Tiểu luận triết học
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bước vào thiên niên kỷ mới, nền kinh tế thế giới đang có sự biến đổi
và phát triển không ngừng. Trong sự chuyển biến mạnh mẽ đó, nền kinh tế
Việt Nam cũng khơng ngừng biến đổi vận động.Cho đến nay nước ta đã
thực hiện công cuộc đổi mới được hơn hai thập kỷ, bên cạnh những thành
tựu đã đạt được, những vấn đề của nền kinh tế luôn đặt ra những thách thức
cần phải được giải quyết. So với thế giới, nước ta vẫn là một nước nghèo,
nền kinh tế còn yếu kém, chậm phát triển, những tàn dư của nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp vẫn cịn tồn tại đã kìm hãm sự phát triển của nền
nền kinh tế. Chính vì thế việc nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền
kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với tình hình
khu vực, thế giới và thời đại là hết sức cần thiết. Điều đó cũng có nghĩa là
phải phân tích các yếu tố kinh tế trong tổng thể các mối quan hệ, trong sự
vận động, phát triển không ngừng. Do vậy việc vận dụng quan điểm lịch sử
cụ thể, quan điểm rút ra từ hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy
vật của triết học Mác - Lênin vào quá trình đối mới kinh tế ở Việt Nam là
rất cần thiết.
Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình đối mới kinh tế ở
Việt Nam sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta có được hướng đi đúng đắn.
Thực tiễn nghiên cứu quan điểm lịch sử cụ thể sẽ giúp chúng ta tránh lặp
lại những sai lầm cũ và vận dụng những kinh nghiệm của các nước trên thế
giới vào quá trình xây dựng nền kinh tế nước nhà. Vì vậy, trong tiểu luận
triết học của mình, em đã chọn đề tài: “Vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể
phân tích q trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam”.
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
1
Lớp: QTKD - K41
Tiểu luận triết học
B. NỘI DUNG
1. Quan điểm lịch sử cụ thể
1.1 Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật.
Nội dung nguyên lý: Mọi sự vật hiện tượng của thế giới tự nhiên, xã
hội, tư duy đều nằm trong mối liên hệ biện chứng với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau, ràng buộc nương tựa, qui định lẫn nhau làm tiền đề điều kiện
cho sự phát triển của nhau. Mối liên hệ này chẳng những diễn ra ở mọi sự
vật hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy và còn diễn ra giữa
các yếu tố, các mặt khác, các quá trình của mỗi sự vật và hiện tượng. Đó là
mối liên hệ khách quan, nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế
giới, biểu hiện trong các quá trình của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nhờ có
tính thống nhất đó, các sự vật hiện tượng khơng thể tồn tại biệt lập, tách
rời, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau theo những
quan hệ xác đinh.
Mối liên hệ của sự vật, hiện tượng trong thế giới là đa dạng và phong
phú, có mối liên hệ bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, cơ bản và
không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu.
1.2. Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật.
Nội dung nguyên lý: Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều không
ngừng biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, cái mới kế tiếp cái cũ, giai đoạn
sau kế thừa giai đoạn trước tạo thành quá trình phát triển tiến lên mãi mãi.
Phát triển là khuynh hướng chung thống trị thế giới. Q trình đó diễn ra
vừa dần dần, vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Sự
phát triển không phải lúc nào cũng theo đường thẳng mà rất quanh co, phức
tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời.
Sự phát triển chỉ là một trường hợp đặc biệt của sự vận động. Nguồn
gốc, nguyên nhân của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh của các
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
2
Lớp: QTKD - K41
Tiểu luận triết học
mặt đối lập. Cách thức hình thái của sự phát triển là sự thay đổi dần về
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Khuynh hướng của sự phát
triển là đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến
hoàn thiện. Sự phát triển chỉ bộc lộ ra khi ta so sánh các hình thức tồn tại
của sự vật ở các thời điểm khác nhau trên trục thời gian quá khứ - hiện tạitương lai.
1.3. Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là
cơ sở hình thành quan điểm lịch sử cụ thể. Mọi sự vật hiện tượng của thế
giới đều tồn tại, vận động và phát triển trong những điều kiện không gian
và thời gian cụ thể xác định. Điều kiện khơng gian và thời gian có ảnh
hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Khơng gian, thời gian,
điều kiện, hồn cảnh cụ thể khác nhau thì các mối liên hệ và hình thức phát
triển của sự vật, hiện tượng cũng khác nhau, bởi vậy không chỉ nghiên cứu
chúng trong suốt q trình, mà cịn nghiên cứu chúng trong khơng gian,
thời gian, điều kiện, hồn cảnh lịch sử cụ thể khác nhau đó.
1.4.Quan điểm lịch sử cụ thể trong nhận thức và thực tiễn:
Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi, để nhận thức đầy đủ về sự vật, hiện
tượng, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng trong q trình phát sinh,
phát triển, chuyển hố trong các hình thức biểu hiện, với những bước
quanh co, vỡi những ngẫu nhiên gây tác động lên quá trình tồn tại của sự
vật, hiện tượng trong không gian và thời gian cụ thể; gắn với điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể mà trong đó sự vật, hiện tượng tồn tại.
Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển trong
từng giai đoạn cụ thể của nó; biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn là yếu tố quan trọng nhất trong các
yếu tố của nội dung nguyên tắc lịch sử cụ thể. Bản chất của nguyên tắc này
nằm ở chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, trong sự vận động,
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
3
Lớp: QTKD - K41
Tiểu luận triết học
trong sự chuyển hoá qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự phát triển của
sự vật, hiện tượng ấy, sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó.
Nhiệm vụ của ngun tắc lịch sử cụ thể là tái tạo sự vật hiện tượng qua
lăng kính ngẫu nhiên lịch sử, những bước quanh co, những gián đoạn theo
trình tự khơng gian và thời gian. Nét quan trọng nhất của nguyên tắc lịch sử
cụ thể là mơ tả sự kiện cụ thể theo trình tự nghiêm ngặt của sự hình thành
sự vật, hiện tượng. Giá trị của nguyên tắc này là ở chỗ, nhờ đó mà có thể
phản ánh được sự vận động lịch sử phong phú và đa dạng của các hình thức
biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng để qua đó, nhận thức được bản chất
của nó.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể u cầu phải nhận thức được vận động có
tính phổ biến, là phương thức tồn tại của vật chất, nghĩa là phải nhận thức
được sự vận động làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo
những quy luật nhất định và hình thức của vận động quyết định bản chất
của nó; chỉ rõ được những giai đoạn cụ thể mà nó đã trải qua trong q
trình phát triển của mình; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn thì mới có thể hiểu, giải thích
những thuộc tính, mối liên hệ tất yếu, những đặc trưng chất và lượng vốn
có của sự vật, hiện tượng.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể còn yêu cầu chỉ ra được các quy luật
khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, quy
định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hoá thành sự vật, hiện tượng
mới thông qua sự phủ định; chỉ ra được rằng, thông qua phủ định của phủ
định, sự vật, hiện tượng mới là sự kế tục sự vât, hiện tượng cũ; là sự bảo
tồn sự vật, hiện tượng cũ trong dạng đã được lọc bỏ, cải tạo cho phù hợp
với sự vật, hiện tượng mới. Như vậy, chỉ khi đã tìm được mối liên hệ khách
quan, tất yếu giữa các trạng thái chất lượng, tạo nên lịch sử hình thành và
phát triển của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu; tạo nên các quy luật quy
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
4
Lớp: QTKD - K41
Tiểu luận triết học
định sự tồn tại và chuyển hoá của nó, quy định giai đoạn phát triển này
sang giai đoạn phát triển khác cho tới trạng thái chín muồi và chuyển hoá
thành trạng thái khác, hay thành các mặt đối lập của nó, thì mới có thể giải
thích các đặc trưng chất lượng và số lượng đặc thù của nó, nhận thức được
bản chất của nó.
Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi phải xem xét sự vật, hiện tượng
trong các mối liên hệ cụ thể của chúng. Việc xem xét các mặt, các mối liên
hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng trong quá trình hình thành, phát triển cũng
như diệt vong của chúng, cho phép nhận thức đúng đắn bản chất của sự vật,
hiện tượng và từ đó mới có định hướng đúng đắn bản chất của sự vật, hiện
tượng và từ đó mới có định hướng đúng cho hoạt động thực tiễn của con
người. Đối với việc nghiên cứu quá trình nhận thức, nguyên tắc lịch sử cụ
thể cũng địi hỏi phải tính đến sự phụ thuộc của q trình đó vào trình độ
phát triển của xã hội, trình độ phát triển sản xuất và thành tựu khoa học
trước đó.
Nhận thức sự vật, hiện tượng theo nguyên tắc lịch sử cụ thể là cần
tháy các mối liên hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian, cũng như trong
những không gian tồn tại khác nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trưng
của sự vật, hiện tượng, tránh khuynh hướng giáo điều, chung chung, trừu
tượng không cụ thể. Mặt khác, cũng tránh khuynh hướng tuyệt đối hố tính
cụ thể, khơng thấy sự vật, hiện tượng trong cả quá trình vận động, biến đổi.
Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải vừa thấy tính cụ
thể, vừa thấy cả quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng là điều tất yếu.
2. Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
2.1. Sự đổi mới kinh tế ở Việt Nam
2.1.1. Quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
5
Lớp: QTKD - K41
Tiểu luận triết học
Đại hội lần thứ VI của Đảng được xem như một cột mốc quan trọng
trong việc chuyển đổi cơ chế kinh tế ở nước ta. Trên cơ sở phê phán một
cách nghiêm khắc cơ chế tập trung quan liêu bao cấp mà nguồn gốc là từ
kinh tế hiện vật và những hậu quả của nó, Đảng ta đã đề ra quan điểm phát
triển nền kinh tế hàng hố có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ
nghĩa xã hội, coi đây là vấn đề “ có ý nghĩa chiến lược và mang tín quy luật
từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội “. Tổng kết hai năm thực hiện nghị
quyết đại hội VI, nền kinh tế đã có những sự phát triển, khắc phục được suy
thối, nền kinh tế xã hội đã có những thay đổi căn bản. Đó là những căn cứ
để tiến tới một bước cao hơn trong những năm tiếp theo. Đại hội lần thứ
VII, Đảng đã khẳng định: “ phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thàn phần
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước” . Tới Đại hội Đảng IX, kinh tế thị trường lại
được khẳng định một cách sâu sắc đầy đủ hơn như là mơ hình kinh tế
tổng qt hay mơ hình mới của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thực tế hơn qua hơn 10 năm đổi mới ở nước ta đã chứng tỏ quá
trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
quá trình đổi mới tất yếu, tiến bộ, phù hợp với xu thế của thời đại nhưng
cũng là q trình phức tạp lâu dài. Đó là quá trình khởi đầu bằng ý nguyện
của quần chúng, được Đảng nắm bắt, tổng kết, định hướng bằng cơ chế,
chính sách. Đó cũng là sự dũng cảm nhìn thẳng vào những sai lầm, khuyết
điểm từ mơ hình cũ với những quan điểm giản đơn trong cách nghĩ, từ đó
quyết tâm đổi mới, coi đổi mới là vấn đề sống cịn của dân tộc, chấp nhận
sự tìm tịi thử nghiệm từ cuộc sống mà cách đây vài chục năm trong tư duy
kinh tế còn là cuộc đấu tranh gay gắt.
