Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quản lý nhà nước về phát triển cây dược liệu từ thực tiễn huyện nam trà my, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THANH HƯNG

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN CÂY DƯỢC LIỆU
TỪ THỰC TIỄN HUYỆN NAM TRÀ MY,
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN MINH ĐỨC

HÀ NỘI, năm 2021

Luan van


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ
theo quy định và chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Quảng Nam, ngày

tháng

năm 2021


Tác giả luận văn

Lê Thanh Hưng

Luan van


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ TRONG QLNN VỀ
PHÁT TRIỂN CÂY DƯỢC LIỆU ..........................................................................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của QLNN về phát triển cây dược liệu ..............7
1.2. Nội dung QLNN về phát triển cây dược liệu .....................................................23
1.3. Phương thức QLNN về phát triển cây dược liệu ...............................................27
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến QLNN về phát triển cây dược liệu ..........................30
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN
CÂY DƯỢC LIỆU TẠI HUYỆN NAM TRÀ MY, TỈNH QUẢNG NAM ........36
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng QLNN về phát triển cây dược liệu.........36
2.2. Tình hình QLNN về phát triển cây dược liệu tại huyện Nam Trà My, tỉnh
Quảng Nam ...............................................................................................................52
2.3. Những kết quả đạt được và hạn chế, bất cập trong QLNN về phát triển cây
dược liệu tại huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam .................................................55
CHƯƠNG 3: NHU CẦU, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ QLNN VỀ PHÁT TRIỂN CÂY DƯỢC LIỆU TỪ THỰC
TIỄN HUYỆN NAM TRÀ MY, TỈNH QUẢNG NAM .......................................61
3.1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả QLNN về phát triển cây dược liệu từ thực tiễn
huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam ......................................................................61
3.2. Phương hướng nâng cao hiệu quả QLNN về phát triển cây dược liệu từ thực
tiễn huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam ...............................................................63
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về phát triển cây dược liệu từ thực tiễn

huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam ......................................................................65
KẾT LUẬN ..............................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Luan van


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Nghĩa đầy đủ

STT

Từ viết tắt

1

ANTT

An ninh trật tự

2

MTQG

Mục tiêu quốc gia

3

QLNN


Quản lý nhà nước

4

UBND

Uỷ ban nhân dân

Luan van


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Bảng

2.1

Tổ chức, doanh nghiệp thuê mơi trường rừng để trồng Sâm
Ngọc Linh

Trang

47

DANH MỤC CÁC HÌNH


Số hiệu
hình

1.1

2.1

Tên hình

Tỷ lệ các bộ phận được sử dụng của cây thuốc

Bản đồ hành chính huyện Nam Trà My

Luan van

Trang

10

37


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là quốc gia nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa nóng ẩm của
Châu Á với 3/4 diện tích phần lục địa là đồi núi, trải dài từ Bắc xuống Nam. Với
điều kiện tự nhiên như vậy đã thực sự ưu đãi cho đất nước ta một hệ thống sinh thái
rừng phong phú và đa dạng. Hiện nay xu hướng sử dụng các sản phẩm có nguồn
gốc từ tự nhiên và sàng lọc các sản phẩm đó để tìm ra các hoạt chất sinh học mới, ít

độc tính, với chi phí cho nghiên cứu phát triển thấp đang ngày càng được ưu tiên.
Với quan điểm phát triển bền vững nguồn tài nguyên dược liệu trên cơ sở sử dụng
có hiệu quả mọi tiềm năng về điều kiện tự nhiên và xã hội; phát triển dược liệu theo
hướng sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu thị trường, khuyến khích mọi thành phần
kinh tế tham gia đầu tư phát triển dược liệu, đẩy mạnh xuất khẩu dược liệu và các
sản phẩm từ dược liệu. Thực tế tại nhiều địa phương cho thấy, giá trị kinh tế đem
lại từ việc nuôi trồng dược liệu cao hơn hẳn so với các loại cây lương thực khác.
Nhiều địa phương, cây dược liệu đã trở thành cây xóa đói, giảm nghèo, và hướng
đến làm giàu.
Quảng Nam là một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm vùng Duyên Hải
Nam Trung Bộ, với tổng diện tích tự nhiên 1.043.837 ha, trong đó diện tích đất lâm
nghiệp 729.756,8 ha (về quy hoạch: rừng đặc dụng 139,895,8 ha; rừng phòng hộ:
315.812,5 ha; rừng sản xuất: 274.048,5 ha) với nhiều kiểu địa hình và tiểu khí hậu.
Tài ngun thiên nhiên thực vật cây dược liệu từ rừng vô cùng phong phú và đa
dạng, đặc biệt là sự đa dạng về số lượng cây dược liệu quý với tổng số 832 loài
thuộc 593 chi, 190 họ; trong đó có ¾ lồi là những cây dược liệu mọc tự nhiên
trong các quần xã rừng, đồi, nương rẫy và quanh làng bản, đặc biệt một số loại cây
dược liệu quý như: Sâm ngọc linh, Quế Trà My, Sa nhân, Ngũ vị tử, Giảo cổ lam,
Ba kích, Đảng sâm …
Để thực hiện được Tái cơ cấu ngành nông lâm nghiệp, phát huy những lợi
thế phát triển cây dược liệu quý của tỉnh, việc tổ chức lập Quy hoạch các vùng sản
xuất dược liệu tập trung chủ yếu ở các vùng trọng điểm của tỉnh là cần thiết. Thông
1

