Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

(Luận văn thạc sĩ) thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ thuộc diện ban thường vụ huyện ủy quản lý tại huyện phú tân, tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.16 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HƯNG GIANG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH LUÂN CHUYỂN CÁN BỘ
THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY QUẢN LÝ
TẠI HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CƠNG

HÀ NỘI, 2021

Luan van


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HƯNG GIANG

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH LUÂN CHUYỂN CÁN BỘ
THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY QUẢN LÝ
TẠI HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH AN GIANG

Ngành: Chính sách công
Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HỒ NGỌC TRƯỜNG


HÀ NỘI, 2021

Luan van


Luan van


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ và công
tác cán bộ. Người khẳng định cán bộ là gốc của mọi công việc, huấn luyện cán bộ là
công việc gốc của Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ vững vàng về tư tưởng chính trị,
vừa hồng, vừa chuyên không chỉ dừng lại ở mong mỏi mà cịn chiếm vị trí rất quan
trọng trong lý luận và thực tiễn hoạt động chính trị của Hồ Chí Minh.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo: “Một dân
tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hơm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không
nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ
không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân" (Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb
Chính trị quốc gia, H.2000, t.12, tr.557). Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ, đảng viên

phải trở thành “đội tiên phong dũng cảm và bộ tham mưu sáng suốt của giai cấp vô
sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc” (Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb Chính trị
quốc gia, H.2000, t.11, tr.493-494) để lãnh đạo thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của

cách mạng trong điều kiện “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền cịn khó hơn”.
Đó là u cầu tự thân, là phương thức tồn tại của Đảng; là mong mỏi của nhân dân; là
yêu cầu của sự nghiệp cách mạng; là nghĩa cử thiêng liêng đối với thế hệ đi trước.
Sự nghiệp đổi mới đất nước là thử thách lớn đối với Đảng. Nó khơng chỉ diễn
ra từ sự thúc bách của thực tiễn khủng hoảng, mà còn từ trăn trở trọng trách của Đảng

đối với tiền đồ cách mạng. Với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, tồn dân, tồn
qn, cơng cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử, song vẫn cịn khơng ít khó khăn, thử thách, nguy cơ. Phát huy thành tựu, triệt tiêu
khó khăn, vượt qua thử thách, loại trừ nguy cơ là yêu cầu cấp thiết của cách mạng đặt
ra cho Đảng. Từ thực tiễn đổi mới, Đảng đề ra năm bài học lớn, trong đó “nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” được xem là nhiệm vụ then chốt.
Xây dựng đội ngũ cán bộ là vấn đề hệ trọng có tính chất “cốt tử” đối với cơng
tác xây dựng Đảng nói riêng, xây dựng hệ thống chính trị nói chung; qua đó, tác động
quyết định đến việc hoạch định và thực thi tất cả các chính sách khác trong tồn bộ
q trình cách mạng Việt Nam. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà
nước Việt Nam đã triển khai nhiều bước đi, biện pháp xây dựng đội ngũ cán bộ thông

1

Luan van


qua việc hoạch định và thực thi nhiều chính sách. Từ thực tiễn ấy, luân chuyển cán bộ
nổi lên như là một trong những chính sách lớn, nhằm thực hiện chủ trương đào tạo,
bồi dưỡng toàn diện và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ; tạo điều kiện cho cán bộ
trẻ, có triển vọng, cán bộ trong quy hoạch được rèn luyện thực tiễn; tạo nguồn cán bộ
lâu dài cho đất nước; tăng cường cán bộ cho các lĩnh vực và địa bàn cần thiết; khắc
phục tình trạng cục bộ trong cơng tác cán bộ, “khép kín” trong từng ngành, từng địa
phương, từng đơn vị.
Với nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của luân chuyển cán bộ, trên cơ sở
quán triệt sâu sắc các chủ trương của Trung ương, đặc biệt là Nghị quyết số 11NQ/TW ngày 25 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị khóa IX “Về việc luân chuyển
cán bộ lãnh đạo và quản lý” và Quy định số 98-QĐ/TW ngày 07 tháng 10 năm 2017
của Bộ Chính trị khóa XII “Về ln chuyển cán bộ”, Huyện ủy Phú Tân (An Giang)
đã lãnh đạo thực hiện công tác này một cách khẩn trương, nghiêm túc, có tính hệ
thống. Trong đó, việc ln chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản

lý được đẩy mạnh thực hiện, góp phần quan trọng vào xây dựng hệ thống chính trị,
nâng cao hiệu quả cơng tác của cán bộ lãnh đạo, quản lý, qua đó nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu tổ chức đảng cùng chính quyền cấp huyện và cấp cơ sở.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình thực hiện tinh gọn, sắp
xếp bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, thực hiện chính sách ln chuyển
nói riêng vẫn cịn một số khó khăn, như: công tác kiểm tra, giám sát trong triển khai,
thực hiện nghị quyết có lúc, có nơi cịn hình thức, chưa đi vào thực chất; sự lãnh đạo
của Ban Thường vụ có nơi, có lúc chưa theo kịp diễn biến của tình hình…
Phú Tân đang đứng trước những yêu cầu ngày càng to lớn trong quá trình xây
dựng và phát triển. Để đáp ứng tốt các yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra, Phú Tân phải có đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đạo đức tốt, năng lực giỏi, xứng đáng là “gốc của mọi
công việc”. Luân chuyển cán bộ vốn đã mang lại những hiệu quả trong thực tiễn cần
phải tiếp tục được đẩy mạnh với mức độ và chất lượng ngày càng cao hơn. Tổng kết
thực trạng và xây dựng các giải pháp để nâng cao chất lượng thực hiện chính sách
luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý góp phần quan
trọng thúc đẩy nhiệm vụ quan trọng đó.

