Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.89 KB, 5 trang )
Quýt gai - Cây thuốc thông dụng
Quýt gai, thuộc họ cam, tên khác là quýt rừng, độc lực, cam trời, mến tên, tửu binh
lặc. Là một cây nhỏ, mọc hoang ở vùng thấp tại hầu hết các tỉnh đồng bằng, trung
du và hải đảo. Thường gặp ở bờ bụi, gò đống, bờ ruộng, ven đường. Các bộ phận
của cây quýt gai như rễ, vỏ, thân, lá, quả có vị đắng, the, mùi thơm, tính ấm, không
độc, được dùng làm thuốc phổ biến theo kinh nghiệm dân gian với nhiều công
dụng tốt.
Quýt gai.
Rễ: thu hái quanh năm, tốt nhất là vào mùa thu, rửa sạch, rễ nhỏ để nguyên, rễ to
chỉ lấy vỏ.
Chữa phong thấp, đau xương, đau mình: rễ quýt gai 16g, phối hợp với thổ phục
linh 12g, ngưu tất 12g, thiên niên kiện 8g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, ngâm với
rượu trong nhiều ngày, càng lâu càng tốt. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 chén nhỏ. Có
thể nấu thành cao rồi pha rượu mà uống.
Chữa ho: rễ quýt gai 20g, vỏ cây dâu 10g, rễ hoặc lá cam thảo Nam 10g. Ba thứ
thái mỏng, sắc với 400ml nước còn 100ml, uống làm 2 lần trong ngày.
Chữa đinh râu: rễ quýt gai và bã rượu (lượng 2 thứ bằng nhau) giã nhỏ, hơ nóng,
đắp hằng ngày.
Chữa đau răng, sâu răng: vỏ rễ quýt gai cắt nhỏ, nhai với muối, ngậm trong 5
phút, rồi nhổ nước.
Vỏ, thân: quýt gai, vỏ quả lựu, vỏ quả chuối hột, rễ tầm xuân, mỗi thứ 20g, búp ổi
10g, thái nhỏ, phơi khô, sắc uống trong ngày. Chữa kiết lỵ.
Lá: thu hái khi cần, chỉ lấy lá non và lá bánh tẻ, lá chứa nhiều tinh dầu.
Chữa cảm, cúm, nhức đầu: lá quýt gai nấu với những loại lá thơm khác như sả, cúc
tần, đại bi, hương nhu, lá bưởi dùng xông cho ra mồ hôi.
Chữa sưng tấy, ứ huyết: lá quýt gai 40g, lá bạc thau 40g, trộn chung rồi chia thành