Luan van


qua việc lập quy hoạch này nhằm đánh giá, điều tra, phân tích hiện trạng về cây
dược liệu trên phạm vi tồn tỉnh để từ đó xây dựng các dự án đầu tư và có những
định hướng; các giải pháp cụ thể để bảo tồn và phát triển cây cây dược liệu một

cách bền vững cho giai đoạn từ nay tới năm 2025 và định hướng đến 2030, làm cơ
sở cho việc bố trí nguồn vốn đầu tư; thu hút các doanh nghiệp đầu tư chế biến và
tiêu thụ sản phẩm từ cây dược liệu góp phần đáng kể thúc đẩy sản xuất hàng hóa,
tạo thu nhập ổn định cho hàng vạn người dân sống phụ thuộc vào rừng có thu nhập
thấp vươn lên thoát nghèo, đồng thời bảo vệ rừng một cách bền vững.
Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam là vùng đất có đặc điểm tự nhiên với địa hình
đa dạng, khí hậu có độ ẩm cao là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển hệ thống thực
vật học phong phú, đặc biệt là các loại cây dược liệu. Hiện nay trên địa bàn huyện
có khoảng hơn 300 lồi dược liệu khác nhau, trong đó có nhiều cây dược liệu quý
như: Quế, Sâm Ngọc Linh, Đảng sâm, Thất diệp nhất chi hoa, Chè dây, Đương
quy, Giảo cổ lam, Kim cương (lan gấm), Sơn tra, Sa nhân,… được người dân các
xã trên địa bàn huyện Nam Trà My tìm thấy và phát triển; đồng thời những cây
dược liệu quý này đã và đang góp phần tích cực vào việc xóa đói, giảm nghèo
nhanh và bền vững đối với đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn các
xã huyện. Tuy nhiên do việc đầu tư trồng cây dược liệu chưa được chú trọng, một
số hộ nông dân trồng tự phát, trồng và chăm sóc khơng đúng khoa học kỹ thuật nên
năng suất, sản lượng thu hoạch còn rất thấp. Mặt khác do đời sống bà con cịn khó
khăn nên xảy ra tình trạng một số hộ trồng thu hoạch cây non để bán, làm ảnh
hưởng đến hoạt chất các loại cây dược liệu và có khả năng cạn kiệt nguồn cây dược
liệu quý hiếm này. Bên cạnh đó trong những năm qua nhu cầu phát triển trong nhân
dân rất lớn, tuy nhiên cây giống để cung cấp cho nhân dân cịn hạn chế. Do diện
tích trồng cây dược liệu phân bố hẹp, điều kiện sống khá đặc biệt nên rất khó trồng
và khơng phổ biến rộng rãi. Vì vậy việc bảo tồn và phát triển các loại cây dược liệu
quý này rất cần thiết, có ý nghĩa chiến lược về mặt kinh tế, xã hội và đa dạng sinh
học.
2

Luan van



Từ những phân tích, đánh giá tổng quát những mặt đã làm được trong thời
gian qua và những hạn chế, bất cập, đồng thời tiếp tục phát huy những kết quả đạt
được và đề ra các giải pháp đúng đắn để nâng cao hiệu quả hoạt động QLNN về
việc phát triển cây dược liệu tại huyện Nam Trà My. Do đó, việc chọn đề tài
“Quản lý nhà nước về phát triển cây dược liệu từ thực tiễn huyện Nam Trà My,
tỉnh Quảng Nam” có ý nghĩa quan trọng trong tình hình thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Xoay quanh đề tài quản lý nhà nước về phát triển cây dược liệu đã có một số
cơng trình nghiên cứu như:
Năm 2016, luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Thị Hải Yến, trường Đại học
Nông lâm Huế: “Nghiên cứu hiện trạng và đánh giá các mơ hình trồng cây dược
liệu tại huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình”. Trong luận văn này tác giả đã
nghiên cứu xây dựng được cơ sở dữ liệu khoa học về hiện trạng tài nguyên cây
dược liệu và đánh giá khả năng nhân rộng mơ hình trồng một số cây dược liệu chủ
yếu tại huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Luận văn thạc sĩ ngành kinh tế nông nghiệp: “Phát triển sản xuất cây dược
liệu trên địa bàn huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên” của tác giả Phó Thị Trang
Quỳnh, Trường Đại học kinh tế và quản trị kinh doanh Thái Nguyên, năm 2017.
Tác giả nghiên cứu về thực trạng phát triển cây dược liệu trên địa bàn huyện, nêu
lên quan điểm, định hướng và đề xuất một số giải pháp phát triển cây dược liệu trên
địa bàn huyện Phú Lương.
Năm 2018, đề tài tiến sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị của tác giả Lê Quang Đức,
trường Đại học kinh tế Quốc dân: “Vai trò nhà nước đối với phát triển cây dược liệu trên địa
bàn một số tỉnh miền Bắc Việt Nam”. Trong luận văn này tác giả đã nghiên cứu làm rõ cở
sở lý luận và thực tiễn về vai trò nhà nước trong phát triển cây dược liệu. Phân tích thực
trạng vai trò nhà nước đối với phát triển cây dược liệu trên địa bàn một số tỉnh miền Bắc
Việt Nam hiện nay, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế. Bên cạnh đó
luận văn đưa ra quan điểm, phương hướng và giải pháp tăng cường vai trò nhà nước
đối với phát triển cây dược liệu ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam những năm tới.
3


Luan van


Một số cơng trình nêu trên đã nghiên cứu những khía cạnh khác nhau về tình
hình phát triển cây dược liệu hiện nay. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên
cứu chuyên sâu vấn đề QLNN về phát triển cây dược liệu gắn với địa bàn cụ thể là
huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam. Các cơng trình nghiên cứu nêu trên là tài
liệu tham khảo quan trọng để tác giả thực hiện luận văn này. Do đó, đề tài này
khơng trùng lặp với các cơng trình đã cơng bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc
QLNN về phát triển cây dược liệu tại huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam, đưa ra
quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trồng, bảo tồn, sản
xuất và thương mại các sản phẩm dược liệu.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về QLNN, đánh giá tổ chức và hoạt động
QLNN về phát triển cây dược liệu.
Đánh giá hoạt động QLNN về việc phát triển cây dược liệu tại huyện Nam
Trà My.
Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp khả thi để hồn thiện cơng tác QLNN hiện
nay về dược liệu tại huyện Nam Trà My.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về QLNN đối với việc phát triển cây dược
liệu từ thực tiễn huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam. Thơng qua đó luận văn đưa
ra một số kết quả đã đạt được, đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về
phát triển cây dược liệu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu về không gian: Nghiên cứu QLNN về phát triển cây
dược liệu trên địa bàn huyện Nam Trà My.
4