2

Luan van


Xuất phát từ tính cấp thiết nêu trên, tơi chọn đề tài “Thực hiện chính sách
luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý tại huyện Phú
Tân, tỉnh An Giang” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách cơng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Luân chuyển cán bộ là một nội dung trong công tác cán bộ - vấn đề thu hút sự
quan tâm nghiên cứu của nhiều tổ chức, cá nhân. Ở Việt Nam, các nghiên cứu về luân
chuyển cán bộ xuất hiện nhiều trong thời kỳ đổi mới đất nước (từ 1986 đến nay), đặc
biệt trong khoảng hai thập niên gần đây. Hình thức của các nghiên cứu này cũng đa

dạng, từ những bài viết trên các tạp chí khoa học đến sách xuất bản, luận văn, luận
án, đề tài nghiên cứu khoa học, kỷ yếu hội thảo khoa học…
- Những vấn đề lý thuyết về luân chuyển cán bộ được phản ánh trong nội dung
của nhiều cơng trình/sản phẩm nghiên cứu khoa học:
+ Nguyễn Trọng Phúc trong bài viết "Lênin, Hồ Chí Minh nói về
vấn đề ln chuyển cán bộ” (Tạp chí Cộng sản, số 9, 2002), Trần Đình Huỳnh trong
bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về luân chuyển cán bộ” (Tạp chí Xây dựng Đảng, số
8, 2003), Nguyễn Tiến Nghĩa trong bài viết “V. I. Lênin về vấn đề cán bộ và cơng tác
cán bộ” (Tạp chí Cộng sản, số 7, 2018),… đã trình bày những quan điểm của các nhà
kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về luân chuyển cán bộ.
Luân chuyển cán bộ ở các nghiên cứu này được luận chứng tầm quan trọng, nội dung,
chủ thể và phương thức thực hiện từ góc nhìn của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Tác giả Nguyễn Trọng Phúc nêu quan điểm của Lênin về đề bạt cán bộ
gắn liền với luân chuyển cán bộ từ trung ương về địa phương qua nhiều tuyến; qua
đó, tác giả khuyến nghị tăng cường luân chuyển cán bộ làm công tác nghiên cứu,
giảng dạy lý luận ở Trung ương về các địa phương, và điều động cán bộ lãnh đạo,
quản lý có trình độ, năng lực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn ở các địa phương
về các cơ quan nghiên cứu, đào tạo lý luận ở Trung ương. Cùng nghiên cứu quan
điểm của Lênin, tác giả Nguyễn Tiến Nghĩa nêu rõ sự nhấn mạnh của lãnh tụ Cách
mạng tháng Mười về tầm quan trọng của bố trí cán bộ đúng người, đúng việc và yêu
cầu của luân chuyển: vừa giúp nâng cao tính chun mơn hóa, vừa giúp đa dạng hóa
năng lực của cán bộ; “sao cho khơng làm ảnh hưởng đến việc giới thiệu công tác với
những người mà vấn đề thuyên chuyển họ được bàn đến, và sao cho không ảnh

3

Luan van


hưởng đến công tác, nghĩa là chỉ tiến hành bằng cách nào để việc đảm nhiệm công tác

