Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

(Luận văn thạc sĩ) thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức thuộc các cơ quan chuyên môn của ubnd tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (578.01 KB, 71 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGƠ THỊ NGỌC HẠNH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC THUỘC CÁC CƠ QUAN
CHUYÊN MÔN CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CƠNG

HÀ NỘI, 2021

Luan van


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGƠ THỊ NGỌC HẠNH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
ĐỐI VỚI CÁN BỘ, CÔNG CHỨC THUỘC CÁC CƠ QUAN
CHUYÊN MÔN CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

Ngành: Chính sách cơng
Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN PHƯƠNG AN


HÀ NỘI, 2021

Luan van


1

Luan van


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đội ngũ cán bộ, công chức (CBCC) là lực lượng quan trọng, trực tiếp vận
hành, triển khai và thực thi các chính sách của Đảng và Nhà nước. Vì vậy, chất lượng
của đội ngũ CBCC là yếu tố quyết định hiệu quả công tác quản lý Nhà nước. Hồ Chí
Minh cho rằng: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải
thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo
cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng… Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc”[35, tr.269], “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc
kém”[35,tr.240], “huấn luyện đào tạo cán bộ là cơng việc gốc của Đảng”[35,tr.269]. Qua
đó chúng ta có thể thấy được quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trị, vị trí của đội ngũ
CBCC rất rõ ràng. Người coi đội ngũ CBCC là cái gốc, phải luôn chú trọng công tác đào
tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) đội ngũ CBCC.
Thấm nhuần tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta
luôn chú trọng công tác ĐTBD đội ngũ CBCC và coi đây là nhiệm vụ quan trọng
được thực hiện thường xuyên. Điều này được thể hiện cụ thể qua rất nhiều văn bản
của Đảng và Nhà nước liên quan đến công tác ĐTBD đội ngũ CBCC. Điển hình
như Nghị định số 101/2017/NĐ-CP quy định đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức; Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 phê duyệt Đề án đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 – 2025 của Chính phủ…

Với sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, thời gian qua các cơ quan
ban ngành từ Trung ương đến địa phương đã chú trọng nâng cao trình độ chun
mơn và chính trị cho đội ngũ CBCC thơng qua nhiều hình thức ĐTBD phù hợp,
hiệu quả, gắn ĐTBD với quy hoạch và theo nhu cầu thực tế của tổ chức. Trải qua
các lớp ĐTBD ngắn hạn và dài hạn, đội ngũ CBCC được tăng cường về kiến thức,
vững vàng về chuyên môn, phù hợp với u cầu, vị trí việc làm, có phẩm chất đạo
đức tốt, có bản lĩnh chính trị, tận tụy phục vụ nhân dân, có nhân cách và lối sống
trong sáng, mẫu mực, hoàn thành tốt chức trách và nhiệm vụ được giao.
Tại An Giang, công tác ĐTBD đối với đội ngũ CBCC luôn được các cấp ủy
Đảng và các cơ quan ban ngành quan tâm chỉ đạo thực hiện. Cụ thể là tỉnh đã quan

1

Luan van


tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch ĐTBD, các quy định về thực hiện
chế độ hỗ trợ đối với CBCC, viên chức được cử đi ĐTBD. Theo đó, chính sách
ĐTBD CBCC của tỉnh cũng đã có những bước chuyển biến tích cực như tình hình
chung của cả nước, điển hình như CBCC viên chức được cử đi ĐTBD dưỡng ý thức
được trách nhiệm, luôn phấn đấu hoàn thành tốt những nội dung được cử đi ĐTBD,
sau khi được ĐTBD đã có nhận thức chính trị vững vàng hơn, hiệu quả công tác
được nâng lên, đáp ứng tốt hơn đối với công việc được giao.
Bên cạnh những thành cơng thì chính sách ĐTBD đối với CBCC thuộc các
cơ quan chuyên môn (CQCM) của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh An Giang vẫn
chưa thể đáp ứng kịp thời yêu cầu đổi mới nền hành chính; CBCC các CQCM của
UBND tỉnh chưa được quan tâm đúng mức trong công tác quy hoạch ĐTBD; việc
xét, cử đối tượng tham gia ĐTBD tại một số cơ quan, đơn vị chưa đảm bảo điều
kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật; chưa gắn kết, đồng bộ giữa đào tạo với
quy hoạch sử dụng, chưa căn cứ theo nhu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ, cá

