Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Quyền của người bào chữa từ thực tiễn tại thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (971.83 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HẰNG

QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH

LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI - 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HẰNG

QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐINH THỊ MAI

HÀ NỘI - 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác
giả. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học, kiến
nghị và đề xuất của luận văn này chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN THỊ HẰNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...............................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP VỀ
QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA ..................................................................5
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa về quyền của người bào chữa .............5
1.2. Cơ sở quy định về người bào chữa và quyền của người bào chữa trong
tố tụng hình sự .............................................................................................14
1.3. Lịch sử lập pháp về quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự
Việt Nam ......................................................................................................19
1.4. Kinh nghiệm lập pháp về quyền của người bào chữa trong tố tụng hình
sự của một số nước ......................................................................................21
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH ...............28
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về quyền
của người bào chữa .....................................................................................28
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật để thực hiện quyền bào chữa trong giai
đoạn xét xử vụ án hình sự ở thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh ...............45
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỤC
HIỆN QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI THÀNH PHỐ TÂY NINH,

TỈNH TÂY NINH ...............................................................................................60
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của người bào chữa tại
thành phố Tây Ninh .....................................................................................60
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện một số quyền của người bào
chữa tại thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh ...............................................64
KẾT LUẬN .........................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................79


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQTHTT

: Cơ quan tiến hành tố tụng

HĐXX

: Hội đồng xét xử

NBC

: Người bào chữa


TA

: Tòa án

TAND

: Tòa án nhân dân

THTT

: Tiến hành tố tụng

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

VAHS

: Vụ án hình sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND


: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN, hiện nay Nhà nước
Việt Nam đang xây dựng hệ thống pháp luật để ngày càng hoàn thiện và phù hợp
với luật pháp quốc tế nhằm bảo vệ các quyền con người và làm căn cứ điều
chỉnh các quan hệ xã hội. Điều 14 của Hiến pháp năm 2013 có quy định: “Ở
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền cơng
dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được cơng nhận, tơn trọng, bảo
vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Việc bảo vệ quyền con người muốn
được thực hiện nhất quán đòi hỏi phải được pháp luật quy định trong mọi lĩnh
vực đời sống xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực mà quyền con người có nguy cơ bị
xâm phạm nhiều nhất là trong TTHS. Tại Điều 103 của Hiến pháp năm 2013 còn
ghi nhận: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp
của đương sự được bảo đảm”.
Điều 16 BLTTHS 2015 có ghi nhận: “Người bị buộc tội có quyền tự bào
chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa; Cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng có trách nhiệm thơng báo, giải thích và bảo đảm cho người bị
buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích
hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”. Nội dung của quy định này
nhằm bảo vệ đầy đủ các quyền và các lợi ích hợp pháp của bị cáo trong TTHS và
đảm bảo nguyên tắc: “Khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của
Tòa án”. Đây cũng là nội dung liên quan đến chủ trương và chiến lược của Đảng
ta thể hiện trong Nghị quyết số: 49/NQ-TW ngày 02/6/2005, Nghị quyết số:

08/NQ-TW ngày 02/01/20012 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020; với việc thực hiện các chủ trương và triển khai các nhiệm vụ cải
cách tư pháp mà một trong các nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp đến năm
2020 được xác định là phải đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, nâng cao chất
lượng tranh tụng tại các phiên tịa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn và
trách nhiệm của người THTT, người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính
dân chủ, cơng khai, nghiêm minh, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư
1


pháp.
Pháp luật TTHS đã có các quy định khá chặt chẽ về quyền bào chữa của
người bị buộc tội, nhưng trên thực tế trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh Tây
Ninh nói chung và địa bàn thành phố Tây Ninh nói riêng, việc thực hiện quyền
bào chữa chưa được CQTHTT thật sự tôn trọng và bảo đảm thực hiện, cịn nhiều
khó khăn, hạn chế; đặc biệt là trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, giai
đoạn mà quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo có nguy cơ bị xâm hại nhiều nhất.
Nhằm giảm bớt và dần loại trừ những bất cập, khó khăn, vướng mắc nói trên để
từng bước thực hiện tốt quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS
dựa trên tinh thần cải cách tư pháp, việc hoàn thiện các quy định trong TTHS sẽ
góp phần vào việc bảo đảm dân chủ trong hoạt động xét xử của Tòa án, bảo đảm
quyền con người trong hoạt động tư pháp, tạo cơ hội cho bị cáo có thể tiếp cận
với cơng lý. Vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài: “Quyền của người bào chữa
từ thực tiễn tại thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh” làm Luận văn tốt nghiệp
thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta đã có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến quyền bào
chữa, chức năng bào chữa như: Luận án tiến sĩ luật học: “Bảo đảm quyền bào
chữa của người bị buộc tội, so sánh giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và
Mỹ” của Lương Thị Mỹ Quỳnh; luận văn thạc sĩ: “Các chức năng tố tụng cơ bản