luôn luôn nằm trong tay những cán bộ hồn tồn am hiểu cơng việc chuyên môn và
bảo đảm thắng lợi cho công tác”. Nghiên cứu quan điểm của Hồ Chí Minh về luân
chuyển cán bộ, tác giả Trần Đình Huỳnh đã trình bày ở khía cạnh mục đích và
phương châm. Tác giả khái quát các mục đích chủ yếu của luân chuyển cán bộ được
Hồ Chí Minh nêu lên: (1) Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra; (2) Thông qua thực tiễn
để xây dựng cán bộ; (3) Phòng ngừa những hiện tượng tiêu cực trong hoạt động của
đội ngũ cán bộ. Về phương châm, theo tác giả, Hồ Chí Minh chỉ dẫn như sau: Phải
quang minh chính đại; khi giao nhiệm vụ mới cho cán bộ, tổ chức đảng phải chân
thành, thẳng thắn chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu của họ, động viên họ tự tin, gắng sức
làm tốt nhiệm vụ mới. Phải đảm bảo đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới, cán bộ
địa phương và cán bộ ở cơ quan Trung ương được luân chuyển về.
+ Một số cơng trình/sản phẩm khoa học khác đề cập những vấn đề lý thuyết
chung (không phải chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh) về luân chuyển
cán bộ từ những khái quát trong quá trình lịch sử và nhận thức của bản thân. Đó là
các nghiên cứu của: Bùi Đức Lại (2002), "Về luân chuyển cán bộ", Tạp chí Xây dựng
Đảng, (số 10); Trần Bạch Đằng (2005), "Vài suy nghĩ về luân chuyển cán bộ lãnh
đạo và quản lý", Tạp chí Cộng sản, (số 1); Phạm Quang Vịnh (2004), "Mối quan hệ
giữa luân chuyển với điều động, tăng cường cán bộ", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 7);
Chu Văn Thành (2004), Một số suy nghĩ về công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở nước ta, Kỷ yếu hội thảo khoa học: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
đánh giá, luân chuyển cán bộ ở nước ta hiện nay”, Hà Nội; Nguyễn Văn Sơn (2004),
Cơ sở khoa học và thực tiễn về xây dựng chế độ chính sách đối với cán bộ luân
chuyển và sau thời hạn luân chuyển, Kỷ yếu hội thảo khoa học: "Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về đánh giá, luân chuyển cán bộ ở nước ta hiện nay”, Hà Nội; Vũ
Minh Giang (2004), Vấn đề luân chuyển quan lại trong lịch sử trung đại Việt Nam,
Kỷ yếu hội thảo khoa học: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đánh giá, luân
chuyển cán bộ ở nước ta hiện nay", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ở các
bài viết này, luân chuyển cán bộ được minh chứng sự cần thiết, xác định rõ cách hiểu,
những cách thức và kinh nghiệm lịch sử, cơ sở lý luận của việc thực hiện luân chuyển
cán bộ ở Việt Nam hiện nay.


4

Luan van


Các nghiên cứu những vấn đề lý thuyết về luân chuyển cán bộ nêu trên rất hữu
ích cho việc xây dựng khung lý thuyết nghiên cứu đề tài luân chuyển cán bộ thuộc
diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
- Các nghiên cứu về thực tiễn luân chuyển cán bộ ở Việt Nam khá nhiều. Mặc
dù các nghiên cứu này dành một phần nội dung đề cập đến những vấn đề lý luận về
luận chuyển cán bộ song việc khảo sát, đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp
nâng cao mới là chính yếu. Đó là các nghiên cứu: (1) Trần Đình Hoan (chủ biên)
(2008), Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; (2) Phạm Tất
Thắng (2005), Luân chuyển cản bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện Ban Thường vụ quản
lý ở tỉnh Ninh Bình giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ; (3) Nguyễn Văn Năng
(2006), Luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Giang quản lỷ
giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ; (4) Trần Thanh Sơn (2006), Luân chuyển cán
bộ lãnh đạo, quản lý thuộc diện Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội quản lý trong giai
đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ; (5) Trần Đình Hoan (2002), “Luân chuyển cán bộ khâu đột phá nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ngang tầm thời kỳ phát
triển mới”, Tạp chí Cộng sản, (số 7); (6) Nguyễn Trọng Điều (2005), "Về đánh giá,
quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay", Tạp chí Cộng sản, (số
10); (7) Đỗ Ngọc Thịnh (2006), "Luân chuyển 6 chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp tỉnh ở Hả Tây ", Tạp chí Xây dựng Đảng, (số 11); (8) Tơ Huy Rứa (2004), Ý
nghĩa và mục tiêu của luân chuyển cán bộ đối với việc thực hiện công tác cán bộ
trong giai đoạn hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về đánh giá, luân chuyển cán bộ ở nước ta hiện nay”, Hà Nội; (9) Thang Văn
Phúc (2004), Để luân chuyển cán bộ thực sự trở thành bước đột phá, góp phần đỗi
mới công tác cán bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản ỉý, Kỷ

yếu Hội thảo khoa học: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đánh giá, luân chuyển
cán bộ ở nước ta hiện nay", Hà Nội; (10) Đỗ Ngọc Thịnh (2005), Những điều kiện,
yếu tố chi phối ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả luân chuyển cán bộ lãnh đạo,
quản lỷ ở nước ta, Kỷ yếu hội thảo khoa học: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
đánh giá, luân chuyển cán bộ ở nước ta hiện nay”, Hà Nội; (11) Phạm Quang Vinh
(2004), Mối quan hệ giữa luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý với điều động, tăng

5

Luan van


cường cán bộ, Kỷ yếu hội thảo khoa học: "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đánh
giá, luân chuyển cán bộ ở nước ta hiện nay", Hà Nội;…
Những nghiên cứu này khảo sát đánh giá thực tiễn luân chuyển cán bộ trên
phạm vi cả nước và ở các địa phương. Quá trình hoạch định và tổ chức thực tiễn được
phân tích, đánh giá để chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân, các vấn
đề đặt ra. Trên cơ sở đó, các nghiên cứu khái quát bài học kinh nghiệm hoặc đề xuất
những giải pháp thúc đẩy, nâng cao chất lượng luân chuyển cán bộ.
Là hoạt động tất yếu trong công tác nhân sự của hệ thống chính trị các quốc
gia, luân chuyển cán bộ cũng được nghiên cứu ở nhiều quốc gia. Gần với Việt Nam,
Trung Quốc có nhiều thành quả trong nghiên cứu về luân chuyển cán bộ. Một số
nghiên cứu tiêu biểu như: Hạ Quốc Cường (Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc) (2004), Khơng ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và trình độ
cầm quyền, tăng cường năng lực chống tha hố, phịng biến chất và chống rủi ro,
Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc, "Xây
dựng Đảng cầm quyền, kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc",
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội; Triệu Gia Kỳ (Trưởng Ban Tổ chức Thành
ủy Bắc Kinh) (2004), Tăng cường xây dựng Đảng ủy địa phương, phát huy đầy đủ
vai trò hạt nhân lãnh đạo, Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng

Cộng sản Trung Quốc, "Xây dựng đảng cầm quyền, kinh nghiệm của Việt Nam, kinh
nghiệm của Trung Quốc", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội; Tơn Hiểu Quần
(Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc) (2004), Tăng
cường xảy dựng ban lãnh đạo, cố gắng hình thành tầng lớp lãnh đạo hăng hái, sôi
nổi, phấn đấu thành đạt. Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng
Cộng sản Trung Quốc, "Xây dựng đảng cầm quyền, kinh nghiệm của Việt Nam, kinh
nghiệm của Trung Quốc", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội; Chu Phúc Khởi
(Phó Cục trưởng Cục cán bộ 1 Ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc) (2004), Xuất phát từ đại cục, hướng tới lâu dài, cố gắng xây dựng một đội ngũ
cán bộ dự bị tố chất cao. Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng
Cộng sản Trung Quốc, "Xây dựng đảng cầm quyền, kinh nghiệm của Việt Nam, kinh
nghiệm của Trung Quốc", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội; Quy định cơng
tác luân chuyến cán bộ lãnh đạo đảng, chính quyền, của Trung ương Đảng Cộng sản

6

Luan van


Trung Quắc (2006), Ban hành tháng 6 năm 2006 (Người dịch: GS.TS Đỗ Tiến Sâm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam). Ở
các nghiên cứu này, luân chuyển cán bộ được đề cập như một phần trong nội dung
bàn về công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ của Trung Quốc. Việc đề cập đến
luân chuyển cán bộ như một phần nội dung cũng xuất hiện trong các nghiên cứu về
công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ ở Lào, cụ thể: Nich Khăm (2003), Xây
dựng đội ngữ cán bộ lãnh đạo chủ chốt Hội Liên hiệp phụ nữ ở Cộng hoà Dân chủ
Nhân dân Lào trong thời kỳ đổi mới, Luận án tiến sĩ chuyên ngành Xây dựng Đảng;
On Kẹo Phơm Ma Kon (Phó trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào), Đồi mới, kiện toàn hệ thống tổ chức của đảng và hệ thống chính trị trong
q trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào, Kỷ yếu Đề
tài khoa học cấp nhà nước “Xây dựng Đảng cầm quyền trong quá trình phát triển kinh

tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam và Lào”; Đao Bua La Pha Ba Vông Phet
Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Xây dựng Đảng cầm
quyền trong quá trình phát triển kỉnh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam và Lào, Kỷ yếu Đề tài khoa học cấp nhà nước;…
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài nhận thấy:
Một là, các nghiên cứu về luân chuyển cán bộ chủ yếu tiếp cận dưới góc độ
chuyên ngành xây dựng Đảng, đi sâu vào công tác cán bộ của Đảng. Tiếp cận chính
sách cơng với việc phân tích chu trình hoạch định và thực thi chính sách ln chuyển
cán bộ cịn khá hiếm.
Hai là, luân chuyển cán bộ chủ yếu được nghiên cứu ở cấp vĩ mô – Trung
ương, nếu ở địa phương thì nghiêng nhiều ở cấp tỉnh. Nghiên cứu luân chuyển cán bộ
ở cơ quan ban ngành cấp huyện và hệ thống chính trị cấp cơ sở chưa nhiều.
Ba là, chưa có cơng trình khoa học nghiên cứu việc thực hiện luân chuyển cán
bộ ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, cụ thể là luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ Huyện ủy quản lý. Nên, việc nghiên cứu đề tài có tính mới.
Các nghiên cứu đã có là cơ sở tham khảo rất quan trọng và hữu ích cho việc
nghiên cứu đề tài luận văn. Từ tổng quan tình hình nghiên cứu nêu trên đặt ra những
vấn đề mà luận văn cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung, làm rõ:

7

Luan van


Thứ nhất, khung lý thuyết về thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ thuộc
diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý, trường hợp tại huyện Phú Tân, An Giang.
Thứ hai, tổng kết thực tiễn thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ thuộc diện
Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang để khái quát lý luận.
Thứ ba, xây dựng các giải pháp khả thi để thúc đẩy mức độ và nâng cao chất
lượng thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy

quản lý ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Tổng kết thực trạng và đề xuất các giải pháp góp phần
cung cấp luận cứ cho việc đẩy mạnh mức độ và nâng cao chất lượng thực hiện chính
sách luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý trên địa bàn
huyện Phú Tân, tỉnh An Giang hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Khái quát những vấn đề lý thuyết cơ bản về chính sách ln chuyển cán bộ
nói chung, ln chuyển cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý nói riêng.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng q trình ln chuyển cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ Huyện ủy quản lý ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang thông qua việc chỉ rõ
kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân, vấn đề đặt ra.
+ Xác định phương hướng, quan điểm và đề xuất các giải pháp đẩy mạnh mức
độ và nâng cao chất lượng thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban
Thường vụ Huyện ủy quản lý tại huyện Phú Tân, tỉnh An Giang đến năm 2025.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Q trình thực hiện chính sách ln chuyển cán bộ
thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian: Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách
luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý ở huyện Phú Tân,
tỉnh An Giang trong giai đoạn 2015 – 2020. Giải pháp được đề xuất đến năm 2025.
+ Về đối tượng: Cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý theo quy
định hiện hành.