Luan van


Phạm vi thời gian: Khảo sát công tác QLNN về việc phát triển cây dược liệu
từ năm 2015 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, nền
tảng tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và
Pháp luật Nhà nước ta về công tác QLNN về phát triển cây dược liệu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, tổng hợp để làm cơ sở lý luận. Sau đó dữ liệu và
thơng tin thu thập được làm nền tảng để nghiên cứu hoạt động QLNN về phát triển
cây dược liệu từ thực tiễn trên địa bàn huyện Nam Trà My.
Phương pháp tổng hợp số liệu: thông tin, số liệu hoạt động QLNN đối với
lĩnh vực phát triển cây dược liệu từ các chỉ thị, nghị quyết, các dự án phát triển cây
dược liệu của cấp trên, các báo cáo tổng kết công tác quản lý phát triển cây dược
liệu của ngành Nông nghiệp và các ngành có liên quan từ năm 2015 đến nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận, hoàn thiện pháp luật về
QLNN đối với việc phát triển cây dược liệu.
Đưa ra kết quả đạt được và tìm ra những tồn tại, hạn chế. Đồng thời đề ra
một số giải pháp cụ thể nhằm thực hiện tốt công tác QLNN về phát triển cây dược
liệu trong điều kiện hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn đánh giá thực tiễn, từ đó đề xuất những giải pháp mới, trên cơ sở
đó xây dựng những phương án, kế hoạch về công tác QLNN về việc phát triển cây
dược liệu tại địa phương trong thời gian đến hiệu quả hơn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm cơ sở lý luận cho các cơ
quan nhà nước, các nhà làm luật trong việc hoạch định chính sách, sửa đổi, bổ
sung, ban hành mới pháp luật liên quan đến phát triển cây dược liệu. Luận văn
5

Luan van


cũng làm tài liệu tham khảo công tác nghiên cứu, giảng dạy cho những ai quan tâm
đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý trong QLNN về phát triển cây
dược liệu.
Chương 2: Thực trạng QLNN về phát triển cây dược liệu tại huyện Nam Trà
My, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về
phát triển cây dược liệu từ thực tiễn huyện Nam Trà My, tỉnh Quảng Nam.

6

Luan van


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ TRONG QLNN VỀ PHÁT

TRIỂN CÂY DƯỢC LIỆU
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của QLNN về phát triển cây dược liệu
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của quản lý nhà nước về phát triển cây dược
liệu
Để đưa ra các kiểu về QLNN về phát triển cây dược liệu là gì trước hết cần
làm rõ một số khái niệm sau:
Khái niệm cây dược liệu
Trong lịch sử phát triển có rất nhiều khái niệm về cây dược liệu được đưa ra:
Xuất phát từ định nghĩa của y học cổ truyền được thực hiện bởi một nhóm các
chuyên gia từ các khu vực châu Phi năm 1976 thì cây dược liệu một khái niệm
được hiểu “Là nguyên liệu tự nhiên có nguồn gốc thực vật, động vật, khoáng vật và
vi sinh vật dùng để điều chế thành thuốc chín và các dạng bào chế, cung cấp
nguyên liệu cho ngành dược.”
Cũng có một số tài liệu cho rằng: “Cây dược liệu là loại cây thuốc thuộc
đông y, là một nguyên liệu không thể thiếu trong y học cổ truyền, và hơn thế, trong
bối cảnh hội nhập, cây dược liệu còn là đầu vào của các cơng nghệ sản xuất thuốc
tây y.
Trong giáo trình cây dược liệu, Vũ Tuấn Minh lại lý giải về khái niệm cây
dược liệu: “Cây dược liệu là những loài thực vật có tác dụng dùng để chữa bệnh
hoặc bồi bổ cơ thể khi con người sử dụng”. Việc dùng thuốc trong nhân dân ta đã
có từ lâu đời. Từ thời nguyên thuỷ, tổ tiên chúng ta trong lúc tìm kiếm thức ăn, có
khi ăn phải chất độc phát sinh nơn mửa hoặc rối loạn tiêu hố, hoặc hơn mê có khi
chết người, do đó cần có nhận thức phân biệt được loại nào ăn được, loại nào có
độc khơng ăn được”.
Kinh nghiệm dần dần tích lũy, khơng những giúp cho lồi người biết lợi
dụng tính chất của cây cỏ để làm thức ăn mà còn dùng để dùng làm thuốc chữa
bệnh, hay dùng những vị có chất độc để chế tên thuốc độc dùng trong săn bắn hay
7

Luan van



trong lúc tự vệ chống ngoại xâm. Lịch sử nước ta cho biết ngay từ khi lập nước
nhân dân ta đã biết chế tạo và sử dụng tên độc để chống lại kẻ thù.
Như vậy, việc phát minh ra thuốc đã có từ thời thượng cổ, trong q trình đấu
tranh với thiên nhiên, tìm tịi thức ăn mà có được. Nguồn gốc tìm ra thức ăn,
thuốc và cây có chất độc chỉ là một. Về sau dần dần con người mới biết tổng kết và
đặt ra lý luận. Hiện nay đi sâu và tìm hiểu những kinh nghiệm trong nhân dân Việt
Nam cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới, con người đã sử dụng hàng vạn
loài thực vật để làm thuốc. Trong quá trình chữa bệnh bằng kinh nghiệm và hiểu biết
của con người, đến ngày nay đã hình thành các khuynh hướng khác nhau, chúng ta
có thể phân biệt hai loại người làm thuốc. Một loại chỉ có kinh nghiệm chữa bệnh,
khơng biết hoặc ít biết lý luận. Kinh nghiệm đó cứ cha truyền con nối mà tồn tại, mà
phát huy. Những người có khuynh hướng này chiếm chủ yếu tại các vùng dân tộc ít
người. Khuynh hướng thứ hai là những người có kinh nghiệm và có thêm phần lí
luận, những người này chiếm chủ yếu ở thành thị và những người có cơ sở lí luận cho
rằng vị Thần Nông là người phát minh ra thuốc. Truyền thuyết kể rằng: “Một ngày
ơng nếm 100 lồi cây cỏ để tìm thuốc, ơng đã gặp phải rất nhiều lồi cây có độc nên
có khi một ngày ngộ độc đến 70 lần”, rồi soạn ra sách thuốc đầu tiên gọi là
“Thần Nơng bản thảo”. Trong bộ này có ghi chép tất cả 365 vị thuốc và là bộ sách
thuốc cổ nhất Đông Y (chừng 4000 năm nay).
Như vậy, các khái niệm trên đều thống nhất với nhau là cây dược liệu là một
loại cây thuốc; được sử dụng cho việc chế biến thành các loại thuốc cho đông y và cả
tây y; được sử dụng để làm thuốc chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của con người. Vì
thế có thể nói: Cây dược liệu là những lồi thực vật dùng để làm thuốc chữa bệnh
hoặc bồi bổ cơ thể khi con người sử dụng.
Phát triển cây dược liệu
- Phát triển về quy mô cây dược liệu
Quy mô của cây dược liệu phản ánh độ lớn của khu vực (hộ, doanh nghiệp)
trồng cây dược liệu. Chỉ tiêu phản ánh quy mô cây dược liệu được đo bằng giá trị