trong tố tụng hình sự” của Lê Tiến Châu; Luận văn thạc sĩ “Vai trò của luật sư
bào chữa trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự” của Nguyễn Cảnh Tuyến; Luận
văn thạc sỹ: “Quyền của người bào chữa” của tác giả Nguyễn Thành Công, luận
văn thạc sĩ: “Người bào chữa trong tố tụng hình sự” của Trần Văn Bảy và một số
bài viết: “Người bào chữa trong vụ án hình sự” của Nguyễn Mai Bộ, bài viết:
Quyền bào chữa của người bị buộc tội theo BLTTHS 2015 của thạc sĩ, NCS Tôn
Thiện Phương, bài viết: “Các chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử trong tố tụng
hình sự” của Hoàng Thị Sơn …
Nội dung của các đề tài, bài viết đã đi sâu phân tích, nghiên cứu các quy
định của pháp luật về nhiều khía cạnh của quyền của người bào chữa, chức năng
2


bào chữa trong pháp luật TTHS nhưng lại mang tính khái quát, giàn trải toàn bộ
các giai đoạn của quá trình tố tụng hoặc chỉ là một giai đoạn như giai đoạn điều
tra, riêng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án, đặc biệt là từ thực tiễn tại thành
phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh thì chưa có cơng trình nghiên cứu nào.
Trong thực tế, những cơng trình khoa học nghiên cứu nêu trên phần nào
đã là nguồn tài liệu tham khảo để tác giả tham khảo và kế thừa có chọn lọc trong
q trình nghiên cứu cũng như việc đánh giá số liệu thực tế để hoàn thành luận
văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu những vấn đề mang tính khái quát, nhận thức chung
về quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn
thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh; phân tích, đánh giá những quy định của
pháp luật về quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quy
định trong pháp luật TTHS Việt Nam và tìm hiểu thực tiễn áp dụng, để tìm ra
những vấn đề vướng mắc, bất cập những quy định chưa phù hợp. Để trên cơ sở
đó, đề ra những giải pháp, kiến nghị hồn thiện pháp luật cho việc áp dụng
những quy định pháp luật về bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ

thẩm VAHS có hiệu quả trên thực tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quyền của người bào chữa và những
đảm bảo về quyền của người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS.
Phạm vi nghiên cứu đề tài: đề tài chỉ tập trung về quyền của người bào
chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS mà không tập trung đến quyền của
người bào chữa ở các giai đoạn khác trong TTHS. Cơ sở thực tiễn của đề tài
được đánh giá tại thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh, giai đoạn từ năm 2015 đến
năm 2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương,
đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật, chủ trương cải cách tư pháp của Nhà
3


nước và đặc biệt là quyền con người luôn được pháp luật bảo vệ.
Để thu thập và xử lý thông tin, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau: phân tích, tổng hợp, so sánh. Các phương pháp nghiên cứu thực
tiễn cũng được sử dụng như: phương pháp thống kê, phương pháp nghiên cứu vụ
án điển hình nhằm góp phần làm rõ những vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đây là cơng trình nghiên cứu về quyền của người bào chữa từ thực tiễn tại
địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Luận văn góp phần vào việc hồn
thiện hơn về lý luận trong việc thực hiện quyền của người bào chữa và những
bảo đảm về quyền của người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự, từ đó làm căn cứ để đề xuất bổ sung về quyền của người bào chữa nhằm mục
đích bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo có
giá trị đối với người thực hiện quyền bào chữa trong TTHS nói chung và người

thực hiện quyền bào chữa trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh nói
riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
danh mục từ viết tắt, phần nội dung luận văn được cấu trúc thành ba chương như
sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và lịch sử lập pháp về quyền của người
bào chữa.
Chương 2: Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
hiện hành về quyền của người bào chữa và thực tiễn thực hiện tại thành phố Tây
Ninh, tỉnh Tây Ninh.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của
người bào chữa tại thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.