biệt có trường hợp chỉ nhằm đáp ứng nguyện vọng, nâng cao trình độ, chức danh
của cá nhân nhưng chuyên ngành đào tạo không thực sự phù hợp với u cầu đối
với vị trí cơng tác đang hoặc dự kiến phân công; chưa cân đối hợp lý số lượng đi
ĐTBD/biên chế đang thực hiện, không đảm bảo phân kỳ thực hiện gây ảnh hưởng
đến tiến độ, chất lượng công tác của cơ quan, đơn vị; một số lớp ĐTBD chưa đi vào
chiều sâu và chưa phù hợp với thực tiễn công tác. Dẫn đến việc sử dụng kinh phí
ĐTBD CBCC chưa hợp lý và chưa có hiệu quả, hay nói cách khác là chưa phát huy
đúng ý nghĩa của việc thực hiện chính sách ĐTBD CBCC của tỉnh.
Sở Nội vụ tỉnh An Giang là CQCM thuộc UBND tỉnh An Giang được
UBND tỉnh giao tham mưu quản lý nhà nước về công tác ĐTBD của tỉnh. Là công
chức đang công tác tại Sở Nội vụ tỉnh An Giang, được tham gia khóa đào tạo cao
học ngành Chính sách công của Học viện Khoa học Xã hội nên tơi quyết định chọn
đề tài “Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức
thuộc các cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh An Giang” làm luận văn Thạc sĩ
với hy vọng thơng qua q trình thực hiện luận văn tơi sẽ có cơ hội nghiên cứu,
phân tích, tìm hiểu sâu những kết quả đạt được cũng như hạn chế của quá trình thực

2

Luan van


hiện chính sách ĐTBD CBCC thuộc các cơ quan chuyên mơn của UBND tỉnh An
Giang để từ đó có những ý kiến đề xuất phù hợp với tình hình thực tiễn của Tỉnh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Với quan điểm xuyên suốt của Đảng coi CBCC là gốc của mọi sự thành bại
trong quá trình thực hiện chính sách, nên từ trước tới nay Chính sách ĐTBD CBCC
luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm và chú trọng. Đồng thời đây cũng là một
trong những chính sách được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và tìm hiểu. Trong
luận văn này chúng tơi sẽ điểm qua một số cơng trình nghiên cứu điển hình có liên

quan trực tiếp đến công tác ĐTBD đội ngũ CBCC và tạm chia làm 2 nhóm:
2.1. Nhóm các cơng trình nghiên cứu liên quan đến ĐTBD CBCC trên
phạm vi cả nước.
Năm 2005, trong cuốn Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài
năng, tác giả Trần Văn Tùng đã trình bày những kinh nghiệm của Mỹ và một số nước
châu Âu, châu Á trong việc phát hiện, đào tạo và sử dụng tài năng khoa học - công
nghệ, sản xuất kinh doanh, quản lý. Từ đó, tác giả so sánh với thực trạng của Việt
Nam và việc cần đổi mới các chính sách đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân
lực tài năng hiện có trên nhiều lĩnh vực.[48]
Năm 2007, trong cuốn sách Về chế độ công vụ Việt Nam" tác giả Nguyễn
Trọng Điều đã tập trung phân tích các các cơ sở khoa học để hồn thiện chế độ công
vụ ở Việt Nam hiện nay; những nguyên tắc cần phải đảm bảo trong q trình hồn
thiện chế độ cơng vụ và lộ trình thích hợp cho việc hồn thiện chế độ cơng vụ Việt
Nam.[22]
Năm 2008, trong cuốn Lược khảo về kinh nghiệm phát hiện, đào tạo và sử
dụng nhân tài trong lịch sử Việt Nam do Phạm Hồng Tung làm chủ biên đã nêu lên
những vấn đề mang tính thực tiễn về việc phát hiện, đào tạo và sử dụng nhân tài
trong lịch sử Việt Nam, cuốn sách đã đánh giá một cách tương đối toàn diện và súc
tích những mặt tốt, mặt hạn chế của thực tiễn đào tạo, sử dụng nhân tài của ông cha
ta trong các thời kỳ lịch sử.[47]
Năm 2014, với bài viết Cải cách quy trình ĐTBD CBCC nhằm nâng cao
năng lực thực thi công vụ, tác giả Ngô Thành Can đã đưa ra quy trình ĐTBD CBCC

3

Luan van


gồm 4 bước bước cơ bản đó là: xác định nhu cầu, lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch
và đánh giá ĐTBD; phát triển đội ngũ giảng viên có kiến thức và năng lực phù hợp