và hiện vật.
8

Luan van


Quy mô về giá trị cây dược liệu được đo lường thơng qua chỉ tiêu giá trị sản
lượng, tính bằng đơn vị tiền tệ. Quy mô về hiện vật được đo lường thơng qua diện
tích trồng cây dược liệu, sản lượng cây dược liệu thu hoạch được.
Phát triển về quy mô cây dược liệu thể hiện sự gia tăng về giá trị sản lượng
hoặc gia tăng diện tích, gia tăng sản lượng cây dược liệu năm sau so với năm trước,
thời kỳ sau so với thời kỳ trước.
Các hộ, doanh nghiệp có quy mơ trồng dược liệu lớn thường có ưu điểm về
khả năng áp dụng các thành tựu khoa học và cơng nghệ vào sản xuất, về tính chất
chun mơn hóa trong kinh doanh và khả năng cạnh tranh của khu vực (hộ, doanh
nghiệp) đó. Tuy nhiên, các ưu việt của khu vực (hộ, doanh nghiệp) chỉ phát huy
trong điều kiện trình độ của chủ khu vực (hộ, doanh nghiệp) ở mức độ thích ứng,
các hoạt động quản trị kinh doanh được triển khai bài bản. Các hộ, doanh nghiệp có
quy mơ nhỏ thường có ưu việt trong sự thích ứng của nền kinh tế thị trường và phù
hợp với trình độ phát triển ở mức độ thấp, trong giai đoạn đầu phát triển. Tuy
nhiên, sức cạnh tranh của các khu vực (hộ, doanh nghiệp) quy mô nhỏ ở mức độ
thấp; khả năng áp dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ hạn chế.
Một là, với quy mơ canh tác nhỏ, thì u cầu đầu tư cho đầu vào thấp nhưng
lại tạo thu nhập thấp và chỉ cung cấp cho thị trường khu vực. Theo các nghiên cứu
trước, đối với nông dân trồng canh tác cây dược liệu, nên kết hợp việc trồng cây
dược liệu với nuôi trồng các loại cây con khác phù hợp nhằm đa dạng hóa sinh thái,
tạo ra điều kiện phát triển tốt, phù hợp hơn cho sự phát triển của cây dược liệu nâng
cao sản lượng và chất lượng, đồng thời, cũng có thêm thu nhập từ các loại cây
trồng kết hợp nhằm tăng thu nhập để từ đó mở rộng quy mô.
Hai là, canh tác theo qui mô lớn, trồng và phát triển cây dược liệu trên diện

rộng, phát triển quy mô lớn trồng dược liệu cho thị trường xuất khẩu. Nguồn vốn
đầu tư sẽ khá lớn nhưng lại tạo ra được hiệu quả kinh tế cao hơn, góp phần cải
thiện đời sống cho người dân nông thôn.
Theo thống kê của tổ chức y tế thế giới (WHO), trong số khoảng 250.000
lồi thực vật đã biết, hiện có 35.000 lồi thực vật được sử dụng làm thuốc ở các
9

Luan van


mức độ khác nhau tại các quốc gia. Có khoảng 2500 cây thuốc được bn bán trên
thế giới, có ít nhất 2000 cây thuốc được sử dụng ở Châu Âu, 1543 cây thuốc được
sử dụng ở Đức, 1700 cây ở Ấn Độ, 5000 cây ở Trung Quốc. có đến 90% loài
thảo dược được thu hái hoang dại, nhưng nguồn cây thuốc tự nhiên ngày càng cạn
kiệt. Các bộ phận dùng của cây thuốc cũng đa dạng. Tỷ lệ các bộ phận dùng được
thể hiện ở biểu đồ sau:
Hình 1.1: Tỷ lệ các bộ phận được sử dụng của cây thuốc

Nguồn: Cục quản lý y dược cổ truyền, Bộ Y tế (2017)
Hiện nay, chỉ có vài trăm loại cây thuốc được trồng trọt, khoảng 20 - 50 loài
được trồng ở Ấn độ, 100 - 250 loài ở Trung Quốc, 40 loài ở Hungari, 130 - 140 loài ở
Châu Âu. Phương pháp trồng truyền thống đang dần được thay thế bởi phương pháp
trồng công nghiệp, ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của nguồn nguyên liệu này.
Theo thống kê của Viện Dược liệu - Cây thuốc Việt Nam, rừng Việt Nam với
hơn 7.000 lồi được mơ tả thì có tới 3.830 lồi có dược tính được sử dụng làm
thuốc. Trong đó, có những cây thuốc và một số động vật lồi q hiếm chữa được
những bệnh nan y và cũng là nguồn nguyên liệu phong phú để phát triển công
10