4


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ
LẬP PHÁP VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa về quyền của người bào chữa
1.1.1. Khái niệm người bào chữa và quyền của người bào chữa
1.1.1.1. Khái niệm người bào chữa
Trong một nền tư pháp dân chủ, khi mà các giá trị quyền con người được
tơn vinh và là đích đến của tồn bộ hệ thống tư pháp thì hoạt động bào chữa với
sứ mệnh là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, bảo vệ công
lý, công bằng xã hội được xem là một đại lượng để đánh giá uy tín và chất lượng
của nền tư pháp đó. Hoạt động bào chữa là toàn bộ những hành vi tố tụng được
pháp luật TTHS quy định do người bị buộc tội và NBC thực hiện, xác định sự vô
tội của người bị buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ, bảo đảm

quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và góp phần xác định sự thật vụ
án.
Xét về mặt lý luận và thực tiễn thì sự tham gia của NBC trong hoạt
động TTHS là thật sự cần thiết vì sẽ giúp CQTHTT dễ dàng làm rõ sự thật
của vụ án, đảm bảo khách quan và tránh oan sai. Người bị buộc tội luôn ở
trong tình trạng bị động về các thủ tục tố tụng, tâm lý hoang mang, lo sợ về số
phận pháp lý của mình. Họ thường là người bị hạn chế về kiến thức pháp luật,
thiếu kinh nghiệm trong các hoạt động tố tụng. Bên buộc tội gồm các
CQTHTT và NTHTT là những chủ thể đặc biệt, được Pháp luật trao quyền rất
lớn để tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử theo quy định. Bản
thân các chủ thể này được đào tạo bài bản, có kiến thức pháp luật vững chắc,
có chun mơn, kinh nghiệm trong xử lý tội phạm. Đa số những người bị
buộc tội ít có kiến thức về pháp luật và bị áp dụng một trong những biện pháp
ngăn chặn nhất định, bị hạn chế một số quyền, … nên tâm lý của họ luôn
hoang mang, lo sợ. Vì thế sự hiện diện của NBC để giúp cho người bị buộc
tội là một đòi hỏi tất yếu khách quan, tạo thế cân bằng trong TTHS.
NBC hay bào chữa viên là thuật ngữ chỉ về những người có kiến thức
5


pháp luật và kinh nghiệm hoạt động tố tụng thay mặt người bị buộc tội tham gia
tố tụng trong vụ án hình sự để biện hộ, bảo vệ cho thân chủ của mình để chống
lại sự buộc tội, truy tố hoặc tố cáo, giúp làm giảm trách nhiệm hình sự cho thân
chủ của họ đồng thời cũng có thể giúp cơ quan có chức năng làm sáng tỏ các
tình tiết vụ án, họ có quyền tranh tụng với các chủ thể khác trong quá trình xử lý
vụ án hình sự. Theo quy định của pháp luật, NBC có thể là luật sư, người đại
diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân, trợ giúp viên pháp lý.
Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về người bào chữa.
Các nhà khoa học của Trường Đại học Luật Hà Nội thì quan niệm “Người
bào chữa là người tham gia tố tụng với trách nhiệm bảo vệ lợi ích hợp pháp của bị

can, bị cáo, họ được phép sử dụng mọi phương tiện do luật định để bào chữa cho
bị can, bị cáo về mặt pháp lý để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.
Theo ý kiến của GS.TS. Võ Khánh Vinh thì “Người bào chữa là người
tham gia tố tụng với mục đích làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án nhằm chứng
minh sự vơ tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giam, bị can,
bị cáo và giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý cần thiết”.
Giải thích về thuật ngữ pháp lý của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng “Người
bào chữa là người được bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của bị can,
bị cáo mời hoặc do Viện kiểm sát, Toà án chỉ định để bào chữa và có những giúp
đỡ cần thiết cho bị can, bị cáo về mặt pháp lý”.
Các nhà khoa học của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thì
khái niệm người bào chữa theo Quy định của BLTTHS năm 2015 “Người bào
chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa”.
Từ các quan điểm về NBC của các nhà khoa học, tác giả nhận thấy có
điểm chung đó là NBC chỉ là người tham gia TTHS. Thuật ngữ “tham gia” nói
lên tính chất, vai trị của NBC, họ tham gia dù dưới hình thức nào (được mời hay
được cử) thì vẫn nhằm mục đích chứng minh sự vơ tội hoặc làm giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của người bị buộc tội và giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý
6


nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ đồng thời góp phần bảo vệ pháp
chế XHCN. NBC chỉ thực hiện nghĩa vụ của mình trong hoạt động tố tụng, họ
khơng có quyền và lợi ích liên quan trong vụ án.
BLTTHS năm 2015 quy định những người tham gia tố tụng với tư cách là
NBC bao gồm: Luật sư; Người đại diện của người bị buộc tội; Bào chữa viên
nhân dân; Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối
tượng trợ giúp pháp lý.

Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của
Luật luật sư. Quy định này nhằm bảo đảm tính chuyên nghiệp của luật sư, phịng
ngừa tình trạng những người khơng có đủ tiêu chuẩn, điều kiện vẫn tham gia tố
tụng như luật sư, góp phần tăng cường quản lý về hành nghề luật sư.
Người đại diện của người bị buộc tội là một khái niệm tương đối mới chưa
được đề cập nhiều trong khoa học pháp lý. Tuy nhiên, nếu xét ở góc độ dân sự
thì người đại diện là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực pháp luật và
năng lực hành vi dân sự và có đủ điều kiện làm người đại diện theo quy định tại
các Điều 134, 135 và 136 Bộ luật Dân sự năm 2015. Khác với luật sư, người đại
diện chủ động thực hiện chức năng bào chữa mà khơng cần có đề nghị hoặc yêu
cầu từ người bị buộc tội hoặc họ cũng có thể chủ động lựa chọn NBC.
Bào chữa viên nhân dân: là NBC được Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các tổ chức thành viên của mặt trận tổ quốc cử ra để bào chữa cho người bị buộc
tội là thành viên của tổ chức này. Nghị quyết số 03/NQ – HĐTP ngày 02/10/2004
của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn một người được coi là bào chữa
viên nhân dân khi người đó được Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức
thành viên của Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam cử ra bào chữa cho thành viên
của tổ chức mình. Mặc dù BLTTHS thừa nhận về hoạt động bào chữa của NBC là
bào chữa viên nhân dân nhưng trong thực tế hầu như bào chữa viên nhân dân
không tham gia tố tụng để thực hiện quyền bào chữa cho người bị buộc tội. Kiến
thức về pháp luật TTHS và kinh nghiệm của bào chữa viên nhân dân cịn hạn chế
nên chưa có hiệu quả trong việc bào chữa, từ đó nhận thức về NBC ln là luật sư.

7


Trợ giúp viên pháp lý: là một trong những chủ thể tham gia tố tụng hình sự
bắt đầu ngay từ giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm đến khi kết thúc việc
xét xử với tư cách là người bào chữa; Người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự. Hoạt động của

trợ giúp viên pháp lý trong TTHS mang tính đặc thù bởi đây là chủ thể đại diện
để thực thi trách nhiệm cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí của Nhà nước đối với
nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội.
Từ những nhận định, phân tích về NBC cũng như quy định NBC theo
BLTTHS năm 2015, tác giả có thể đưa ra khái niệm NBC trong TTHS như sau:
Người bào chữa trong tố tụng hình sự là luật sư, người đại diện của người
bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân, hoặc trợ giúp viên pháp lý được người bị
buộc tội nhờ bào chữa hoặc do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ
định tham gia tố tụng để chứng minh sự vơ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của người bị buộc tội và giúp đỡ người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ..
1.1.1.2. Khái niệm quyền của người bào chữa
Theo từ điển Tiếng Việt, “quyền” là điều mà pháp luật hoặc xã hội công
nhận, cho được hưởng, được làm, được địi hỏi. Theo giải thích này có thể hiểu,
“quyền” là khả năng thực hiện ý chí của cá nhân được pháp luật, xã hội hoặc lẽ
phải chấp nhận. Mở rộng hơn, “quyền lợi” là điều mà pháp luật và xã hội cho
phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành, có thể địi hỏi nếu thiếu hoặc bị tước đoạt.
Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý thì “Quyền là khái niệm
khoa học pháp lý dùng để chỉ những điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo
thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân được hưởng, được làm,
được địi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn chế. Dấu hiệu đặc trưng nhất của
quyền là phải có sự ghi nhận về mặt pháp lý và được bảo đảm thực hiện bởi các
quy định của pháp luật; thứ hai là phải có sự thừa nhận về mặt xã hội, gắn liền
với chủ thể, cá nhân, được thể hiện cụ thể trong thực tế đời sống thông qua các
quan hệ xã hội cụ thể của cá nhân trong một cộng đồng nhất định. Theo đó, quyền
của cá nhân được phát sinh tăng hay giảm tuỳ theo từng thời điểm của quá trình
8