với nội dung ĐTBD với 4 vấn đề quan trọng liên quan đến nhau: Cơ quan quản lý
đào tạo, cơ sở đào tạo, người học và người dạy.[7]
Năm 2015, trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ Cơ sở khoa học xây
dựng chương trình bồi dưỡng công chức theo tiêu chuẩn chuyên ngành Nội vụ, do
Đàm Bích Hiên làm chủ nhiệm đã trình bày rõ cơ sở khoa học của việc xây dựng
chương trình bồi dưỡng công chức đảm bảo tiêu chuẩn chuyên ngành Nội vụ và
đề xuất các phương hướng, giải pháp xây dựng chương trình bồi dưỡng đảm bảo
tiêu chuẩn chuyên ngành Nội vụ đối với công chức ngành Nội vụ nhằm xây dựng
chương trình bồi dưỡng cơng chức theo tiêu chuẩn chuyên ngành Nội vụ đạt chất
lượng và hiệu quả cao.[29]
Năm 2015, trong bài viết ĐTBD CBCC trong quá trình cải cách hành chính,
tác giả Nguyễn Thị La đã chỉ ra một số hạn chế của công tác ĐTBD CBCC như
một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa coi trọng đúng mức công tác ĐTBD;
CBCC chủ yếu vừa học vừa làm nên cơng việc chi phối q trình học tập, thời gian
dành trọn vẹn cho việc học tập không nhiều; q trình đào tạo chưa đi liền với bố trí
và sử dụng sau khi được cử đi ĐTBD, hay công tác này cịn mang nặng tính hình
thức, chưa có hiệu quả rõ rệt… Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp như: tiếp tục
hồn thiện cơng tác quy hoạch cán bộ, lãnh đạo quản lý; xây dựng đội ngũ giảng
dạy, báo cáo viên chất lượng cao; đổi mới nội dung, chương trình ĐTBD; ĐTBD
phải gắn với việc bố trí và sử dụng… nhằm nâng cao hiệu quả công tác ĐTBD
CBCC trong q trình cải cách hành chính trong thời gian tới cho phù hợp và đạt
hiệu quả.[33]
Mới đây nhất là năm 2020, trong cuốn sách Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
năng lực thực thi công vụ cho cán bộ, công chức, viên chức, tác giả Ngô Thành Can
đã nêu lên một số vấn đề lý thuyết có liên quan đến cơng tác ĐTBD và trình bày về
hiệu quả, các yếu tố ảnh hưởng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
công chức, viên chức tại Việt Nam. Đặc biệt là trong cuốn sách tác giả đã giành trọn
chương 3 để nói về q trình ĐTBD với 4 bước cơ bản đó là xác định nhu cầu

4


Luan van


ĐTBD, lập kế hoạch ĐTBD, tổ chức thực hiện và đánh giá kết quả ĐTBD. [6]
2.2. Nhóm các cơng trình nghiên cứu về chính sách ĐTBD CBCC ở các
địa phương
Năm 2017, trong luận văn thạc sĩ Đào tạo, bồi dưỡng công chức các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, tác giả Nguyễn Thị
Ngọc đã đi sâu phân tích thực trạng cơng tác ĐTBD đội ngũ CBCC thuộc các cơ
quan chuyên môn tại huyện Phú Giáo qua ba nội dung lớn đó là: các chính sách
thu hút, hỗ trợ ĐTBD và phát triển nguồn nhân lực. Dựa trên cơ sở kết quả đánh giá
thực trạng, tác giả đã đưa ra 7 giải pháp nhằm góp phần đảm bảo hiệu quả trong
công tác ĐTBD đội ngũ CBCC các cơ quan chuyên môn tại huyện Phú Giáo trong
thời gian tới.[38]
Năm 2018, kết quả nghiên cứu từ luận văn thạc sĩ Thực thi chính sách bồi
dưỡng cán bộ, cơng chức ở quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội của tác giả Phùng Thị
Ngọc Anh đã khẳng định việc thực thi chính sách bồi dưỡng cán, bộ, cơng chức đã
được quận Tây Hồ quan tâm, do đó nhiều cán bộ, cơng chức ở quận đã có trình độ
chun mơn, lý luận chính trị và kiến thức phù hợp với lĩnh vực cơng tác. Song bên
cạnh những thành cơng thì việc thực thi chính sách bồi dưỡng cán bộ, cơng chức ở
quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội vẫn còn bộc lộ một số hạn chế. Vì vậy, luận văn đã
đưa ra 6 giải pháp và 6 kiến nghị nhằm góp phần nâng cao kết quả thực thi chính
sách bồi dưỡng cán bộ, công chức ở quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. [1]
Năm 2018, luận văn Thạc sỹ của Đỗ Thanh Trung về Thực hiện chính sách
ĐTBD CBCC từ thực tiễn quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh, đã trình bày
khái quát về một số khái niệm và quan điểm của Đảng liên quan đến công tác
ĐTBD CBCC. Dựa trên những vấn đề mang tính lý luận, tác giả đi vào đánh giá
thực trạng việc thực hiện chính sách ĐTBD CBCC ở quận Bình Thạnh. Trên cơ sở
đó đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện

chính sách ĐTBD CBCC trên địa bàn quận Bình Thạnh. [50]
Năm 2018, trong luận văn Thạc sỹ Quản lý Nhà nước về ĐTBD CBCC hành
chính cấp xã từ thực tiễn Thành phố Đà Nẵng tác giả Võ Thị Doãn đã nêu lên vai
và những yếu tố tác động đến quản lý Nhà nước về ĐTBD CBCC. Đồng thời tác giả

