cơng Trứ, Lê Hữu Trác, Phan Đình Phùng,
Trần Phú, Hà Huy Tập…Tỉnh Hà Tĩnh có 13 đơn vị hành chính; 20 đảng bộ
trực thuộc; có 747 đảng bộ, chi bộ cơ sở và 4.158 chi bộ thuộc đảng ủy cơ sở;
có trên 94.590 đảng viên.
Những năm qua, trong điều kiện tình hình thế giới, khu vực, cũng như
trong nước, trong tỉnh gặp khơng ít khó khăn; nhưng được sự quan tâm, giúp
đỡ của Trung ương, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục giành được



kết quả cao, toàn diện trên các lĩnh vực, nhiều chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch
đề ra. Cụ thể:
Kinh tế phát triển tồn diện và có bước đột phá, tốc độ tăng trưởng ở
mức cao, bình quân giai đoạn 2006 - 2010 đạt 9,6%, giai đoạn 2011 - 2015 đạt
trên 18%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, đến năm 2015:
cơng nghiệp - xây dựng 38%, thương mại - dịch vụ 44%, nông - lâm - ngư
nghiệp còn 18%. Huy động các nguồn lực đầu tư phát triển giai đoạn 2011 2015 đạt 287.000 tỷ đồng, tăng hơn 10 lần so với giai đoạn 2006 - 2010. Đến
năm 2015, GRDP bình quân đầu người đạt 39 triệu đồng, tỷ lệ hộ nghèo giảm
còn 5,8%. Tổng thu ngân sách trên địa bàn giai đoạn 2011 - 2015 đạt trên
36.000 tỷ đồng; năm 2015 đạt hơn 12.120 tỷ đồng, tăng gấp 6,1 lần so với năm
2010; trong đó, thu nội địa đạt 7.057 tỷ đồng.
- Tình hình tổ chức đảng, đảng viên
Theo số liệu thống kê phân loại đảng viên, tổ chức cơ sở đảng tháng
01/2016 của tỉnh Hà Tĩnh, như sau:
- Tổng số đảng viên toàn Đảng bộ: 94.590 đồng chí.
- Tổng số đảng viên được phân loại: 81.703 đồng chí, trong đó:
+ Đảng viên đủ tư cách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: 11.442 (14,00%);
+ Đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ: 58.838 (72,00%);
+ Đảng viên đủ tư cách, hoàn thành nhiệm vụ: 10.788 (13,20%);
+ Đảng viên vi phạm tư cách: 635 (0,8%).
- Tổng số cơ sở đảng: 755.
- Tổng số cơ sở đảng được phân loại: 747 tổ chức, trong đó:
+ Trong sạch, vững mạnh: 468 (62,65%);
+ Hoàn thành tốt nhiệm vụ 221 (29,60%);
+ Hoàn thành nhiệm vụ 58 (7,75%);
+ Yếu kém 0 (0%).
Thời gian qua, các tổ chức đảng đã đổi mới phương thức lãnh đạo; tập
trung củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tính tiên phong
gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên; thường xuyên quan tâm chỉ đạo
nâng cao chất lượng sinh hoạt, thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và sinh

hoạt đảng, đặc biệt coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ; tăng cường đoàn