tồn tại và phát triển của xã hội …”. Dựa trên khái niệm về quyền trong khoa học

pháp lý thì quyền bào chữa là một trong những chế định quan trọng, vừa mang
tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao. Trong TTHS quyền bào chữa thuộc về
người bị buộc tội, pháp luật cho phép họ sử dụng các biện pháp hợp pháp để tự
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Quyền bào chữa của người bị buộc tội
được thực hiện dưới hai hình thức “tự bào chữa” và “nhờ người khác bào chữa”.
Trên thực tế, hầu hết người bị buộc tội đều bị sức ép tâm lý từ phía bị hại và gia
đình của bị hại, từ dư luận xã hội, từ NTHTT. Họ luôn trong trạng thái bất an, ít
hiểu biết về pháp luật đồng thời khi bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng
thì người bị buộc tội khó có thể tự mình thực hiện quyền bào chữa. Do đó, việc
người bị buộc tội nhờ người có kiến thức pháp lý, có thể thay mặt mình tham gia
vào quá trình tranh tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình là nhu
cầu thiết yếu. Với sự am hiểu pháp luật, NBC góp phần đưa ra những lý lẽ và
chứng cứ mang tính phản biện nội dung buộc tội, giúp các CQTHTT phát hiện ra
những sai lầm, thiếu sót (nếu có), kịp thời khắc phục trong q trình giải quyết vụ
án hình sự. Tuy nhiên cần khẳng định rằng nhiệm vụ chính của NBC là gỡ tội, là
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, nhưng nhiệm vụ của NBC
đối với người bị buộc tội là nhiệm vụ có giới hạn, có điều kiện đó là phải tuân thủ
theo pháp chế XHCN. Điều này có nghĩa NBC tham gia tố tụng tương đối độc lập
với ý muốn chủ quan của người bị buộc tội; NBC chỉ căn cứ vào các quy định của
pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, NBC khơng có
nghĩa vụ phải bào chữa theo yêu cầu của người bị buộc tội nếu những yêu cầu đó
khơng có căn cứ, trái pháp luật.
Để NBC có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và bảo vệ pháp chế XHCN, pháp luật
TTHS đã quy định cho NBC có quyền pháp lý nhất định. Các quyền này được
thực hiện phụ thuộc vào ý chí của NBC, khơng bắt buộc và được đảm bảo thực
hiện mà không bị ngăn cản hay hạn chế bởi các chủ thể khác trong quá trình tố
tụng.

9



Dựa vào những phân tích trên, tác giả có thể đưa ra khái niệm quyền của
NBC như sau: Quyền của NBC là những quyền mà pháp luật quy định và đảm
bảo thực hiện đối với NBC, theo đó NBC được hưởng, được làm và được thực
hiện các quyền đó trong hoạt động gỡ tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị buộc tội và bảo vệ pháp chế XNCN.
1.1.2. Đặc điểm quyền của người bào chữa
Trong TTHS chức năng bào chữa là một trong những chức năng tố tụng
cơ bản, góp phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ sự thật, đảm bảo việc xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Chức năng bào chữa chỉ nhằm chống lại sự
buộc tội thiếu căn cứ, mang tính áp đặt chứ khơng nhằm mục đích chống lại sự
buộc tội có căn cứ và hợp pháp. Do đó, NBC phải hiểu và chấp hành nghiêm các
pháp luật trong quá trình thực hiện chức năng bào chữa của mình.
Thứ nhất, quyền của NBC được quy định trong Hiến pháp, pháp luật
TTHS Việt Nam và các luật liên quan:
NBC thực hiện công việc bào chữa của mình trên cơ sở các quy định của
pháp luật. Quyền của NBC phụ thuộc vào từng loại mơ hình TTHS. Mơ hình
TTHS khác nhau sẽ quy định quyền và nghĩa vụ của NBC cũng khác nhau, vì
quyền của NBC được pháp luật quy định phải phù hợp với mơ hình tố tụng thì khi
đó các quy định được áp dụng trên thực tiễn mới trở nên thiết thực và phù hợp,
không mâu thuẫn với quyền của các chủ thể khác, phát huy triệt để chức năng gỡ
tội, đảm bảo công bằng trong hoạt động TTHS và bảo đảm pháp chế XHCN.
Trong Hiến pháp, quyền của người bào chữa được quy định gián tiếp
thông qua các chế định về Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi
ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm (Khoản 7, Điều 103 Hiến pháp 2013)
và Khoản 4, Điều 31: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
Trong Bộ luật TTHS, liên quan đến người bào chữa và quyền của người
bào chữa được quy định tại 29 điều luật khác nhau/ trên tổng số 510 điều luật.