5

Luan van


cũng đi sâu phân tích, đánh giá kết quả cơng tác quản lý nhà nước về ĐTBD CBCC
hành chính cấp xã trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng. Căn cứ trên kết quả đánh giá
thực trạng, tác giả đã đưa ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý Nhà
nước về ĐTBD CBCC hành chính cấp xã trên địa bàn thành phố Đã Nẵng.[16]
Nhìn chung, các tài liệu và cơng trình nghiên cứu nêu trên đã có nhiều đóng
góp to lớn về mặt khoa học, các tác giả đã làm tập trung làm sáng tỏ những cơ sở lý
luận chung liên quan đến cơng tác ĐTBD,… và qua đó khẳng định vị trí, vai trị quan
trọng của cơng tác ĐTBD đối với đội ngũ CBCC trong quá trình quản lý Nhà nước
tại các địa phương cũng như trên cả nước.
Tại tỉnh An Giang, mặc dù các cấp ủy Đảng và chính quyền ln quan tâm
đến cơng tác ĐTBD CBCC song cho đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có một nghiên
cứu nào đi sâu đánh giá một cách hệ thống và tồn diện q trình thực thi chính sách
ĐTBD CBCC trên địa bàn tỉnh. Do vậy việc tham khảo các tài liệu và các cơng trình
nghiên cứu liên quan đến công tác ĐTBD CBCC trước đây sẽ là tiền để giúp tác giả
đi sâu tìm hiểu và đánh giá một cách khách quan, khoa học việc thực hiện chính sách
ĐTBD đội ngũ CBCC các CQCM của UBND tỉnh An Giang để trên cơ sở đó đề
xuất một số giải pháp góp phần thực hiện hiệu quả chính sách ĐTBD đối với CBCC
thuộc các CQCM của UBND tỉnh An Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng về thực hiện chính sách ĐTBD
đối với CBCC thuộc các CQCM của UBND tỉnh An Giang thời gian qua, phân tích
chỉ rõ những yếu tố tác động đến thành tựu và hạn chế của việc thực hiện chính
sách, luận văn hướng đến tìm ra một số giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu
quả thực hiện chính sách này trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ lý luận cơ bản, khái quát kinh nghiệm thực tiễn về thực hiện chính
sách ĐTBD đối với CBCC thuộc các CQCM của UBND tỉnh An Giang.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách ĐTBD đối với CBCC

6

Luan van


thuộc các CQCM của UBND tỉnh An Giang giai đoạn từ 2015 đến 2019.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao kết quả thực hiện chính sách
ĐTBD đối với CBCC thuộc các CQCM của UBND tỉnh An Giang thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực hiện chính sách ĐTBD đối với
CBCC thuộc các CQCM của UBND tỉnh An Giang. Cụ thể là CBCC thuộc các
CQCM của UBND tỉnh An Giang được Tỉnh ủy, UBND tỉnh hoặc Sở Nội vụ tỉnh
An Giang cử đi ĐTBD theo quy định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Luận văn chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu thực hiện chính sách
ĐTBD đối với CBCC trên phương diện: quản lý công tác ĐTBD CBCC.
Về không gian: luận văn tập trung nghiên cứu về thực hiện chính sách
ĐTBD CBCC trong phạm vi các CQCM của UBND tỉnh An Giang.
Về thời gian: Đánh giá thực trạng trong giai đoạn 2015-2019 và đề xuất mục

tiêu, giải pháp đến năm 2025.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Nghiên cứu tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh về CBCC.
Nghiên cứu quan điểm, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về
CBCC và chính sách ĐTBD đối với CBCC.
Nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến chính sách cơng như khái niệm,
quy trình thực thi chính sách cơng…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập dữ liệu nghiên cứu.
- Phương pháp tổng quan, phân tích tài liệu
Tài liệu được thu thập bao gồm:
+ Các báo cáo, số liệu thống kê về hiện trạng ĐTBD CBCC của tỉnh An
Giang. Các dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các sở, ban ngành có liên quan của tỉnh
An Giang, trong đó chủ yếu là từ Sở Nội vụ tỉnh An Giang. Các dữ liệu này là cơ sở

7

Luan van


để nhận diện thực trạng thực hiện chính sách chế độ ĐTBD của tỉnh trong thời gian
qua, qua đó, đánh giá những mặt tồn tại, hạn chế trong các chính sách chế độ ĐTBD
hướng đến các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách trong thời gian tới.
+ Các văn bản, tài liệu thể hiện quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà
nước, của tỉnh An Giang trong việc thực hiện chính sách về chế độ ĐTBD nhằm
xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
+ Các công trình nghiên cứu trước có liên quan về vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp xử lý và phân tích dữ liệu nghiên cứu
Trước khi tiến hành phân tích dữ liệu, các dữ liệu được sắp xếp bằng cách