Những chuyển đổi đó thực sự tạo ra bước ngoặt kinh tế. Kể từ khi
Việt Nam bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu,
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
6
Lớp: QTKD - K41
Tiểu luận triết học
làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước. Kinh tế ra khỏi tình trạng khủng
hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Của cải xã hội ngày
càng nhiều, hàng hoá này càng phong phú. Đời sống nhân dân từng bước
được cải thiện. Đất nước ổn định về chính trị và có những bước phát triển
đi lên. Tổng sản phầm trong nước (GDP) tăng bình qn 7%/năm. Nơng
nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là về sản xuất lương thực, nuôi trồng và
khai thác thuỷ sản, từ chỗ thiếu lương thực triền miên, đến nay chúng ta đã
không những đáp ứng được nhu cầu trong nước mà xuất khẩu đứng vị trí
thứ hai trên thế giới. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm. Hệ
thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và
nhập khẩu phát triển. Quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế không
ngừng được mở rộng .
2.1.2. Đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam thành nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa
KTTT theo định hướng XHCN là một khái niệm kép. Định hướng
theo nghĩa danh từ là nền kinh tế thị trường vận động và trong nó hàm chứa
và bị chi phối bởi tính chất XHCN. Và theo nghĩa động từ là tiến trình chế
định nền kinh tế thị trường theo nguyên tắc XHCN nhằm phục vụ CNXH.
Tổng hồ các nghĩa đó, KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam là một
kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và qui luật của
KTTT vừa dựa trên những dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất
CNXH, thể hiện trên ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
2.2. Thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau.
Mỗi mơ hình là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những
điều kiện lịch sử cụ thể. Nghiên cứu một cách nghiêm túc các mơ hình đó,
cùng với thời gian và kinh nghiệm thực tế chúng ta đã rút ra cho mình một
cách nhìn đúng đắn hơn và một sự lựa chọn thực tế hơn.
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
7
Lớp: QTKD - K41
Tiểu luận triết học
Trước tiên cần phải tìm hiểu khái niệm KTTT. KTTT được hiểu là
một mơ hình kinh tế xã hội mà trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn
chặt với thị trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá,tiền tệ, với quan
hệ cung - cầu. Trong nền KTTT nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời
sống xã hội là quan hệ hàng hố. Mọi hoạt động xã hội đều phải tính đến
quan hệ hàng hố hay ít nhất thì cũng phải sử dụng các quan hệ hàng hoá
như là những mắt xích, khâu trung gian.
Nền KTTT từ khi mới ra đời cho đến nay đã trải qua các giai đoạn
khác nhau, mỗi giai đoạn đều có những đặc điểm riêng. Trong các giai
đoạn đó đã từng có các nền KTTT theo định hướng này hay theo định
hướng khác. Cho đến khi nước ta đổi mới, nền kinh tế nước ta đã xác định
được một định hướng đúng đắn cho nền KTTT đó là định hướng XHCN.
KTTT định hướng XHCN theo quan điểm của Đảng ta là nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng XHCN. Về bản chất khác với KTTT tư bản
chủ nghĩa, nền KTTT định hướng XHCN là một nền kinh tế do nhân dân,
vì nhân dân, lấy đời sống nhân dân và cơng bằng xã hội làm mục tiêu trong
quá trình tăng trưởng kinh tế.
2.3. Ưu điểm của nền kinh tế thị trường
Đến đại hội lần thứ VIII (6/1996) trên cơ sở kế thừa những đường
lối, chủ trương đúng đắn về việc sử dụng KTTT do các đại hội trước đề ra,
đảng ta đã xác định rõ hơn vai trò của KTTT: cơ chế thị trường đã phát huy
tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Chẳng những
khơng đối lập mà cịn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây
dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN. Theo cơ chế thị
trường, mọi hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đều phải được
hạch toán một cách rõ ràng. Các thành phần kinh tế hoạt động theo phương
thức lãi hưởng, lỗ tự bù. Chính điều này đã kích thích các thành phần kinh
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
8
Lớp: QTKD - K41
Tiểu luận triết học
tế hăng hái hơn trong mọi hoạt độnh củ mình. Ưu điểm của kinh tế thị
trường thể hiện rõ ràng hơn bao giờ hết chính là ở thành tựu kinh tế mà
nhân dan ta đã đạt được trong nhưnhx năm vừa qua. Có thể nói việc chuển
sang cơ chế quản lý nền kinh tế theo định hướng thị trường là một tất yếu
khách quan.
2.4. Những hạn chế của kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường tuy có nhiều điểm mạnh nhưng bản thân nó vốn có
những giới hạn, những khuyết tật mang tính tự phát hết sức bướng bỉnh.