NBC và quyền bào chữa có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất biện chứng
với nhau. Tư cách NBC không tự nhiên hình thành mà nó xuất phát từ quyền bào
10


chữa của người bị buộc tội, ngược lại NBC lại là cơ sở bảo đảm thực hiện tốt
nhất quyền bào chữa của người bị buộc tội. Đồng thời quyền bào chữa cũng như
NBC cũng không thể thực hiện công việc của mình nếu như pháp luật khơng ghi
nhận quyền cho NBC.
Khi tham gia vào hoạt động tố tụng, NBC không chỉ bảo vệ quyền lợi
của người bị buộc tội mà họ còn nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế
XHCN. Do đó, NBC phải tơn trọng sự thật khách quan trong quá trình bảo vệ
quyền lợi của người bị buộc tội. Hay nói cách khác, trong q trình bảo vệ
quyền lợi của người bị buộc tội thì NBC vừa phải tôn trọng sự thật khách quan,
vừa phải tôn trọng và chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật. Ngược lại,
muốn góp phần vào việc bảo vệ pháp chế XHCN thì phải làm tốt nhiệm vụ bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội trên cơ sở các quy định của
pháp luật. Khi nhận bào chữa cho người bị buộc tội, NBC cố gắng tập trung
năng lực và tâm huyết của mình để hồn thành trách nhiệm bào chữa. Họ có thể
sẵn sàng làm tất cả mọi việc để có thể bảo vệ lợi ích hợp pháp của thân chủ mình,
song điều này khơng có nghĩa NBC không bị giới hạn về quyền hạn hay hồn tồn
tự do làm bất cứ việc gì. Pháp luật TTHS Việt Nam quy định những điều NBC
không được phép làm nếu điều đó trái với pháp luật và đạo đức. NBC không được
phép hứa hẹn trước kết quả hoặc làm móp méo sự thật để trục lợi, khơng được lợi
dụng bào chữa để mơi giới hối lộ, kích động, xúi giục kiện tụng, cản trở hoạt động
của các cơ quan, tổ chức hoặc phỉ báng, xúc phạm đến chế độ, đến các CQTHTT,
NTHTT hoặc các cơ quan tổ chức khác có liên quan.
Ngồi Hiến pháp và Bộ luật TTHS, quyền của người bào chữa còn được
quy định cụ thể trong Luật Luật sư, Luật tạm giữ, tạm giam, và văn bản hướng
dẫn thi hành, các Nghị quyết và các văn bản pháp luật khác.

Với xu thế phát triển hiện nay, khi mà quyền con người, quyền công dân
ngày càng được quan tâm và bảo vệ, thì vấn đề oan sai trong hoạt động tố tụng
sẽ được hạn chế. Điều này đồng nghĩa bên cạnh việc nâng cao chất lượng xét xử
thì quyền của NBC cũng được pháp luật quy định mở rộng hơn, tạo điều kiện
thuận lợi để NBC tham gia vào các hoạt động TTHS góp phần bảo vệ quyền và
11


lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, bảo vệ sự thật khách quan của vụ án, góp
nâng cao tiến trình cải cách tư pháp đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, chính trị,
xã hội của đất nước.
Thứ hai, quyền của NBC được pháp luật bảo đảm thực hiện:
Sự tham gia của NBC trong TTHS là một biểu hiện cụ thể nhằm thực hiện
nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội, một trong những
nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTHS nhiều nước trên thế giới nói chung và
trong pháp luật TTHS Việt Nam nói riêng. Điểm b và d Khoản 3 Điều 14 Cơng
ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên hiệp Quốc mà Việt
Nam là nước thành viên, quy định: Trong quá trình xét xử về một tội hình sự,
mọi người đều có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hồn tồn bình đẳng
những bảo đảm tối thiểu, trong đó có đủ thời gian và điều kiện thuận lợi để
chuẩn bị bào chữa và liên hệ với NBC do chính mình lựa chọn.
Chủ trương nâng cao vị trí, vai trị của NBC, đảm bảo các quyền và nghĩa
vụ của NBC, người bị buộc tội trong các giai đoạn tố tụng hình sự được thể hiện
trong các Nghị quyết của Đảng và Hiến pháp năm 2013 chính là nền tảng cho
việc bảo đảm dân chủ hoá hoạt động tố tụng, tạo thế độc lập, bình đẳng với các
chủ thể có chức năng buộc tội. Nghĩa là quyền bào chữa ln được thực hiện khi
có việc buộc tội, nhưng quyền bào chữa phải được đảm bảo đúng theo quy định
nhằm làm rõ sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện. Hơn nữa chế độ bào
chữa trong TTHS giúp cho công tác xét xử được tiến hành tồn diện và khách
quan, xét xử được chính xác bảo đảm đúng người, đúng tội.