đánh máy lại các ghi chép tại thực địa, tiếp theo là đọc lại tồn bộ dữ liệu để có cảm
nhận chung về thơng tin và suy nghĩ khái qt về nó, cảm nhận về độ sâu, độ tin cậy
và việc sử dụng thơng tin. Sau đó, tác giả tiến hành mã hóa dữ liệu.
- Phương pháp logic và phương pháp lịch sử: Phân tích đánh giá theo điều
kiện lịch sử cụ thể và phản ánh đúng bản chất, quy luật của đối tượng nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận văn góp phần khái quát lý luận, tổng kết thực tiễn nhằm bước đầu xây
dựng khung lý thuyết làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu đề tài thực hiện chính
sách ĐTBD đối với CBCC ở tỉnh An Giang.
- Luận văn góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho cơ quan chức năng
trong hoạch định và thực thi chính sách ĐTBD đối với CBCC ở tỉnh An Giang.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn góp phần tổng kết, đánh giá thực tiễn thực hiện chính sách ĐTBD
đối với CBCC thuộc các CQCM của UBND tỉnh An Giang.
- Với những luận cứ khoa học được khái quát và cung cấp, luận văn góp
phần thúc đẩy thực tiễn nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ĐTBD đối với
CBCC thuộc các CQCM của UBND tỉnh An Giang.
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các hoạt động
chuyên môn liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
7. Kết cấu luận văn

8

Luan van


Luận văn có: phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và nội
dung chính gồm 03 chương, 11 tiết.


9

Luan van


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CƠNG CHỨC Ở VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm chính sách cơng
Theo từ điển tiếng Anh (Oxford English Dictionary) “chính sách” là “một
đường lối hành động được thơng qua và theo đuổi bởi chính quyền, đảng, nhà cai
trị, chính khách...”. Hugh Heclo (năm 1972) định nghĩa chính sách có thể được xem
như là một đường lối hành động hoặc khơng hành động thay vì những quyết định
hoặc các hành động cụ thể. Tác giả David Easton (năm 1953) thì quan niệm “chính
sách bao gồm một chuỗi các quyết định và các hành động mà trong đó phân phối
thực hiện các giá trị”. Smith cho rằng “không hành động” cũng như “hành động” và
nhắc nhở chúng ta rằng “sự quan tâm sẽ không chỉ tập trung vào các quyết định tạo
ra sự thay đổi, mà còn phải thận trọng với những quyết định chống lại sự thay đổi
và khó quan sát vì chúng khơng được tun bố trong q trình hoạch định chính
sách” [28, tr45].
Tại việt Nam, Chính sách là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong
các văn bản pháp luật của Nhà nước. Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về
chính sách. Theo nghĩa rộng, chính sách là “những hành động ứng xử của chủ thể
với các hiện tượng tồn tại trong quá trình vận động phát triển nhằm đạt mục tiêu
nhất định” [30, tr.14] hay là “các chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay
nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của
mình”[34, tr.37]. Theo nghĩa hẹp hơn, đó có thể là “những chuẩn tắc cụ thể để thực
hiện đường lối, nhiệm vụ” [63, tr.475],…
Cho dù có nhiều định nghĩa khác nhau, thế nhưng các tác giả đều cho rằng

chính sách chính là sự tổng hịa các phương thức hành động để giải quyết vấn đề
được các nhà quản lý hay nhà lãnh đạo đề ra.
Có hai dạng chính sách, là chính sách cơng và chính sách tư. Theo tác giả Lê
Chi Mai, chính sách chỉ có hiệu lực thi hành trong phạm vi một tổ chức, một doanh
nghiệp, hiệp hội hay đoàn thể và chỉ được áp dụng nhằm giải quyết một vấn đề cụ

10

Luan van


thể của từng tổ chức riêng biệt thì được gọi là chính sách tư. Tuy nhiên, thuật ngữ
chính sách tư ít được sử dụng. Ngược lại, khái niệm chính sách cơng được dùng khá
phổ biến, với nghĩa là những chính sách do cơ quan hay các cấp chính quyền trong
bộ máy nhà nước ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng [34,
tr.37-38]. Chính sách cơng có một số đặc điểm cơ bản như sau: 1) Chính sách cơng
do nhà nước đề ra; 2) Chính sách cơng gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau;
3) Các quyết định này bao gồm cả những hoạt động thực thi trên thực tiễn; 4) Chính
sách cơng tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã
hội; 5) Chính sách cơng hướng vào những mục tiêu xác định.
Rất nhiều nhà nghiên cứu ở nước ngoài đã đưa ra các định nghĩa khác nhau
về chính sách cơng, chúng tơi xin điểm qua một số định nghĩa tiêu biểu sau:
Theo tác giả Thomas R.Dye, “chính sách cơng là cái mà chính phủ lựa chọn
làm hay khơng làm” [61, tr.1].
William N.Dunn định nghĩa: “Chính sách cơng là một kết hợp phức tạp
những sự lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động,
do các cơ quan nhà nước hay các quan chức nhà nước đề ra” [60, tr.51]. B.Guy
Peter cho rằng: “chính sách cơng là tồn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh
hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân” [62, tr.6].
Ở Việt Nam, một số tác giả cũng đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về