8

Luan van



5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng, chính sách của Nhà nước về luân chuyển cán bộ.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
+ Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp lịch sử, phương pháp logic,
phương pháp thu thập tài liệu, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích,
phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia, phương pháp khảo sát thực tiễn…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Góp phần khái quát khung lý thuyết về chính sách ln
chuyển cán bộ nói chung, chính sách luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ
Huyện ủy nói riêng trên địa bàn địa phương cấp tỉnh.
- Ý nghĩa thực tiễn:
+ Góp phần thúc đẩy q trình tổng kết thực tiễn cơng tác ln chuyển cán bộ
nói chung, cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện ủy quản lý ở huyện Phú Tân,
tỉnh An Giang.
+ Góp phần cung cấp luận cứ cho cấp hữu quan trong hoạch định chính sách
và tổ chức thực thi chính sách luân chuyển cán bộ thuộc diện Ban Thường vụ Huyện
ủy ở huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
+ Góp phần cho việc nâng cao hiệu quả thực tiễn công tác của bản thân.
+ Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho cá nhân và tổ chức nghiên cứu
liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương, tiết.

9

Luan van



Chương 1
CHÍNH SÁCH LUÂN CHUYỂN CÁN BỘ
THUỘC DIỆN BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY QUẢN LÝ
Ở HUYỆN PHÚ TÂN – CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm
* Cán bộ:
Cán bộ là một thuật ngữ được cho là du nhập vào nước ta từ Trung Quốc với
hai nghĩa cơ bản là: Nghĩa thứ nhất là cái khung, cái khuôn (khung ảnh), nghĩa thứ
hai là người nòng cốt, những người chỉ huy quân đội, trong một cơ quan tổ chức làm
nòng cốt. Khi du nhập vào nước ta, thuật ngữ cán bộ đã biến đổi khơng cịn ngun
nghĩa gốc, song hàm nghĩa bộ khung, người làm nịng cốt, người làm chỉ huy ln
được lưu giữ và nhận thức.
Thuật ngữ cán bộ được sử dụng phổ biến ở Việt Nam từ sau Cách mạng tháng
Tám năm 1945, khi Đảng lãnh đạo nhân dân Tổng khởi nghĩa thắng lợi, giành lấy
chính quyền nhà nước, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Kể từ đây, Đảng
trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện những bước đầu
tiên trong xây dựng chế độ mới, cuộc sống mới. Trong điều kiện đó, cán bộ là vấn đề
có tầm quan trọng đặc biệt trước u cầu vừa cấp bách, vừa có tính cơ bản lâu dài của
sự nghiệp cách mạng.
Cách hiểu được cho là rộng nhất về cán bộ, xem cán bộ gồm tất cả những
người thoát ly, hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước, làm việc trong bộ máy
chính quyền, trong hệ thống chính trị. Đây là quan niệm thơng dụng ở nước ta, đặt cơ
sở đầu tiên phân biệt cán bộ với các thành phần khác trong xã hội, với những công
dân là người lao động không hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước.
Theo Từ điển tiếng Việt, xuất bản năm 2003 “cán bộ” có hai nghĩa:
1. Người làm cơng tác có nghiệp vụ chun mơn trong cơ quan nhà nước.
2. Người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan nhà nước, một tổ chức,
phân biệt với người thường, khơng có chức vụ [41, trang 109].

Trong Từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1999, “cán bộ” có nghĩa:

10

Luan van


1. Người làm việc trong cơ quan Nhà nước, cán bộ Nhà nước. Bố mẹ đều là cán bộ.
2. Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường, khơng giữ chức vụ
trong các cơ quan, tổ chức nhà nước: cán bộ tổ chức, cán bộ đại hội [42, tr.249].
Luật Cán bộ, cơng chức được Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008, tại Điều 4 nêu:
“Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức
danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi
chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là
cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
Trên thực tế xem xét cán bộ dưới góc độ hưởng lương, phụ cấp phân theo
ngạch, bậc; phụ cấp trách nhiệm; phụ cấp nghiệp vụ thì quan niệm “cán bộ” chưa bao
quát hết. Để phát huy hết vai trò, chức năng nghiệp vụ của cán bộ và luật pháp hóa
cơng tác quản lý cán bộ, khái niệm “cán bộ” đã được bổ sung và cụ thể hơn bằng
những khái niệm gần nghĩa như khái niệm công chức, viên chức... Cũng tại Điều 4,
Luật Cán bộ, công chức nêu:
“Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân
đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc
phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Cơng an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ
quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập
của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi

chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp cơng
lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy
định của pháp luật”.
“Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt
Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân,
Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã
hội; cơng chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh

11

Luan van


chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước”.
Trong thực tế một số người đã hiểu lệch lạc cho rằng những khái niệm trên
độc lập với khái niệm cán bộ, thậm chí một số người cịn cho rằng viên chức không
phải là cán bộ hoặc cán bộ chỉ là những người được tuyển dụng, bầu làm lãnh đạo
còn lại những người gọi theo chuyên môn, chức vụ không phải là cán bộ. Hiểu như
vậy gây ra nhiều trở ngại trong tư duy thông thường của đại bộ phận quần chúng và
quan niệm về cán bộ. Để đảm bảo nhận thức thống nhất, khơng phức tạp hóa vấn đề,
khơng mâu thuẫn giữa cán bộ, công chức, viên chức với cán bộ cần có sự thống nhất
khái niệm coi “cán bộ” là khái niệm gốc, chung nhất. Các khái niệm “công chức”,
“viên chức”, “chuyên gia”, “cán sự”, “cán bộ chuyên trách” “cán bộ kiêm nhiệm”...
đều là những khái niệm gần nghĩa, chứa đựng những yếu tố của khái niệm gốc “cán
bộ”. Do xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, cương vị nghề nghiệp cụ thể, do phương
thức hoạt động khác nhau của mỗi hệ thống, chất lượng và chuẩn mực công tác đào
tạo mà những khái niệm gần nghĩa này xuất hiện.
Tiếp cận khái niệm cán bộ từ nhiều phương diện, có thể rút ra kết luận cần

hiểu khái niệm cán bộ theo hai nghĩa:
Nghĩa rộng: Cán bộ là tất cả những người thốt ly, đảm đương một cơng việc
nào đó hay giữ một chức trách, một cương vị trong Đảng, Nhà nước, cơ quan, ban
ngành, tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể, đơn vị sự nghiệp... hưởng lương và phụ cấp
từ ngân sách Nhà nước hoặc một phần từ ngân sách Nhà nước theo quy định của Hiến
pháp, pháp luật và những chính sách hiện hành của Nhà nước. Họ là những người
công bộc của dân, phục vụ nhân dân.
Nghĩa hẹp: Cán bộ theo nghĩa hẹp vừa là cán bộ theo nghĩa rộng, vừa có nét
đặc thù do bầu cử, đề bạt, cân nhắc, bổ nhiệm theo quy trình của cơng tác tổ chức cán
bộ và các cấp quản lý ra quyết định, giao nhiệm vụ giữ cương vị trong bộ máy lãnh
đạo của cơ quan Trung ương hoặc địa phương, phụ cấp của họ được hưởng từ ngân
sách hoặc một phần từ ngân sách Nhà nước theo quy định của Nhà nước.
Tựu trung lại, “Cán bộ” là từ chỉ tất cả những người được đảm đương thực
hiện, gánh vác một cơng việc, nhiệm vụ nào đó do Đảng, Nhà nước, các tổ chức
chính trị xã hội, đồn thể thông qua công tác tổ chức cán bộ và các cấp quản lý quyết

12

Luan van


định tuyển dụng, tiến cử, bổ nhiệm, đề bạt, cân nhắc giao cho, phân cơng cho nhiệm
vụ nào đó để phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Lương và phụ cấp của cán bộ được
hưởng từ ngân sách hoặc một phần từ ngân sách Nhà nước theo quy định của Hiến
pháp, pháp luật, pháp lệnh của Nhà nước cùng với những chính sách cụ thể do Nhà
nước ban hành.
Theo quan niệm trên, cán bộ có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí khác
nhau tùy vào vị trí, vai trò, chức năng của từng loại cán bộ quy định.
Theo chức vụ phân công trong cơ quan đơn vị tổ chức có thể phân chia cán bộ
lãnh đạo, quản lý, cán bộ chủ chốt.

Theo phân cấp hệ thống hành chính có thể phân chia thành cán bộ Trung ương,
cán bộ địa phương cơ sở.
Theo nhiệm vụ trong hệ thống chính trị có thể phân chia thành cán bộ Đảng,
cán bộ chính quyền, cán bộ đồn thể. Theo chun mơn nghiệp vụ có thể chia thành
cán bộ hành chính, cán bộ nghiệp vụ ...
Theo phân định cơng việc có thể chia thành cán bộ chuyên trách, cán bộ kiêm
nhiệm, chuyên gia...
* Ban Thường vụ cấp ủy cấp huyện:
Ngày 02/8/2019, Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) ban hành Quy định số
202-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác của cấp ủy,
ban thường vụ, thường trực cấp ủy cấp huyện. Quy định này nêu định nghĩa, xác định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ của ban thường vụ cấp ủy cấp huyện:
“Ban thường vụ cấp ủy cấp huyện là cơ quan lãnh đạo giữa hai kỳ họp của
cấp ủy cấp huyện; có chức năng lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện
nghị quyết đại hội đảng bộ; nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của cấp
ủy cấp mình và cấp trên; quyết định chủ trương về cơng tác tổ chức, cán bộ theo thẩm
quyền; quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của cấp ủy; đề xuất, kiến
nghị với cấp ủy cấp mình và cấp tỉnh những vấn đề có liên quan đến sự lãnh đạo, chỉ
đạo đối với địa phương; phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan trong thực
hiện nhiệm vụ chính trị được giao”
“Ban thường vụ cấp ủy cấp huyện chịu trách nhiệm trước cấp ủy cấp mình;
cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy cấp tỉnh; đảng bộ và nhân dân trên địa bàn