Hơn thế nữa, quan hệ thị trường còn là môi trường thuận lợi để phát sinh
nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội. Thực tế những năm qua cho thấy, tuy mới
áp dụng KTTT chưa được bao lâu mà bên cạnh những thành tựu, như làm
ăn thuần tuý chạy theo lợi nhuận dẫn đến các hình thức lừa đảo, hối lộ, trốn
thuế, nợ nần khó địi, thương mại hố một cách tràn lan, xâm nhập vào cả
các lĩnh vực dễ thương tổn như y tế, giáo dục, văn hoá,...làm cho giá trị đạo
đức, tinh thần bị băng hoại và xuống cấp, đồng thời đã chi phối nhiều quan
hệ giữa người với người; sự phân hoá giàu nghèo và bất cơng trong xã hội
có chiều hướng tăng lên; lối sống ích kỷ, thực dụng có nguy cơ ngày càng
tăng. Bởi vậy, đảng ta chỉ rõ: “Vận dụng các hình thức và phương pháp
quản lý nền KTTT là để sử dụng mặt tích cực của nó, phục vụ mục đích
xây dựng XHCN chứ không phải đi theo con đường TBCN”. [ Tạp chí triết
học số 4 (110), tháng 8 năm 1999].
2.5. Có thể thực hiện được kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa xã hội hay
không ?
Phải khẳng định rằng kinh tế thị trường hịan tồn có thể được thực
hiện dưới CNXH. Không nên đồng nhất KTTT với CNTB, bởi những lý do
sau đây:
Một là, kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của TBCN,
KTTT là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá và kinh tế hàng hoá
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
9
Lớp: QTKD - K41
Tiểu luận triết học
không phải do CNTB tạo ra mà là thành tựu văn minh mà loài người đã đạt
được trong quá trình phát triển sản xuất của cải xã hội.
Hai là, do KTTT là thể chế kinh tế vận hành, nó khơng phải là cơ sở
kinh tế của một chế độ xã hội. Cơ sở kinh tế của một chế độ xã hội là hệ
thống quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là chế độ sở hữu quyết định. Cơ
sở kinh tế của CNXH là hệ thống quan hệ sản xuất XHCN dựa trên chế độ
công hữu XHCN về tư liệu sản xuất.
Ba là: kinh tế thị trường và CNXH có thể dung hồ. Vấn đề căn bản
để hình thành KTTT là sự tồn tại những chủ thể kinh tế độc lập, tự chủ
trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng để họ có quyền ra quyết định phi
tập trung hố. Vì vậy, trong điều kiện chế động cơng hữu XHCN cũng có
thể thực hiện được chế độ kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, trong việc phát triển nền KTTT theo định hướng XHCN ở
nước ta hiện nay, làm thế nào để có thể giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội, rút ngắn khoảng cách phân hoá giàu
nghèo, giảm bớt thất nghiệp,...đang là vấn đề buộc các nhà quản lý phải
quan tâm.
2.6. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử vào quá trình xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam?
Trước tiên cần phải khẳng định rằng KTTT định hướng XHCN cũng
là một dạng vật chất. Nền kinh tế Việt Nam là một dạng vật chất xã hội
theo sự phân loại của triết học Mác-Lênin. Chính vì thế nền KTTT định
hướng XHCN Việt Nam cũng tồn tại, vận động và phát triển theo những
nguyên lý, quy luật của triết học Mác-Lênin, mà cụ thể là trong những điều
kiện không gian thời gian theo quan điểm lịch sử cụ thể.
Sự ra đời và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hơn 10
năm qua đã góp phần thay đổi bộ mặt đất nước, nâng cao đời sống nhân
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
10
Lớp: QTKD - K41
Tiểu luận triết học
dân. Tuy nhiên đó chưa phải là cái đích cuối cùng của Đảng ta và nhân dân
ta, bởi nền kinh tế nước ta vẫn còn chậm phát triển. Khi chúng ta vừa
chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, từ
một nền kinh tế yếu kém lạc hậu với hệ thống sản xuất, hệ thống quản lý
kinh tế với những cán bộ mang nặng tư tưởng ỷ lại sang nền KTTT năng
động, do đó khó có thể tránh khỏi những vấp váp sai lầm. Thêm nữa, thời
điểm chúng ta bắt đầu đổi mới, chuyển sang nền KTTT là quá muộn so với
các nước trên thế giới và khu vực khi mà các nước tư bản như Mỹ, Nhật,
Tây Âu,...đã tiến hành cơ chế thị trường và phát triển vượt xa ta mấy trăm
năm. Nhờ sử dụng triệt để KTTT, CNTB đã đạt được những thành tựu về
kinh tế - xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động,
quản lý xã hội đã đạt được những thành tựu về văn minh hành chính, văn
minh cơng cộng, con người nhậy cảm tinh tế với khả năng sáng tạo...và có
cả những tiêu cực: sự gay gắt dẫn đến tình trạng “cá lớn nuốt cá bé” sự
phân cách giàu nghèo ngày càng lớn, ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn
kiệt, tệ nạn xã hội...Tuy nhiên, là nước đi sau và theo CNXH, chúng ta có
cơ hội kế thừa và phát triển những thành tựu của nhân loại mà trước hết là
sử dụng văn minh cuả KTTT, loại bỏ những khuyết tật của nó để xây dựng
CNXH có hiệu quả hơn.