chính sách cơng, điển hình như:
Tác giả Bùi Phương Đình định nghĩa: “chính sách cơng là một tập hợp các
quyết định có liên quan đến nhau của các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ
máy nhà nước về việc lựa chọn các mục tiêu và giải pháp để đạt được các mục tiêu
đó trên cơ sở có những tính tốn và chủ đích rõ ràng nhằm giải quyết một vấn đề
hay đáp ứng một nhu cầu thiết yếu của thực tiễn xã hội” [23, tr.4].
Theo quan niệm của tác giả Nguyễn Hữu Hải thì : “Chính sách cơng là
những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống
cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội
phát triển” [26, tr.14].
Trên cơ sở tổng hợp các định nghĩa của các nhà nghiên cứu, tác giả Lê Chi

11

Luan van


Mai đưa ra định nghĩa: “Chính sách cơng là một chuỗi các quyết định hoạt động của
nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế xã hội theo
mục tiêu xác định” [34, tr.48].
Như vậy, chúng ta có thể hiểu chính sách cơng là những chính sách do Nhà
nước ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng.
1.1.2. Khái niệm cán bộ, công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh
Khái niệm công chức đã xuất hiện sớm và tương đối phổ biến ở nhiều quốc
gia, cụ thể là:
Đối với các nước ASEAN như Singapo, Malaixia có chung quan niệm: công
chức là người nhân danh quyền lực nhà nước, giải quyết cơng việc cơng, là mắt xích
của bộ máy nhà nước được gắn với dân, là người thực thi và đưa luật pháp, chính
sách, chương trình, kế hoạch, dự án quốc gia vào cuộc sống.

Đối với các nước như Anh và Hoa Kỳ, khái niệm công chức có phạm vi hẹp
hơn, họ là những người làm việc trong ngành hành pháp, khơng có trong ngành lập
pháp và tư pháp; ngồi ra, chỉ có những người làm việc cho các cơ quan Trung
ương mới được gọi là công chức, còn những người làm việc cho cơ quan Nhà nước
địa phương đều không được coi là công chức. Cụ thể, Quy chế công chức Anh
(tháng 6 năm 2006) và Luật về cải cách công chức Hoa Kỳ (1978) quy định: công
chức là những người làm việc trong bộ máy của chính phủ Trung ương, được tuyển
dụng, bổ nhiệm vào vị trí cơng tác trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, cởi mở.
Ở nước ta, khái niệm công chức cũng xuất hiện từ năm 1950. Theo Điều 1,
Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hịa
thì cơng chức là: “những cơng dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để
giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, ở trong hay ngồi
nước đều là cơng chức theo quy chế này, trừ những trường hợp riêng biệt do Chính
phủ quy định” [14]. Theo quy định này thì cơng chức là những người được tuyển
dụng giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ.
Đến năm 1998, Pháp lệnh CBCC được ban hành, cùng lúc đó là Nghị định số
95/CP của Chính phủ về “Tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức” cũng được

12

Luan van


ban hành; tiếp theo là việc sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh CBCC. Một số nghị định,
thông tư mới được ban hành cũng đã xác định công chức gồm: Những người được
tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại
theo trình độ đào tạo, ngành chun mơn, được xếp vào một ngạch hành chính sự
nghiệp, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước…Những người được
tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ
quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, qn nhân chun

nghiệp, cơng nhân quốc phịng; làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp. Những quy định trên
khẳng định quan điểm và nhận thức mới về đội ngũ CBCC xong vẫn chưa có sự rõ
ràng giữa cán bộ với cơng chức.
Điều 4, Luật CBCC năm 2008 ghi rõ:
"1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước. [41].
Nghị định số 06/2010/NĐ-CP, ngày 25/01/2010 của Chính phủ ghi rõ:
“Cơng chức là cơng dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,
chức danh, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc được bảo đảm
từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật” [9].
Điều 4, Nghị định 107/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 của Chính phủ về Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04 tháng 4 năm
2014 của Chính phủ quy định tổ chức các CQCM thuộc UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, quy định:
Người đứng đầu sở thuộc UBND cấp tỉnh, là ủy viên UBND cấp tỉnh do Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh bầu, là người đứng đầu sở do Chủ tịch UBND cấp tỉnh bổ
nhiệm, chịu trách nhiệm trước UBND, Chủ tịch UBND cấp tỉnh và trước pháp luật
về thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của sở và thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của ủy viên UBND cấp tỉnh theo Quy chế làm việc và phân công của UBND

13

Luan van


cấp tỉnh.