Luan van



nghiệp dược phẩm. Trong gần 1.000 loài được khai thác thì có tới 500 - 700 lồi là
sản phẩm từ rừng thuộc các tỉnh miền núi. Trong y học cổ truyền đã sử dụng 136 vị
thuốc thì đã có 52 vị thuốc chủ yếu sử dụng nguồn dược liệu trong nước và khai
thác từ rừng tự nhiên.
Hầu hết các quốc gia đã biên soạn các chuyên khảo về cây thuốc trên quy
mơ tồn quốc hoặc vùng lãnh thổ. Nhiều cơng trình nghiên cứu cây thuốc của các
nước được sử dụng rộng rãi và có giá trị khoa học thực tiễn lớn. Điều tra, đánh giá
nguồn tài nguyên cây thuốc được coi là có nhiệm vụ trọng tâm của tất cả các quốc
gia.
Cho đến nay nhiều tài liệu quý ghi chép kinh nghiệm sử dụng của người xưa
vẫn còn lưu truyền tại Trung Quốc - quốc gia có truyền thống lâu đời trong việc sử
dụng cây cỏ để trị bệnh. Trong tập “Thần nông bản thảo” chỉ rõ khoảng 5000 năm
trước đây người Trung Hoa cổ đại đã sử dụng 365 vị thuốc và cây thuốc để phòng
và chữa bệnh. Vào đời nhà Hán (năm 168 trước CN) trong cuốn sách “Thủ Hậu cấp
phương”, tác giả thống kê 52 đơn thuốc trị bệnh từ các loài cây cỏ. Tới giữa thế kỷ
XVI, Lý Thời Trân thống kê 1.200 vị thuốc trong tập “Bản thảo cương mục”. Các
tài liệu cổ xưa về sử dụng cây thuốc cũng được người Ai Cập cổ đại ghi chép cách
đây khoảng 3600 năm trước với 800 cây thuốc và trên 700 bài thuốc. Người Ấn Độ
cổ đại cách đây 2000 năm để lại tài liệu về công dụng của cây cỏ làm thuốc của
người Hindu. Các nhà thực vật người Pháp được coi là những người đầu tiên của
Châu Âu nghiên cứu về thực vật Đông Nam Á, với họ sau những cánh rừng nhiệt
đới còn tiềm ẩn rất nhiều giá trị. Vào những năm đầu thế kỷ XX, trong chương
trình nghiên cứu về thực vật Đơng Dương, Perry cơng bố 1.000 lồi cây và dược
liệu tại Đông Nam Á đã được kiểm chứng và gần đây (1985) tổng hợp thành cuốn
sách “Medicinal Plants of Eats and Southeast Asia”,..v.v.
- Phát triển về cơ cấu cây dược liệu
Về khái niệm, cơ cấu cây dược liệu là tỷ lệ các loại cây dược liệu.
Việc đo lường cơ cấu cây dược liệu được thực hiện bằng cách tính tỷ lệ phần

trăm giữa quy mơ diện tích, sản lượng, đóng góp GDP của một loại cây dược liệu
11

Luan van


với tổng quy mơ diện tích, sản lượng, đóng góp GDP trồng cây dược liệu.
Sự phát triển cơ cấu cây dược liệu là sự thay đổi về tỷ lệ phần trăm các loại
cây dược liệu.
Như phần trên đã nói, có thể phân loại cây dược liệu theo nhiều cách khác
nhau dựa vào thời gian trồng và thu hoạch cây dược liệu để phân loại cơ cấu cây
dược liệu thành cây trồng lâu năm và cây trồng ngắn ngày.
- Chất lượng, hiệu quả cây dược liệu
Phát triển cây dược liệu không chỉ là sự tăng về quy mô, biến đổi cơ cấu mà
cịn là q trình nâng cao chất lượng và hiệu quả của cây dược liệu.
“Chất lượng” là một phạm trù phức tạp và có nhiều định nghĩa khác nhau.
Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, với mục đích khác nhau nên có nhiều quan điểm về
chất lượng khác nhau. Tuy nhiên, có một định nghĩa về chất lượng được thừa
nhận ở phạm vi quốc tế, đó là định nghĩa của Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế.
Theo điều 3.1.1 của tiêu chuẩn ISO 9000:2005 định nghĩa chất lượng là: “Mức độ
đáp ứng các yêu cầu của một tập hợp có đặc tính vốn có”.
Chất lượng là khái niệm đặc trưng cho khả năng thoả mãn nhu cầu của khách
hàng. Vì vậy, sản phẩm hay dịch vụ nào không đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng thì bị coi là kém chất lượng cho dù trình độ cơng nghệ sản xuất ra có hiện đại
đến đâu đi nữa. Đánh giá chất lượng cao hay thấp phải đứng trên quan điểm người
tiêu dùng. Cùng một mục đích sử dụng như nhau, sản phẩm nào thoả mãn nhu cầu
tiêu dùng cao hơn thì có chất lượng cao hơn. Yêu cầu của khách hàng đối với sản
phẩm hay dịch vụ thường là: tốt, đẹp, bền, sử dụng lâu dài, thuận lợi, giá cả phù hợp.
Trên quan niệm đó, chất lượng cây dược liệu là khả năng thỏa mãn nhu cầu
của người sử dụng cây dược liệu vào việc sản xuất, chế biến dược liệu, phục vụ cho

hoạt động chữa bệnh. Tùy đặc tính cây dược liệu, người sử dụng có thể sử dụng
trực tiếp cho nhu cầu bảo vệ và chăm sóc sức khỏe, cũng có thể sử dụng cây dược
liệu để chế biến thành dược phẩm. Dù thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng như thế
nào chất lượng cây dược liệu cũng phải có đặc tính thỏa mãn nhu cầu với giá cả
phù hợp.
12

Luan van


Cùng với chất lượng, phát triển cây dược liệu còn bao hàm tính hiệu quả.
Theo Vũ Cao Đàm cùng các cộng sự (2011) hiệu quả của chính sách là những lợi
ích mà một chính sách mang lại cho tồn hệ thống. Lợi ích mà một chính sách đem
lại cho tồn hệ thống thể hiện trên 2 mặt kết quả dương tính với mục tiêu và biến
đổi xã hội dương tính. Nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng, có nhiều cách tiếp cận xem
xét hiệu quả của chính sách như hiệu quả kinh tế, hiệu quả văn hóa và hiệu quả xã
hội:
Hiệu quả kinh tế là hiệu quả có thể tính được thành tiền. Quan điểm này
tương đồng với quan điểm mà Nguyễn Thị Ngọc Huyền, Đoàn Thị Thu Hà (2010)
đưa ra - hiệu quả là kết quả so với chi phí. Tuy nhiên một số học giả khác lại sử
dụng quan điểm chi phí/lợi ích để phản ánh hiệu quả kinh tế (Bùi Tôn Hiến, 2015).
Hiệu quả xã hội là loại hiệu quả thể hiện trên lối sống, phong tục tập quán,
quan hệ giữa con người trong xã hội. Vũ Cao Đàm cùng các cộng sự (2011) thừa
nhận rằng đánh giá hiệu quả văn hóa chỉ có thể phân tích định tính. Hiệu quả văn
hóa xem xét, phản ánh những hệ lụy về biến đổi xã hội của chính sách. Hiệu quả xã
hội là một loại hiệu quả xem xét tới những hệ lụy của biến đổi xã hội rộng hơn về
cấu trúc, trật tự xã hội, hiệu quả an ninh và quốc phòng....
Đối với sự phát triển cây dược liệu, hiệu quả có thể xem xét dưới góc độ
kinh tế - xã hội. Nó khơng chỉ thể hiện ở kết quả so với chi phí mà cịn được xem
xét dưới góc độ giải quyết việc làm, tăng thu nhập của người trồng cây dược liệu.