kết nhất trí trong Đảng, kịp thời khắc phục những biểu hiện mất đoàn kết ở
một số địa phương, đơn vị. Tỷ lệ tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, đảng
viên đủ tư cách, hoàn thành tốt nhiệm vụ ngày càng tăng. Bên cạnh đó, năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng chưa ngang tầm
với yêu cầu nhiệm vụ. Việc thực hiện nền nếp sinh hoạt đảng và chế độ thông
tin, báo cáo ở một số cấp ủy, tổ chức đảng còn thiếu nghiêm túc. Đội ngũ cán
bộ cơ sở nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu.
- Thực trạng thực hiện nhiệm vụ giám sát của UBKT các cấp
+ Về tổ chức bộ máy
Tồn Đảng bộ Hà Tĩnh có 496 UBKT, gồm: UBKT Tỉnh ủy; 20 UBKT
huyện, thành, thị ủy, đảng ủy trực thuộc; 475 UBKT cơ sở (262 xã, phường, thị trấn
và 213 khối cơ quan, DN, LLVT) với gần 1.700 cán bộ làm cơng tác kiểm tra, trong
đó 63% đồng chí tham gia lần đầu.
Trình độ học vấn: sau đại học 26 (1,5%), đại học, cao đẳng 794 (46,7%),
trung cấp 603 (35,5%%), sơ cấp 277 (16,3%); Trình độ lý luận chính trị: cử nhân,
cao cấp 207 (12,2%); trung cấp 1.171 (68,9%), sơ cấp 322 (18,9%).
Sau Đại hội Đảng các cấp, nhiệm kỳ 2015 - 2020, UBKT ba cấp được
kiện toàn, hoạt động đi vào nền nếp, từng bước nâng cao chất lượng hiệu quả
thực hiện nhiệm vụ do quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ do cấp ủy giao.
Trong những năm qua, nhận thức rõ vị trí, vai trị, tầm quan trọng của
cơng tác kiểm tra, giám sát, cấp ủy, UBKT các cấp đã tập trung nâng cao chất
lượng thực hiện nhiệm vụ giám sát, góp phần xây dựng Đảng bộ trong sạch,
vững mạnh, hoàn thành mục tiêu nghị quyết Đại hội Đảng các cấp đề ra.
+ Về thực trạng thực hiện nhiệm vụ giám sát của UBKT
Đầu nhiệm kỳ, UBKT các cấp đã tham mưu ban chấp hành đảng bộ, cấp
uỷ cấp mình ban hành quy chế làm việc, trong đó quy định rõ chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của ban chấp hành, ban thường vụ, thường trực cấp uỷ và từng

đồng chí cấp uỷ viên trong việc thực hiện nhiệm vụ giám sát thường xuyên đối
với các lĩnh vực, địa bàn phụ trách. Đồng thời, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã
thành lập các đồn cơng tác để thực hiện nhiệm vụ chỉ đạo, kiểm tra, giám sát
tại địa phương, cơ sở nhằm kịp thời giúp cơ sở tháo gỡ những khó khăn,
vướng mắc, giải quyết các vụ việc phát sinh; chỉ đạo các cấp uỷ trực thuộc
phân cơng, thành lập các đồn cơng tác để theo dõi, chỉ đạo, giám sát cơ sở. Ban


thường vụ cấp ủy huyện, thành, thị ủy cũng đã thành lập các đồn cơng tác chỉ
đạo cơ sở ở địa phương, đơn vị mình.
Nội dung giám sát tập trung vào việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực
hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của cấp trên và cấp mình; việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; thực hiện chương trình, kế
hoạch cơng tác tồn khóa, hàng năm của cấp ủy, tổ chức đảng; việc thực hiện
tiêu chuẩn đảng viên, cấp ủy viên, thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao,
giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; việc thực hiện những điều đảng viên, cán
bộ, công chức không được làm...
Thông qua giám sát thường xuyên, tổ chức đảng, cán bộ thực hiện giám
sát nắm chắc được tình hình, kịp thời xử lý hoặc tham mưu xử lý các thông
tin, vụ việc phát sinh, nhằm ổn định tình hình ngay từ cơ sở, ngăn ngừa vi
phạm, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương, góp phần thực hiện cơng tác xây dựng Đảng,
thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển.
Tuy nhiên, một số cấp uỷ, người đứng đầu tổ chức, cán bộ, đảng viên
nhận thức chưa đầy đủ tầm quan trọng của công tác giám sát nên trong chỉ
đạo, tổ chức thực hiện hiệu quả cịn chưa cao. Việc giám sát thường xun
khơng thực hiện các bước nghiệp vụ, nên khi nghe báo cáo khơng phản ánh
đầy đủ, chính xác tình hình; một số tổ chức đảng cịn ngại cung cấp thơng tin,
báo cáo, thậm chí chưa mời cán bộ được phân cơng giám sát dự các cuộc họp
theo quy định... Vì vậy, chất lượng, hiệu quả thực hiện chưa cao.

Kết quả kiểm tra, giám sát đảng của tỉnh Hà Tĩnh nhiệm kỳ 2010 –
2015 như sau:
- Kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên theo Điều 30 Điều lệ Đảng:
+ Tổ chức đảng được kiểm tra, giám sát: 5.148 tổ chức đảng, trong đó
. Kết luận có vi phạm: 240
. Phải thi hành kỷ luật: 9
. Đã thi hành kỷ luật: 9
+ Đảng viên được kiểm tra, giám sát: 9.316 đảng viên,
. Kết luận có vi phạm: 572
. Phải thi hành kỷ luật: 67



×