Như vậy trong Điều 4, Nghị định 107/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 của
Chính phủ đã quy định rất rõ về khái niệm cơng chức nhưng lại chưa có khái niệm
chính thức về CBCC tại các CQCM
Trong luận văn này, CBCC tại các CQCM cấp tỉnh được hiểu là công dân
Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh hoặc được
bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ làm việc tại các
CQCM cấp tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
1.1.3. Khái niệm chính sách đào tạo, bồi dưỡng công chức
Về khái niệm đào tạo
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì “Đào tạo là quá trình tác động đến
con người, nhằm làm cho con người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo… một cách có hệ thống theo những tiêu chuẩn nhất định, để
chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống, có khả năng nhận sự phân cơng
lao động xã hội nhất định”. [ 63,tr.755].
Còn theo Đại từ điển tiếng Việt thì “Đào tạo là dạy dỗ, rèn luyện để trở nên
người có hiểu biết, có nghề nghiệp”. [64,tr.593]
Tác giả Tơ Tử Hạ thì cho rằng “Đào tạo là q trình tác động đến con người
nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,… một cách
hệ thống, chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng khi nhận
một sự phân cơng lao động nhất định, góp phần vào sự phát triển xã hội, duy trì và
phát triển nền văn minh nhân loại”.[24]
Trong văn bản của Nhà nước, mà cụ thể là tại Khoản 1, Điều 5, Nghị định số
18/2010/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 05/3/2010 đã định nghĩa: “Đào tạo là
q trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định
của từng cấp học, bậc học” [10].
Như vậy, có thể hiểu đào tạo là việc trang bị các kiến thức, kinh nghiệm, kỹ
năng nhằm phát triển các cá nhân để đóng góp cho sự phát triển xã hội.
Trong phạm vi luận văn này, đào tạo công chức được hiểu là hoạt động có
mục đích, có tổ chức được thực hiện theo những quy trình nhất định để truyền đạt


14

Luan van


đến công chức hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ đạo đức phù hợp nhằm thực thi
công vụ. Đây là hoạt động có tính đặc thù bởi đối tượng của hoạt động đào tạo là
những người hoạt động trong bộ máy nhà nước, nhân danh quyền lực nhà nước thực
hiện nhiệm vụ QLNN, quản lý xã hội, phục vụ nhân dân.
Về khái niệm bồi dưỡng
Trong Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý làm chủ biên đã giải thích:
“Bồi dưỡng là làm cho khỏe thêm, mạnh thêm”. [64,tr.191]
Nghị định số 18/2010/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 05/3/2010 quy
định ĐT, BD cũng đã đưa ra định nghĩa về bồi dưỡng như sau: “Bồi dưỡng là hoạt
động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc”.[10]
Như vậy, chúng ta có thể hiểu bồi dưỡng là hoạt động tổ chức những khoá
học ngắn hạn để cập nhật, bổ sung kiến thức, bổ túc nghề nghiệp, đào tạo thêm hoặc
củng cố các kĩ năng nghề nghiệp theo các chuyên đề.
Cần có sự phân biệt giữa hai khái niệm đào tạo và bồi dưỡng: Đào tạo dùng
để chỉ một quá trình lâu dài trong một khoảng thời gian nhằm trang bị cho người
học một hệ thống kiến thức, kĩ năng về một lĩnh vực nhất định; Bồi dưỡng thường
để chỉ các khoá học ngắn hạn nhằm bổ sung và cập nhật cho người học một mảng
kiến thức hoặc một hay nhiều kĩ năng của một lĩnh vực nhất định.
ĐTBD CBCC khác với ĐTBD trong hệ thống giáo dục quốc dân ở chỗ là
công tác ĐTBD trong hệ thống giáo dục quốc dân nhằm mục đích đào tạo ra nguồn
nhân lực chung cho đất nước, trong đó bao gồm cả CBCC làm trong các cơ quan Nhà
nước đến cán bộ, nhân viên làm cho các cơng ty, doanh nghiệp …cịn công tác ĐTBD
CBCC chỉ giành cho những CBCC đang làm việc trong các cơ quan Nhà nước
Tóm lại, với các cách hiểu về chính sách cơng, về CBCC và ĐTBD ở trên, có
thể quan niệm: Chính sách ĐTBD cơng chức là hành động ứng xử của Nhà nước,

với các giải pháp, công cụ cụ thể về ĐTBD công chức nhằm mục tiêu xây dựng đội
ngũ cơng chức có đủ trình độ, năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ được giao, được đảm bảo thực hiện bởi hệ thống các văn bản
pháp luật.
Thực hiện chính sách ĐTBD CBCC là q trình đưa chính sách ĐTBD