13

Luan van


về thực hiện nhiệm vụ được giao và những quyết định của mình. Báo cáo cấp ủy cấp
mình kết quả giải quyết công việc giữa hai kỳ hội nghị cấp ủy; kịp thời báo cáo, đề

xuất ban thường vụ cấp ủy cấp tỉnh và cấp ủy cấp mình về những vấn đề nhạy cảm,
phức tạp, đột xuất phát sinh vượt quá thẩm quyền”.
* Cán bộ thuộc diện ban thường vụ huyện ủy quản lý:
Cán bộ thuộc diện ban thường vụ huyện ủy quản lý là cán bộ lãnh đạo, quản
lý đang sinh hoạt đảng trong đảng bộ huyện, được phân cấp cho ban thường vụ huyện
ủy quản lý theo quy định. Cán bộ thuộc diện ban thường vụ huyện ủy quản lý bao
gồm các chức danh/chức vụ:
(1) Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện;
(2) Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy;
(3) Trưởng các Ban xây dựng Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy;
(4) Chánh Văn phòng Huyện ủy;
(5) Phó trưởng các ban, cơ quan của Huyện ủy;
(6) Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy (chuyên trách);
(7) Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc huyện;
(8) Trưởng các tổ chức chính trị - xã hội huyện;
(9) Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội
huyện;
(10) Trưởng phịng và chức vụ tương đương;
(11) Phó trưởng phịng và chức vụ tương đương;
(12) Cấp trưởng, phó các tổ chức hội có cán bộ diện Ban Thường vụ Huyện
ủy quản lý;
(13) Trưởng ban của hội đồng nhân dân huyện;
(14) Phó ban của hội đồng nhân dân huyện;
(15) Bí thư đảng ủy xã, thị trấn;
(16) Phó bí thư đảng ủy xã, thị trấn;
(17) Chủ tịch hội đồng nhân dân xã, thị trấn;
(18) Phó chủ tịch hội đồng nhân dân xã, thị trấn;
(19) Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, thị trấn;
(20) Phó chủ tịch ủy ban nhân dân xã, thị trấn.


14

Luan van


* Luân chuyển cán bộ:
Ngày 07/10/2017, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quy định số 98QĐ/TW về luân chuyển cán bộ. Quy định này quan niệm: Luân chuyển cán bộ là việc
cử có thời hạn cán bộ trẻ, có năng lực, triển vọng, trong quy hoạch từ Trung ương về
địa phương, từ cấp trên xuống cấp dưới và giữa các địa phương, cơ quan, đơn vị
trong hệ thống chính trị nhằm đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách cán bộ và làm
cơ sở lựa chọn, bố trí, sử dụng cán bộ.
Theo Khoản 11, Điều 7, Luật Cán bộ, công chức (2008), luân chuyển là việc
cán bộ được cử hoặc bổ nhiệm giữ một chức danh lãnh đạo, quản lý khác trong một
thời hạn nhất định để tiếp tục được đào tạo, bồi dưỡng và rèn luyện theo yêu cầu
nhiệm vụ.
* Chính sách luân chuyển cán bộ và thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ
Theo Từ điển tiếng Anh (Oxford English Dictionary), “Chính sách” là “một
đường lối hành động được thơng qua và theo đuổi bởi chính quyền, đảng, nhà cai trị,
chính khách...”, nghĩa là chính sách khơng chỉ dừng lại ở các quyết định giải quyết
những vấn đề cụ thể mà còn bao gồm cả đường lối, phương hướng hành động. Khi
gắn với môi trường – vai trị, chức năng – của “khu vực cơng” thì được gọi là “Chính
sách cơng”. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ
thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian
nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng
của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn
hóa...”.
Từ góc độ tiếp cận nêu trên, Chính sách luân chuyển cán bộ (ở Việt Nam) là
đường lối hành động luân chuyển cán bộ được đề ra và lãnh đạo tổ chức thực hiện bởi
Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm đáp ứng các yêu cầu của công tác cán bộ. Do Đảng
lãnh đạo tuyệt đối và tồn diện cơng tác cán bộ nên chính sách ln chuyển cán bộ ở

Việt Nam có vai trị rất lớn của Đảng – từ hoạch định đến lãnh đạo tổ chức thực hiện
và kiểm tra, đánh giá, tổng kết. Các thành tố khác trong hệ thống chính trị tham gia
thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ bằng cách thể chế hóa, cụ thể hóa gắn với
chức năng, nhiệm vụ cụ thể. Thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ chính là q
trình Đảng và các thành phố khác trong hệ thống chính trị tổ chức thực tiễn để triển