Vì thế, hiệu quả phát triển cây dược liệu là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả sản
xuất kinh doanh, thu nhập, đời sống và việc làm của các người dân trồng cây dược
liệu.
Kết quả sản xuất kinh doanh ngày càng tăng, thu nhập từ trồng cây dược liệu
ngày càng tăng, đời sống của người trồng cây dược liệu ngày càng tăng và việc làm
của người trồng cây dược liệu ngày càng được bảo đảm sẽ phản ánh sự phát triển
cây dược liệu về mặt hiệu quả.
Dựa trên cơ sở lý luận về phát triển, chúng ta có thể quan niệm phát triển
cây dược liệu là sự tăng tiến về quy mô, sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu giống,
13

Luan van


mùa vụ và chất lượng cây dược liệu. Sản phẩm sản xuất ra có thị trường tiêu thụ ổn
định, phù hợp với nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Như vậy phát triển
cây dược liệu bao hàm sự biến đổi về số lượng và chất lượng. Sự thay đổi về số
lượng đó là sự tăng lên về quy mơ diện tích, sản lượng và tăng tỷ trọng trong ngành
sản xuất cây dược liệu trong tổng giá trị ngành nơng nghiệp và trồng trọt. Sự tăng
quy mơ diện tích và sản lượng trong tương lai phải phù hợp với đặc điểm của vùng,
địa phương hay tỉnh. Mở rộng diện tích trồng cây dược liệu phải đảm bảo lợi ích
chung của tồn xã hội và lợi ích của người sản xuất cây dược liệu. Hiện nay diện
tích sản xuất cây dược liệu nói chung của nước ta cịn rất thấp, do vậy việc tăng
diện tích, sản lượng cây dược liệu là cần thiết. Xong sản xuất trong điều kiện kinh
tế thị trường thì phải chú ý đến quy luật cung cầu, giá cả, quy luật cạnh tranh thì
sản xuất mới mang lại hiệu quả và phát triển sản xuất mới đảm bảo tính bền vững.
Như vậy, phát triển cây dược liệu là một q trình tăng tiến về quy mơ và
năng suất cây dược liệu.
Sự phát triển cây dược liệu còn thể hiện sự phù hợp về cơ cấu giống phục vụ
cho việc sản xuất, chế biến. Không những đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng trong

nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu. Ngoài sự tiến bộ về tổ chức sản xuất, tiêu thụ,
chế biến thì lợi ích xã hội, môi trường do phát triển sản xuất cây dược liệu mang lại
cũng là biểu hiện của sự phát triển.
Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, nhiều lĩnh vực
khác nhau. Theo quan điểm của điều khiển học thì quản lý là điều khiển, chỉ đạo
một hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt
được những mục đích đã định trước.
Khái niệm này có thể tóm lượt lại như sau:
Quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến các đối tượng
quản lý. Quản lý xuất hiện bất kì ở nơi nào, lúc nào nếu nó có hoạt động chung của
con người.
14

Luan van


Mục đích, nhiệm vụ của quản lý là điều khiển, chỉ đạo hoạt động chung của
con người, phối hợp các hoạt động riêng lẽ của từng cá nhân tạo thành một hành
động thống nhất của tập thể để hướng đến mục tiêu đã định trước.
Quản lý được thực hiện bằng quyền lực và tổ chức nhằm đảm bảo sự phục
tùng và tạo sự thống nhất trong quản lý. Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức,
có định hướng, có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý
để chỉ huy, điều khiển, liên kết các yếu tố tham gia vào hoạt động thành một chỉnh
thể thống nhất, điều hoà hoạt động của các khâu một cách hợp quy luật nhằm đạt
đến mục tiêu xác định trong điều kiện biến động của môi trường.
QLNN là sự tác động của các chủ thể có quyền lực nhà nước bằng pháp luật
đến các đối tượng được quản lý nhằm thực hiện các chức năng và chức năng đối
ngoại của nhà nước. Chủ thể của hoạt động QLNN gồm: cơ quan nhà nước, cá
nhân được ủy quyền thực hiện hoạt động QLNN. Hoạt động quản lý hiện nay được

thực hiện trên các lĩnh vực là lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các
chức năng đối với hoạt động QLNN.
Khái niệm QLNN về phát triển cây dược liệu
Trên thực tế, chưa có một khái niệm nào chuẩn xác liên quan đến QLNN đối
với việc phát triển cây dược liệu. Vì vậy, để dễ hình dung được nội hàm của cụm từ
này, chúng ta đi từ khái niệm QLNN.
QLNN về phát triển cây dược liệu là nói đến những hoạt động của bộ máy
Nhà nước nhằm đảm bảo cho những hoạt động liên quan đến dược liệu phù hợp với
xu thế phát triển chung của xã hội cũng như đem lại sự thiết thực đối với việc bảo
vệ và chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Với vai trò là thiết chế trung tâm trong hệ
thống chính trị, nhà nước đại diện cho nhân dân, đảm bảo cho mọi người được thực
hiện các quyền cơ bản của mình, trong đó quyền được chăm sóc sức khỏe. Quyền
được chăm sóc sức khỏe là một trong những quyền cơ bản của con người, được ghi
nhận trong pháp luật quốc tế và pháp luật của mỗi quốc gia. Hiến chương của Tổ
chức y tế thế giới (WHO) năm 1946 đã ghi: “Bảo vệ sức khỏe là quyền cơ bản của
mọi người, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, quan điểm chính trị, điều kiện kinh
15