Chính vì những lẽ đó, chúng ta cần phải vận dụng quan điểm lịch sử
cụ thể vào việc nghiên cứu quá trình xây dựng nền KTTT định hướng
XHCN ở Việt Nam.
3. Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể
3.1. Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
3.1.1. Những điều kiện trong nước
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
11
Lớp: QTKD - K41
Tiểu luận triết học
Đầu tiên chúng ta cần tìm hiểu xuất phát điểm về kinh tế của nước ta
khi bắt đầu đổi mới. Bức tranh chung của kinh tế Việt Nam năm trước đổi
mới là tăng trưởng thấp 3,7%/năm, làm khơng đủ ăn và dựa vào nguồn viện
trợ bên ngồi ngày rất lớn. Thu nhập quốc dân trong nước, sản xuất chỉ đáp
ứng được 80-90% thu nhập quốc dân sử dụng. Đến năm 1985 tỷ trọng thu
từ bên ngoài chiếm 10,2% thu nhập quốc dân sử dụng, nợ nước ngoài lên
tới 8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ USD. Cũng vào các năm đó nền kinh tế rơi vào tình
trạng khủng khoảng trầm trọng, siêu lạm phát ở mức 774,7% vào năm
1986 kéo theo giá cả leo thang và vô phương kiểm soát.
Sự tàn phá của chiến tranh và nền kinh tế bao cấp yếu kém kéo dài
đã để lại nhiều hậu quả nặng nề: cơ sở vật chất thấp kém với nền KH - CN,
kỹ thuật lạc hậu, hầu hết các hệ thống máy móc trong các xí nghiệp đều do
Liên Xô cũ giúp đỡ từ trong chiến tranh nên năng suất thấp, chất lượng
kém. Hệ thống giao thông vận tải vốn không được tốt lại thêm bom đạn của
chiến tranh nên ngày càng xuống cấp. Công nghiệp, dịch vụ hầu như không
phát triển, chiếm tỷ trọng chưa đến 50% GDP. Bên cạnh đó cịn có một hậu
quả nặng nề khác là với cơ chế bao cấp phân phối bình quân, lợi ích của
mọi người đều như nhau dẫn đến việc không phát huy hết năng lực sáng tạo
của con người, lực lượng nhân tài ngày càng giảm sút, trình độ dân trí thấp
và đặc biệt nghiêm trọng là tư tưởng thụ động ỷ lại, thiếu tính năng động
quyết đốn ăn sâu trong người dân và tất cả các cán bộ trong hệ thống quản
lý kinh tế.
Điều kiện địa lý cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ
đến nền kinh tế. Về địa hình, nước ta trải dài trên nhiều vĩ tuyến, bề ngang
hẹp, địa hình phức tạp mang đậm nét của sự phân dị sâu sắc về điều kiện tự
nhiên, kinh tế, xã hội. Các đặc điểm này chi phối sự phân công lao động xã
hội theo lãnh thổ và phát triển các vùng kinh tế. Nằm ở Tây Thái Bình
Dương và Đơng Nam á, khu vực phát triển cao, ổn định, nơi cửa ngõ của
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
12
Lớp: QTKD - K41
Tiểu luận triết học
giao lưu quốc tế, Việt Nam có nhiều khả năng để phát triển nhiều loại hình
kinh tế khác nhau dựa trên những lợi thế về vận tải biển, dịch vụ viễn
thơng, du lịch… Tài ngun khống sản phân bố không đều trên các vùng,
ngay ở mỗi vùng cũng phân tán và thiếu đồng bộ không gắn với nhau gây
khó khăn cho việc khai thác sử dụng chúng và ảnh hưởng đến việc bố chí
kinh tế của các vùng. Về dân số, nước ta có dân số đơng, nguồn lao động
dồi dào nhưng phân bố cũng không đồng đều.
Đặc điểm ở cấp vĩ mô: do đất nước bị chia cắt lâu dài, giữa hai miền
Nam - Bắc còn có sự khác biệt khơng nhỏ hoặc khác biệt giữa các vùng,
các khu vực xa xôi hẻo lánh với những vùng có đơ thị tập trung.
Về chế độ chính trị: Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một trong
những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Theo các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh tế quyết định chính trị “ chính
trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị khơng phải là mục đích
mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế.” Trong tác phẩm
Lutuch Phviobac và sự các chung của triết học cổ điển Đức. Lênin đã chỉ
rõ: “để thoả mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử
dụng làm phương tiện đơn thuần.” Khẳng định đó của Lênin khơng có
nghĩa là phủ nhận vai trị quyết định của kinh tế đối với chính trị mà muốn
nhấn mạnh tác động của chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế khơng thể
tách rời vấn đề chính trị mà nó được xem xét giải quyết theo một lập
trường chính trị nhất định. Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế
và chính trị thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định của
kinh tế.
Sau khi miền Bắc giải phóng và từ sau năm 1975 thống nhất đất
nước, cả nước ta đã kiên quyết đi theo con đường XHCN - đây là lựa chọn
tất yếu và đúng đắn. Tuy nhiên, vì khơng qua giai đoạn TBCN, chúng ta đã
gặp nhiều khó khăn và bỡ ngỡ trong công cuộc xây dựng một hệ thống
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
13
Lớp: QTKD - K41
Tiểu luận triết học
chính trị vững mạnh. Thêm vào đó, khi ta đang trong tình trạng ban đầu của
cơng cuộc đổi mới, một giai đoạn quan trọng mà chính trị là yếu tố định
hướng dẫn đường thì CNXH ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu sụp đổ
hàng loạt đã gây nhiều hoang mang cho Đảng và nhân dân ta. Điều này
cũng chứng tỏ rằng đang có rất nhiều thế lực phản động khơng ngừng tìm
cách phá hoại, lật đổ chế độ CNXH ở nước ta.