15

Luan van


khai các chủ trương, quan điểm đường lối, quyết định của Đảng về luân chuyển cán
bộ trong thực tiễn nhằm đạt mục đích, yêu cầu đề ra.
Chính sách luân chuyển cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý là hệ
thống các quan điểm, chủ trương, định hướng, kế hoạch, nhiệm vụ, giải pháp, quyết
định của ban thường vụ huyện ủy nhằm thực hiện đường lối, quan điểm của Trung
ương và cấp ủy cấp trên về luân chuyển án bộ thuộc diện quản lý đáp ứng yêu cầu
của công tác cán bộ. Chủ thể ban hành chính sách luân chuyển cán bộ diện ban
thường vụ huyện ủy quản lý là huyện ủy và ban thường vụ huyện ủy; chủ thể thực
hiện là huyện ủy, ban thường vụ huyện ủy, các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính
trị huyện và cán bộ liên quan.
Thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản
lý, về cơ bản, tuân theo quy định về thực hiện luân chuyển cán bộ do Trung ương ban
hành gồm:
(1) Tiến hành rà soát, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ
diện ban thường vụ huyện ủy quản lý nói riêng;
(2) Phê duyệt danh sách quy hoạch cán bộ và luân chuyển cán bộ diện ban
thường vụ huyện ủy quản lý;
(3) Tiến hành công tác tư tưởng đối với cán bộ luân chuyển;
(4) Ra quyết định luân chuyển cán bộ và quyết định về các chế độ chính sách

kèm theo;
(5) Kiểm tra, giám sát, đánh giá luân chuyển cán bộ
Q trình thực hiện chính sách ln chuyển cán bộ diện ban thường vụ
huyện ủy quản lý được đánh giá trên các yếu tố cơ bản như sau:
(1) Tính kế hoạch: Chính sách luân chuyển cán bộ phải được thực hiện có
chương trình, kế hoạch. Chương trình, kế hoạch càng cụ thể và sát hợp thì thực hiện
chính sách càng thuận lợi và đạt kết quả. Do vậy, xây dựng chương trình, kế hoạch
thực hiện là khâu rất quan trọng của thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ diện
ban thường vụ huyện ủy quản lý.
(2) Tính hệ thống: Thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ diện ban thường
vụ huyện ủy quản lý phải là một bộ phận trong công tác cán bộ của huyện ủy, một bộ
phận trong thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ của tỉnh ủy và của Trung ương.

16

Luan van


Q trình thực hiện chính sách ln chuyển cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản
lý phải hướng tới phục vụ cho mục tiêu tổng thể.
(3) Tính đặc thù: mỗi huyện ủy có những điều kiện đặc điểm cụ thể khác
nhau. Do vậy, từ hoạch định đến thực thi chính sách luân chuyển cán bộ diện ban
thường vụ huyện ủy quản lý phải trung thành với quy định, chính sách chung nhưng
vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể để tránh rơi vào máy móc, rập khn.
(4) Tính kịp thời: Thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ diện ban thường
vụ huyện ủy quản lý phải kịp thời với yêu cầu của thực tiễn đặt ra, với chương trình,
kế hoạch, yêu cầu của Trung ương và tỉnh ủy.
(5) Tính hiệu quả: Thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ phải giúp cho cán
bộ có sự phát triển hơn nữa trong cơng tác, qua đó thúc đẩy hiệu quả thực hiện nhiệm
vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Đây là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của

thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ diện ban thường vụ huyện ủy quản lý.
1.1.2. Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng, Nhà nước về luân chuyển cán bộ
Chủ nghĩa Mác – Lênin đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ, xem là khâu đặc
biệt quan trọng quyết định việc hiện thực hóa lý luận khoa học và cách mạng. Những
điều kiện hiện thực khiến cho Mác và Ăngghen chưa có thực tế để đề cập nhiều về
vấn đề cán bộ và luân chuyển cán bộ. Tuy nhiên, hai ông rất quan tâm đến xây dựng
đội ngũ những nhà tuyên truyền, cổ động, truyền bá tư tưởng cộng sản, gầy dựng
phong trào công nhân để lập ra những đảng cách mạng chân chính. Hai ơng khơng chỉ
đề cập đến sự xuất hiện của những con người vĩ đại trong mỗi thời đại xã hội, mà còn
cho rằng “muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng
thực tiễn” [30, 181]. Những người sử dụng lực lượng thực tiễn, những nhà tuyên
truyền, cổ động, truyền bá, gầy dựng mà hai ơng nói, thực chất, là những cán bộ
chuyên nghiệp của đảng trong điều kiện hoạt động bí mật.
V.I. Lênin rất quan tâm đến lựa chọn và bố trí cán bộ xuất phát từ nhận thức:
Có cán bộ tốt nhưng khơng bố trí đúng thì cũng khơng phát huy được. V.I. Lênin viết:
“Bất kỳ công tác nào cũng đều địi hỏi phải có những đặc tính riêng biệt Có người có
thể là một nhà cách mạng và nhà cổ động cừ nhất, nhưng làm một cán bộ hành chính
thì lại hồn tồn khơng thích hợp…”. Bố trí đúng cán bộ chính là giúp cán bộ có thể

17

Luan van



×