Luan van


tế hay xã hội”. Trong giai đoạn hiện nay, nhà nước đóng vai trị hết sức quan trọng
trong việc quản lý đối với phát triển cây dược liệu với nhiều khía cạnh, vấn đề liên
quan đến dược liệu.
Qua những vấn đề nêu trên, chúng ta có thể hiểu QLNN đối với phát triển
cây dược liệu là tổng thể những hoạt động của bộ máy nhà nước trên cơ sở những
quy định của pháp luật đảm bảo cho các hoạt động về trồng, bảo tồn và phát triển
cây dược liệu đồng thời chịu sự điều chỉnh thống nhất của pháp luật. Nhìn tổng
quát, khái niệm QLNN về phát triển cây dược liệu có thể được hiểu như sau:
QLNN về phát triển cây dược liệu là tác động có tổ chức và được điều chỉnh

bằng pháp luật trên cơ sở quyền lực nhà nước đối với các hoạt động về phát triển
cây dược liệu do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện nhằm định hướng
trồng, bảo tồn, thu hái, khai thác và phát triển các loại cây dược liệu.
Cách hiểu trên chỉ mang tính tương đối về QLNN đối với phát triển cây
dược liệu nhưng xét trên phương diện điều khiển học có thể được coi là khá hồn
chỉnh khi đã xác định được chủ thể quản lý, khách thể của hoạt động quản lý, đối
tượng của hoạt động quản lý.

 Đặc điểm của QLNN về phát triển cây dược liệu
Thứ nhất, chủ thể của hoạt động quản lý: Chủ thể của quản lý là các cơ quan
nhà nước trong bộ máy nhà nước quản lý chuyên ngành liên quan đến cây dược
liệu - một bộ phận của bộ máy nhà nước được trao quyền về quản lý những hoạt
động liên quan đến phát triển cây dược liệu.
Thứ hai, khách thể của hoạt động quản lý: là các quan hệ xã hội chịu sự tác
động hay sự điều chỉnh của chủ thể quản lý liên quan đến hành vi của con người và
các q trình xã hội có mối liên quan đến hoạt động về cây dược liệu.
Thứ ba, đối tượng của hoạt động quản lý: tất cả những tổ chức, cá nhân…
thực hiện những hoạt động liên quan đến phát triển cây dược liệu.
Thứ tư, mục đích của hoạt động quản lý: Phát huy mọi nguồn lực, tạo ra một
cơ chế hợp lý cho các hoạt động về dược liệu, đảm bảo quyền phát triển, khai thác
cây dược liệu.
16

Luan van


Từ đó, cần rút ra một số vấn đề khi nói đến QLNN về phát triển cây dược
liệu là:
Một là, nhà nước là người tổ chức và quản lý các hoạt động liên quan đến
dược liệu trong điều kiện nền kinh tế thị trường

Nền kinh tế thị trường có những đặc trưng mang tính phức tạp, năng động và
nhạy cảm. Vì vậy, hoạt động quản lý về phát triển cây dược liệu địi hỏi phải có
một chủ thể có tiềm lực về mọi mặt để đứng ra tổ chức và điều hành, chủ thể ấy
khơng ai khác chính là Nhà nước, vừa là người quản lý, vừa là người tổ chức các
hoạt động liên quan đến phát triển cây dược liệu. Để hồn thành sứ mệnh của mình,
Nhà nước phải đề ra pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch,…và
sử dụng các công cụ này để tổ chức và quản lý các hoạt động về phát triển cây
dược liệu.
Hai là, hệ thống cơng cụ như pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch… phát triển cây dược liệu là cơ sở, công cụ để nhà nước tổ chức và quản
lý các hoạt động liên quan đến phát triển cây dược liệu.
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường các hoạt động liên quan đến phát
triển cây dược liệu diễn ra hết sức phức tạp với sự đa dạng về chủ thể, về hình thức
tổ chức và quy mô hoạt động. Bởi vậy sự quản lý của nhà nước cũng phải đảm bảo
cho những hoạt động về phát triển cây dược liệu có tính tổ chức cao, ổn định, cơng
bằng và có tính định hướng rõ rệt. Nhà nước phải ban hành pháp luật, đề ra các
chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nhằm phát triển ngành nơng nghiệp
nói chung và phát triển cây dược liệu nói riêng và bằng những công cụ tác động
vào các hoạt động phát triển cây dược liệu.
Ba là, QLNN đối với hoạt động phát triển cây dược liệu đòi hỏi phải Nhà
nước phải có một bộ máy mạnh, có hiệu lực, hiệu quả và đội ngũ cán bộ QLNN có
trình độ, năng lực thật sự.
QLNN đối với những hoạt động liên quan đến phát triển cây dược liệu phải
tạo được những cân đối chung, điều tiết được thị trường, ngăn ngừa và xử lý những
đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động về phát triển cây
17