15

Luan van


CBCC vào thực tiễn thông qua việc ban hành các văn bản, kế hoạch, chương trình
thực hiện chính sách ĐTBD; là hoạt động có tổ chức nhằm huy động mọi nguồn lực
(con người, tài chính, cơ sở vật chất) và tổ chức thực hiện chúng để hiện thực hóa
mục tiêu chính sách ĐTBD cơng chức theo ngun tắc tối ưu cả về con người, vốn
và kết quả.
Nói một cách khác, thực hiện chính sách ĐTBD CBCC là tồn bộ q trình
huy động, bố trí sắp xếp các nguồn lực để đưa chính sách ĐTBD CBCC theo một
trình tự thủ tục chặt chẽ và thống nhất nhằm đạt được mục tiêu của chính sách
ĐTBD CBCC.
1.2. Các bước tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
cơng chức
Theo tác giả Lê Chi Mai, “thực thi chính sách cơng là giai đoạn biến các ý đồ
chính sách thành những kết quả thực tế thơng qua hoạt động có tổ chức của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước nhằm đạt tới những mục tiêu đã đề ra”. [34, tr.112].
Để việc tổ chức, triển khai chính sách có hiệu quả, cán bộ, cơng chức cần phải tn
thủ quy trình thực thi chính sách với 5 bước cơ bản: 1) Xây dựng kế hoạch triển
khai thực hiện chính sách, 2) Phổ biến, tun truyền thực hiện chính sách, 3) Phân
cơng, phối hợp thực hiện chính sách, 4) Đơn đốc thực hiện chính sách, 5) Đánh giá,
tổng kết rút kinh nghiệm. Cụ thể:

Bước 1, là: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, cơng chức
Việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách ĐTBD đối với
CBCC cần được xây dựng trước khi chính sách được đưa vào cuộc sống. Các cơ
quan triển khai thực thi chính sách, Sở Nội vụ của các tỉnh, thành chính là cơ quan
chủ trì phải xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện, hướng dẫn thực hiện để
trình lên UBND tỉnh, thành phố phê duyệt. Trong bản kế hoạch cần đảm bảo 5 nội
dung sau:
- Kế hoạch về tổ chức, điều hành:
Nội dung kế hoạch gồm những dự kiến về hệ thống các cơ quan chủ trì như
Sở Nội vụ và các cơ quan phối hợp triển khai thực hiện chính sách như: Sở Tài

16

Luan van


chính, Trường Chính trị,..số lượng và chất lượng nhân sự tham gia tổ chức thực thi;
những dự kiến về cơ chế trách nhiệm của cán bộ quản lý và các cá nhân thực thi; cơ
chế tác động giữa các bộ phận thực thi chính sách.
- Kế hoạch cung cấp nguồn vật lực:
Kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực gồm dự kiến về các cơ sở kiến trúc,
trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho tổ chức thực thi chính sách; các nguồn lực tài
chính, các vật tư văn phịng phẩm… Trong các nguồn lực này thì nguồn lực tài
chính là địi hỏi khơng thể thiếu. Nguồn lực tài chính cho việc thực hiện chính sách
ĐTBD CBCC được đảm bảo từ ngân sách nhà nước và …
- Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện:
Cũng giống như những chính sách khác, việc thực thi các chính sách ĐTBD
CBCC đều có thời gian cụ thể. Khi xây dựng các kế hoạch thực thi chính sách
ĐTBD cho CBCC thì đơn vị xây dựng đều ghi rõ mốc thời gian thực hiện chính

sách cụ thể. Thậm chí trong nhiều chính sách lại có nhiều giai đoạn với những mốc
thời gian khác nhau. Các mốc thời gian thực hiện chính sách đều được xây dựng căn
cứ trên văn bản của trung ương và địa phương.
- Kế hoạch kiểm tra, đơn đốc thực thi chính sách:
Kế hoạch kiểm tra thực thi chính sách ĐTBD cho CBCC là việc dự kiến về
thời gian, nhân sự, hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát quá trình thực thi
chính sách.
- Dự kiến những nội quy, quy chế:
Nội quy, quy chế trong thực hiện chính sách ĐTBD CBCC bao gồm nội quy,
quy chế về tổ chức, điều hành; về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của các cá
nhân và các cơ quan nhà nước tham gia tổ chức điều hành chính sách; về các biện
pháp khen thưởng, kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ chức thực thi chính sách...
Trong các kế hoạch thực thi chính sách ĐTBD của tỉnh ban hành sẽ đưa ra
các nội quy và quy chế chung song trong quá trình triển khai thực hiện thì các đơn
vị sẽ căn cứ trên những nội quy và quy chế chung để xây dựng những nội quy và
quy chế riêng của đơn vị và trình lên cấp có thẩm quyền phê duyệt.
- Bước 2, là: Phổ biến, tuyên truyền chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,

17

Luan van



×