Để NBC thực thi được chức năng của mình, BLTTHS quy định rất cụ thể
vị trí, quyền và nghĩa vụ của NBC. Tuy nhiên chúng ta đều biết rằng trong một
quan hệ pháp luật thì quyền của chủ thể này là nghĩa vụ của chủ thể kia và ngược
lại. Do đó khi pháp luật quy định cho NBC quyền thì đồng thời cũng sẽ quy định
cho các chủ thể khác có liên quan như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán,
Thư ký toà án…nghĩa vụ tương ứng để đảm bảo cho việc thực hiện quyền của
NBC. Do đó, khi NBC thực hiện quyền của mình mà bị cản trở bởi các
CQTHTT hay người có thẩm quyền THTT làm ảnh hưởng đến việc bào chữa và
12


hiệu quả bào chữa thì NBC có quyền u cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cưỡng chế bằng quyền lực nhà nước đối với bên có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu
theo quyền của NBC được pháp luật cho phép. Đây là căn cứ quan trọng để
quyền của NBC được đảm bảo thực hiện.
1.1.3. Ý nghĩa quyền của người bào chữa
Quyền của NBC chính là các quyền năng mà pháp luật cho phép NBC
được thực hiện thông qua hoạt động bào chữa của mình. Trong tư pháp hình sự,
hoạt động bào chữa có ý nghĩa quan trọng về chính trị, xã hội và pháp lý.
Về mặt chính trị, thực hiện hoạt động bào chữa của NBC chính là nhằm
thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn đề
bảo đảm quyền con người, vấn đề cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp
quyền. Trong tiến trình cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam, trong hoạt động tố tụng địi hỏi phải đảm bảo tơn trọng pháp
luật, chống lại sự tuỳ tiện của những người có thẩm quyền, tăng cường tính
tranh tụng dân chủ, tạo khung pháp lý và điều kiện cần thiết khác để người bị
buộc tội và NBC thực hiện hoạt động bào chữa có hiệu quả. Ngược lại bằng
hoạt động bào chữa, NBC góp phần vào việc đảm bảo pháp chế, bảo đảm pháp
luật được tôn trọng và thực thi một cách nghiêm minh, bảo đảm quyền con
người trong TTHS.

Về mặt xã hội, hoạt động bào chữa của NBC góp phần bảo đảm cho công
lý được thực thi, bảo đảm công bằng trong TTHS, bảo đảm tốt nhất quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị buộc tội. Việc quy định quyền của NBC cịn thể hiện
tính nhân đạo của pháp luật trong TTHS, nhờ đó mà quyền bào chữa của người
bị buộc tội đạt hiệu quả cao nhất, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị buộc tội và hơn hết là bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư
pháp. Đồng thời hạn chế sự làm quyền của CQTHTT và NTHTT để không làm
oan người vô tội. Qua đó cũng cố lịng tin của người dân vào pháp luật, vào
CQTHTT, góp phần ổn định trật tự xã hội.
Về mặt pháp lý, hoạt động bào chữa của NBC là hoạt động cơ bản trong
TTHS nhằm thực hiện chức năng bào chữa. Quyền của NBC góp phần nâng cao
13