Luan van



dược liệu. Và để thực hiện tốt điều này thì tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ
QLNN không thể khác hơn là phải được tổ chức thống nhất, đồng bộ, có hiệu quả
từ trung ương đến địa phương.
Bốn là, QLNN đối với những hoạt động liên quan đến phát triển cây dược
liệu cịn xuất phát từ chính nhu cầu khách quan và sự gia tăng vai trò của chính
sách, pháp luật trong nền kinh tế thị trường với tư cách là công cụ quản lý.
Những hoạt động về phát triển cây dược liệu là hoạt động đa dạng liên quan
đến nhiều lĩnh vực, đồng thời cũng chịu sự chi phối và tác động của nền kinh tế thị
trường. Nhất là khi nó gắn liền với sức khỏe của người dân, sự phát triển kinh tế
bền vững của địa phương nên địi hỏi phải có một hệ thống chính sách, pháp luật
hồn chỉnh, phù hợp khơng chỉ với điều kiện ở trong nước mà cịn với thơng lệ và
luật pháp quốc tế.
1.1.2. Vai trò của QLNN về phát triển cây dược liệu
QLNN đối với việc phát triển cây dược liệu là một yêu cầu tất yếu, việc
nâng cao năng lực QLNN là điều kiện rất quan trọng để đạt được những mục tiêu
mong muốn trên cơ sở phát huy tối đa những mặt tích cực của cây dược liệu trong
việc trồng, chăm sóc và phát triển cây dược liệu, đồng thời hạn chế tối thiểu những
tiêu cực do nền kinh tế thị trường, ngăn chặn những hành vi vì hám lợi mà bất chấp
lương tâm, đạo đức gây hại đến an toàn, sức khỏe của người dân. Điều này thể hiện
ở các vai trò:
Thứ nhất, vai trò định hướng
Nhà nước xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, chiến lược, đề án
phát triển về cây dược liệu của đất nước trong từng giai đoạn nhất định, khuyến
khích người dân trồng và phát triển cây dược liệu, chữa bệnh bằng y học cổ truyền
nói chung và cây dược liệu nói riêng. Xây dựng nền y học cổ truyền Việt Nam hiện
đại, khoa học, dân tộc là mục tiêu hướng đến của Đảng và Nhà nước ta. Ngày
30/10/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1976/QĐ-TTg về việc
phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm 2020 và định hướng đến
năm 2030 với các nội dung chủ yếu là: phát triển bền vững nguồn tài nguyên dược
18


Luan van


liệu ở nước ta theo hướng sản xuất hàng hóa đáp ứng nhu cầu thị trường. Nhà nước
hỗ trợ đầu tư về nghiên cứu và ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ trong
việc bảo tồn gen, khai thác dược liệu tự nhiên, trồng trọt, chế biến dược liệu và các
sản phẩm từ dược liệu. Văn phịng Chính phủ đã ban hành Thông báo số 220/TBVPCP ngày 12/5/2017 về kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại
Hội nghị toàn quốc về phát triển dược liệu Việt Nam; Ngày 19/5/2017 Chính phủ
cũng đã ban hành Nghị định số 65/2017-CP về chính sách đặc thù về giống, vốn và
công nghệ trong phát triển nuôi trồng, khai thác dược liệu;
Các loại cây dược liệu với đặc tính an tồn, gần gũi với con người ngày nay
đang được sử dụng trong chăm sóc sức khỏe đang dần trở thành xu thế. Để đáp ứng
nhu cầu đó của xã hội địi hỏi ngành nơng nghiệp có sự quan tâm đúng mực về phát
triển các loại cây dược liệu. Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư
phát triển trồng dược liệu, đẩy mạnh xuất khẩu dược liệu và các sản phẩm từ dược
liệu. Ngành y tế cần đầu tư nghiên cứu đối với những tri thức y học cổ truyền của
dân tộc như: các bài thuốc nam dược, bài thuốc gia truyền, bài thuốc dân gian. Việc
công nhận những bài thuốc có giá trị đó để người dân có ý thức hơn về những cây
thuốc xung quanh, chính vì thế mà những năm gần đây nhu cầu điều trị bệnh bằng
dược liệu ngày càng tăng.
Nhà nước thực hiện chức năng hoạch định để định hướng những hoạt động
về phát triển cây dược liệu, bao gồm các nội dung cơ bản là hoạch định chiến lược,
kế hoạch phát triển cây dược liệu, phân tích các chính sách về dược liệu, y học cổ
truyền, quy hoạch và định hướng chiến lược phát triển thị trường, xây dựng hệ
thống pháp luật có liên quan tới dược liệu, xác lập các chương trình, dự án, cụ thể
hóa chiến lược.
Thiết lập khn khổ pháp lý thông qua việc ban hành và tổ chức thực hiện
các văn bản quy phạm pháp luật về các hoạt động liên quan đến phát triển cây dược
liệu nhằm tạo ra môi trường pháp lý cho các hoạt động này.

Chức năng hoạch định giúp cho các doanh nghiệp trồng, sản xuất, kinh
doanh, và buôn bán các loại cây dược liệu có phương hướng hình thành chiến lược,
19

Luan van


kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Nó vừa giúp tạo lập môi trường sản xuất, kinh
doanh, vừa cho phép nhà nước có thể kiểm sốt hoạt động của các doanh nghiệp và
các chủ thể sản xuất, kinh doanh trên thị trường.
Thứ hai, vai trò tổ chức và phối hợp
Nhà nước bằng việc tạo lập các cơ quan và hệ thống tổ chức quản lý về phát
triển cây dược liệu, sử dụng bộ máy này để hoạch định các chiến lược, quy hoạch,
chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời sử dụng sức mạnh của bộ
máy tổ chức thực hiện những vấn đề thuộc về QLNN nhằm đưa ra chính sách quản
lý phù hợp với thực tiễn các hoạt động liên quan đến phát triển cây dược liệu.
Hình thành cơ chế phối hợp hữu hiệu giữa cơ quan QLNN về phát triển cây
dược liệu với các cấp trong hệ thống tổ chức quản lý về nông nghiệp của trung
ương, tỉnh (thành phố), và quận (huyện, thị xã).
Nhà nước tạo điều kiện, chính sách nhằm khuyến khích hỗ trợ đầu tư về
nghiên cứu và ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ trong việc bảo tồn nguồn
gen, khai thác dược liệu tự nhiên, trồng trọt, chế biến dược liệu và các sản phẩm từ
dược liệu.
Việc nghiên cứu, kế thừa các đề tài nghiên cứu khoa học liên quan đến cây
dược liệu nhằm tạo ra nguồn nguyên liệu ổn định, chất lượng. Các phương pháp
trồng, chăm sóc và khai thác các loại cây dược liệu có hoạt tính sinh học cao phục
vụ cho nhu cầu chế biến các loại thuốc trên thị trường.
Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngồi nghiên cứu
khoa học về cơng nghệ bào chế, công nghệ sinh học để sản xuất các thuốc mới; đầu
tư sản xuất nguyên liệu làm thuốc phù hợp với cơ cấu bệnh tật và nhu cầu sử dụng

thuốc của nhân dân.
Thứ ba, vai trò điều tiết các hoạt động về phát triển cây dược liệu và can
thiệp thị trường
Điều tiết các hoạt động về phát triển cây dược liệu và can thiệp về thị trường
bao gồm các mặt:
20

Luan van


×