Về văn hoá xã hội: Nói đến văn hố xã hội của một dân tộc là nói
đến bản sắc riêng có thể hiện trong những yếu tố cấu thành văn hố của dân
tộc đó. Theo định nghĩa được thừa nhận khá rộng rãi của UNESCO thì văn
hố là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của con người diễn ra
trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện đại. Qua hàng thế kỷ, các
hoạt động sáng tạo ấy đã cấu thành nên một hệ thống giá trị, truyền thống,
thị hiếu, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản
sắc riêng của mình. với chiều dài mấy ngàn năm lịch sử, nước ta có một
nền văn hoá lâu dài với các giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp. Các giá trị
tinh thần truyền thống vừa là kết quả vừa là cơ sở, động lực của quá trình
đấu tranh dựng nước, giữ nước và giao lưu văn hố lâu dài của dân tộc, góp
phần tạo dựng bản lĩnh dân tộc và nhân cách con người Việt Nam. Chủ
nghĩa u nước, lịng thương người, tinh thần đồn kết cộng đồng, đức tính
cần kiệm khiêm tốn, giản dị, thủy chung,...trong đó chủ nghĩa yêu nước là
cốt lõi của bản sắc văn hoá dân tộc, là giá trị cao nhất trong hệ thống giá trị
đạo đức của dân tộc, là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân ta...Với
bề dầy văn hố đó cùng với chế độ chính trị đúng đắn là CNXH, chúng ta
có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, nền KTTT
năng động và khắc nghiệt rất cần những nhà quản lý kinh tế tài giỏi, sáng
tạo, năng động thì chúng ta lại chưa có được. Nhân dân ta yêu nước, sẵn
sàng xả thân vì tổ quốc nhưng trong hoạt động kinh tế thì nhân dân ta vẫn
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
14
Lớp: QTKD - K41
Tiểu luận triết học
cịn thiếu tính năng động, thiếu tính quyết đoán, thiếu những phẩm chất rất
quan trọng của một nhà quản lý kinh tế.
3.1.2. Những điều kiện thế giới và khu vực
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, mặc dù thế giới cịn nhiều diễn
biến phức tạp nhưng hồ bình và hợp tác là xu thế chủ đạo, là đòi hỏi bức
xúc của các dân tộc và các quốc gia. Các cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ đạt được những bước tiến vượt bậc đặc biệt trong lĩnh vực tin học,
viễn thông, sinh học, vật liệu mới và năng lượng mới đang đẩy mạnh q
trình quốc tế hố cao độ các lực lượng sản xuất dẫn đến sự phân công lao
động quốc tế ngày càng sâu sắc. Như vậy có nghĩa là ngày nay, khơng một
nền kinh tế nào có thể đứng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế. Tình hình đó
địi hỏi một sự hợp tác ngày càng rộng tạo nên thế tuỳ thuộc lẫn nhau giữa
các nước dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển. Trong lịch sử phát
triển của xã hội có lẽ chưa bao giờ có một sự hợp tác để phát triển rộng rãi
đan xen lồng ghép và nhiều tầng lớp như hiện nay với sự hình thành nhiều
tổ chức kinh tế như ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á), WTO (tổ
chức thương mại thế giới) AFTA, EU,...
Đối với các khu vực, Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á,
Châu Á Thái Bình Dương, một khu vực được coi là có nền kinh tế năng
động và có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới trong những năm gần đây.
Hầu hết các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Inđônêsia đều đã
tiến hành nền KTTT được mấy thập kỷ và một số nước đã trở thành các
nước công nghiệp mới (NIC).
Như vậy thế giới và khu vực đã phát triển vượt ta khá xa về mọi mặt
đặc biệt là về kinh tế. Vì thế đã đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức trong
qúa trình phấn đấu xây dựng và cải tiến nền KTTT định hướng XHCN.
3.2. Thực trạng quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở
Việt Nam dưới tác động của những điều kiện cụ thể
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
15
Lớp: QTKD - K41
Tiểu luận triết học
3.2.1. Giai đoạn 1986 - 1991
Đây là giai đoạn đầu chúng ta chuyển sang nền KTTT. Do chưa nhận
thức được đầy đủ những yếu tố cụ thể ảnh hưởng đến nền kinh tế nên ta đã
có một số chính sách chưa đúng.
Một chính sách sai lầm trong giai đoạn này là tập trung cơng nghiệp
hố - hiện đại hố theo hướng ưu tiên cho cơng nghiệp nặng. Đây là một sai
lầm nghiêm trọng đã làm mất rất nhiều thời gian, tốn rất nhiều tiền bạc bởi
lúc này với xuất phát điểm và kinh tế rất thấp, cơ sở vật chất, cơng nghệ
cịn q lạc hậu thêm vào đó là thiếu vốn và thiếu đội ngũ các nhà khoa học
tài giỏi.
Trong khi đó ta có đầy đủ điều kiện để phát triển công nghiệp nhẹ.