tính tranh tụng trong hoạt động TTHS, đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể
tham gia vào quá trình tố tụng. Việc quy định quyền cho NBC tạo điều kiện cho
họ có cơ hội gặp người bị buộc tội; tiếp cận hồ sơ vụ án; thu thập các tài liệu, đồ
vật liên quan đến vụ án; tham gia vào các hoạt động điều tra khác như: lấy lời
khai người làm chứng, người bị hại; đối chất giữa các bị can với nhau hay giữa
bị can và người làm chứng; nhận dạng; khám nhà; kê biên tài sản; khám nghiệm
hiện trường; thực nghiệm điều tra;… để NBC có điều kiện nắm bắt nội dung vụ
án một cách toàn diện, xác định được mấu chốt vụ án, từ đó có cách lập luận
quan điểm riêng của mình khi tranh luận tại phiên tồ. Hoạt động bào chữa góp
phần quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, kịp thời yêu
cầu sửa đổi, bổ sung hoặc kiến nghị các quyết định của CQTHTT để từ đó đảm
bảo việc giải quyết vụ án được cơng minh, tồn diện, đầy đủ, đúng pháp luật,
góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân, giáo dục ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm của nhân dân.
1.2. Cơ sở quy định về người bào chữa và quyền của người bào chữa trong

tố tụng hình sự
1.2.1. Cơ sở lý luận , pháp lý và thực tiễn.
Quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc nhờ người khác bào chữa của người
bị buộc tội là quyền Hiến định được ghi nhận đầu tiên tại điều 67 Hiến pháp năm
1946. Hiến pháp 2013, nền tảng cho việc bảo đảm dân chủ hóa hoạt động tố
tụng, tạo thế độc lập, bình đẳng giữa Luật sư với các chủ thể có chức năng buộc
tội. Hiến pháp 2013 khơng có điều luật quy định trực tiếp về quyền của người
bào chữa nhưng quy định gián tiếp qua quyền của người bị bắt, quyền của bị
can, bị cáo tại Khoản 7, Điều 103 và Khoản 4, Điều 31.
Người bào chữa phát sinh từ quyền bào chữa nhằm bảo vệ quyền con người,
quyền công dân bị xâm hại, điều đó đồng nghĩa rằng ở đâu có việc buộc tội thì ở đó
quyền bào chữa phải được thực hiện và tôn trọng nhằm chứng minh bị can, bị cáo
không phạm tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc miễn trách nhiệm hình sự. Trải

14


qua quá trình lập hiến hơn 70 năm, nguyên tắc này đã trở thành nền tảng xuyên suốt
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về Luật sư ở nước ta.
Ngồi ra, bảo đảm quyền bào chữa chính là bảo đảm quyền con người,
một trong những quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm được Hiến pháp ghi
nhận. Bảo đảm quyền bào chữa chính là bảo đảm quyền con người, tuy nhiên
quyền con người là khái niệm rất rộng, trong đó có quyền con người trong
TTHS. Đó là tất cả các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con
người bị tác động bởi hoạt động đặc thù mang tính đậm nét của quyền lực nhà
nước, đó là hoạt động TTHS. Pháp luật TTHS trong Nhà nước pháp quyền đòi
hỏi phải ưu tiên bảo vệ quyền con người trong phạm vi cân bằng giữa mục đích
làm rõ sự thật khách quan với việc khơng bỏ lọt tội phạm, không làm oan người
vô tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự trong giai đoạn
điều tra VAHS.

Người bị buộc tội có quyền có NBC được ghi nhận và đảm bảo hầu hết
trong các văn kiện pháp lý quốc tế và Công ước quốc tế về quyền con người mà
Việt Nam có tham gia.
Khoản 1 Điều 11, Tun ngơn tồn thế giới về quyền con người năm 1948
nêu rõ “Mọi người, nếu bị cáo buộc về hình sự, đều có quyền được coi là vô tội
cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật, tại một phiên toà xét
xử cơng khai, nơi người đó được bảo đảm những điều kiện cần thiết để bào chữa
cho mình”
Điều 14 Cơng ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị với nội dung: một
người bị cáo buộc về một hành vi phạm tội sẽ có quyền được có khoảng thời gian
hợp lý và các điều kiện đầy đủ để chuẩn bị cho việc bào chữa và có quyền trao đổi
với NBC do mình lựa chọn; có quyền tự bào chữa hoặc thơng qua NBC do mình
lựa chọn; trong trường hợp một người khơng có NBC thì cơ quan có thẩm quyền
THTT sẽ chỉ định NBC vì lợi ích chung của cơng lý, NBC sẽ được chỉ định miễn
phí nếu người bị buộc tội khơng có khả năng chi trả cho NBC.
Quyền có NBC cịn được bảo đảm bởi văn bản pháp lý quốc tế khác có liên
quan như Bộ các nguyên tắc cơ bản của Liên hợp quốc về vai trò của luật sư.
15



×