Sự khéo léo cần cù của người dân Việt Nam, sự ưu đãi của thiên nhiên khí
hậu tạo nên một danh mục nơng sản đa dạng phong phú và nhiều loại hình
sản xuất hàng thủ cơng mỹ nghệ. Với những điều kiện đó ta hồn tồn có
thể phát triển những ngành cơng nghiệp nhẹ mà chỉ cần ít vốn như cơng
nghiệp chế biến thực phẩm, đồ mỹ nghệ,...
Chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhưng trong
giai đoạn này lượng hàng hoá của chúng ta cịn ít và chất lượng cịn chưa
tốt. Chính vì thế, hàng hố sản xuất ra khơng có sức cạnh tranh trên thị
trường vì số lượng hàng hố ít nên phần lớn vẫn phải nhập khẩu và chưa
xuất khẩu được hàng hoá ra thị trường thế giới.
Với điều kiện địa lý địa hình phức tạp, hệ thống giao thơng vận tải
yếu kém như trên chưa có những chính sách phát triển kinh tế phù hợp với
từng vùng, từng miền, chúng ta đã rơi vào tình trạng đầu tư phát triển kinh
tế tràn lan, không tập trung, gây nên sự bất hợp lý giữa các vùng.
Cơ cấu giữa các thành phần kinh tế cũng là một vấn đề đáng quan
tâm. Trong giai đoạn này các thành phần kinh tế mới như kinh tế tư bản tư
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
16
Lớp: QTKD - K41
Tiểu luận triết học
nhân, kinh tế tư bản Nhà nước chưa phát triển, chủ yếu vẫn là thành phần
kinh tế Nhà nước. Nguyên nhân của vấn đề này là do ta vẫn cịn chậm đổi
mới các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất đã có trong nền kinh tế bao cấp
cũ và chưa có được những chính sách phù hợp để kinh tế tư bản tư nhân và
tư bản Nhà nước phát triển.
Tóm lại, trong giai đoạn này mặc dù đã đạt được một số thành tựu,
nền kinh tế đã từng bước ổn định và phát triển, các cơn sốt do hậu quả của
cơ chế quan liêu bao cấp đã dần dà vơi đi nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn
chưa bước hẳn ra sự khủng hoảng của những năm trước đổimới.
3.2.2. Giai đoạn 1991 đến nay
Giai đoạn này, do đã dần điều chỉnh phù hợp với những điều kiện,
nhân tố cụ thể ảnh hưởng đến nền KTTT nên kinh tế Việt Nam đã đạt được
một số thành tựu đáng kể:
Điều đầu tiên cần nói đến là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tương
đối ổn định. Giai đoạn 1986 - 1990, GDP tăng trung bình 3,9% thì đến giai
đoạn nàyGDP tăng bình quân 8,2%. Cơ cấu giữa các thành phần kinh tế và
các ngành cũng hợp lý hơn. Hàng loạt các công ty, doanh nghiệp tư nhân
hoạt động trong mọi lĩnh vực đã ra đời. Dịch vụ thương mại phát triển
tương đối mạnh đã tạo điều kiện cho việc sản xuất hàng hoá, làm cho số
lượng hàng hố phong phú hơn và chất lượng khơng ngừng được cải tiến.
Giao thông vận tải được chú trọng sửa chữa và xây mới nên hàng hoá đã
đến được các vùng sâu, vùng xa và miền núi.
Trước xu thế chủ đạo của thế giới là hợp tác để phát triển, Việt Nam
đã bước đầu hội nhập được với nền kinh tế thế giới bằng việc gia nhập các
tổ chức kinh tế ở khu vực cũng như thế giới như Asean (1995), afta (1996)
… và đặc biệt là việc ký kết hiệp định thương mại Việt Nam -Hoa Kỳ đã
mở ra rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc moẻ
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
17
Lớp: QTKD - K41
Tiểu luận triết học
rộnh thị trường tiêu thụ hàng hóa. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tiến tới
tham gia vào tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Một thành tựu quan trọng nữa là trong điều kiện nền kinh tế thế giới
với sự cạnh tranh rất khốc liệt gây ra sự phân cực giàu nghèo mạnh mẽ với
nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, Đảng ta kịp thời rút kinh
nghiệm và đã có những đường lối, chính sách định hướng cho nền kinh tế
phát triển theo đúng định hướng XHCN, hướng thị trường hàng hoá vào
ưũy đạo cạnh tranh lành mạnh cùng phát triển. Chính vì vậy nền KTTT của
ta chẳng những không xảy ra khủng hoảng mà còn tránh được ảnh hưởng
tiêu cực từ những cuộc khủng hoảng kinh tế ở các nước trong khu vực và
thế giới mà cụ thể là cuộc khủng hoảng tiền tệ vào năm 1997. Tuy nhiên
nền kinh tế nước ta so với khu vực và thế giới vẫn là một nền kinh tế kém
phát triển, cần có nhiều biện pháp để phát triển theo kịp các quốc gia khác.
KTTT đã ra đời và phát triển qua nhiều gia đoạn và cho đến bây giờ
nó vẫn là kiểu kinh tế xã hội tiến bộ nhất. Trải qua các giai đoạn phát triển,
KTTT ngày càng được hoàn thiện và được áp dụng trên nhiều quốc gia.
Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam mặc dù mới ra đời cách đây
hơn một thập kỷ nhưng cũng đã trải qua nhiều thăng trầm, không ngừng
vận động và luôn biến đổi dưới sự tác động của nhiều yếu tố cả bên ngoài
lẫn bên trong bản thân nền kinh tế. Các yếu tố này vừa không ngừng có ảnh
hưởng đến sự phát triển của nền KTTT vừa chịu sự tác động của chính nền
KTTT đó. Như vậy, trải qua mỗi giai đoạn lại hình thành nên những yếu tố
mới khiến cho công cuộc xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng
XHCN Việt Nam ngày càng phức tạp, địi hỏi phải có sự phân tích kỹ
lưỡng chi tiết kịp thời từng yếu tố. Chính vì vậy quan điểm lịch sử cụ thể
luôn là quan điểm gắn liền với quá trình xây dựng nền KTTT định hướng
XHCN Việt Nam.
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
18
Lớp: QTKD - K41
Tiểu luận triết học
4. Một số giải pháp nhằm xây dựng nền KTTT theo định hướng
XHCN
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang từng bước xây dựng cơ sở
vật chất để đẩy mạnh quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN
nhanh chóng đưa đất nước trở thành nước cơng nghiệp hóa hiện đại hóa.
Và việc nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng để tìm ra các giải pháp
nhằm khắc phục những mặt yếu kém phát huy những mặt mạnh đang là vấn
đề bức thiết. Cụ thể :
Đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi. Trước mắt
cần tiếp tục cải tiến hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài với những
qui định rõ ràng thông suốt và đơn giản. Về lâu dài cần tiến tới xây dựng
một hành lang pháp lý chung cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như
trong nước để tạo một sân chơi bình đẳng.
Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nước.
Trong lĩnh vực này, huy động tiết kiệm là mục tiêu hàng đầu, từ đó sẽ phát
huy được hết các nguồn nội lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tiếp tục cân đối lại các thành phần kinh tế và các ngành; chú trọng
phát triển kinh tế giữa các vùng hợp lý hơn. Tăng cường hội nhập hợp tác
với các nền kinh tế trong khu vực và thế giới; giữ vững vai trị của Nhà
nước trong việc điều tiết vĩ mơ, định hướng nền KTTT theo định hướng
XHCN, lấy công bằng xã hội làm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, bảo đảm
nguồn nhân lực thông qua hệ thống giáo dục đào tạo, bảo đảm y tế, nâng
cao trình độ văn hố cho người lao động. Giữ vững an ninh, trật tự xã hội,
củng cố sự nghiệp quốc phòng an ninh nhằm ngăn chặn mọi thế lực phản
động phá hoại trong và ngoài nước; Tích cực cải tạo xã hội, xố bỏ các tệ
nạn xã hội như tham nhũng, nghiện hút, mại dâm, ma tuý, hạn chế ô nhiễm
môi trường, giữ vững sự cân bằng sinh thái. Muốn vậy cần nâng cao nhận
thức con người trong việc bảo vệ giữ gìn cuộc sống của chính họ; vận dụng
sáng tạo, khơng rập khn các mơ hình KTTT trên thế giới; Có phương
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
19
Lớp: QTKD - K41
Tiểu luận triết học
hướng kết hợp định hướng XHCN với tăng trưởng kinh tế trong những năm
tới.
KẾT LUẬN
Với việc áp dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào công cuộc đổi mới
kinh tế ở Việt Nam, chúng ta đã có được một nền kinh tế thị trường năng
động, một nền kinh tế theo định hướng XHCN với những thành tựu hết sức
to lớn: Nhịp độ bình quân hàng năm về sản phẩm quốc nội trong 5 năm
1991 -1995 là 8,5%, nhịp độ tăng bình quân hàng năm về sản xuất công
nghiệp là 13,3%, sản xuất nông nghiệp là 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%.
Cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi tích cực: tỷ trọng cơng nghiệp và xây
dựng trong GDP từ 22,7% năm 1990 lên 30,3% năm 1995, tỷ trọng dịch vụ
từ 38,6% lên 41,5%. Bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Vốn đầu tư
cơ bản toàn xã hội tăng từ 15,8% GDP năm 1990 lên 27,7% năm 1995.
Lạm phát bị đẩy lùi từ 67,1% năm 1991 xuống 12,4% đầu năm 1995. Quan
hệ sản xuất được điều chỉnhphù hợp hơn với yêu cầu của lực lượng sản
xuất. Số hộ có thu nhập trung bình số hộ giàu tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn
những hạn chế nhất định, đất nước ta vẫn còn chậm phát triển so với khu
vực và thế giới. Chúng ta cần phải áp dụng các giải pháp hợp lý để cải
thiện tình hình, đặc biệt chú trọng đến sự vận dụng đến sự vận dụng sáng
tạo để có được một nền KTTT hồn chỉnh, phát huy hết tính ưu việt của nó
và tránh được những sai lầm của nền KTTT của các quốc gia khác.
Từng bước thực hiện các giải pháp để đề ra, Việt Nam sẽ có thêm tự
tin bước vào thế kỷ 21 với những thách thức mới, cơ hội mới. Nền KTTT
định hướng XHCN Việt Nam sẽ ngày càng phát triển ổn định và nhanh
chóng đuổi kịp trình độ của thế giới, trở thành một nước công nghiệp phát
triển trong tương lai không xa.
Nguyễn Thị Thu Thuỷ
20
Lớp: QTKD - K41