Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

(Luận văn thạc sĩ) hủy bỏ hợp đồng theo pháp luật thương mại ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.12 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAO THỊ THÙY PHƯƠNG

HỦY BỎ HỢP ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

1

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020

Luan van


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CAO THỊ THÙY PHƯƠNG

HỦY BỎ HỢP ĐỒNG THEO PHÁP LUẬT THƯƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. NGUYỄN ĐỨC MINH

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2020

Luan van


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

CAO THỊ THÙY PHƯƠNG

Luan van


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa ................................................................................................................
Lời cam đoan .................................................................................................................
Mục lục ..........................................................................................................................
Danh mục các cụm từ viết tắt ........................................................................................

PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI ...................... 5
1.1. Khái niệm hủy bỏ hợp đồng ................................................................................. 5
1.2. Điều kiện hủy bỏ hợp đồng .................................................................................. 7
1.2.1. Chế tài hủy bỏ hợp đồng ................................................................................... 7
1.2.2. Đặc điểm của chế tài hủy bỏ hợp đồng ........................................................... 10
1.2.3. Mối liên hệ giữa hủy bỏ hợp đồng thương mại với các chế tài khác .............. 12
1.2.4. Ý nghĩa của việc áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng thương mại ..................... 18
1.3. Kết luận chương 1 .............................................................................................. 22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỦY BỎ HỢP
ĐỒNG THƯƠNG MẠI VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ...................... 23
2.1. Thực trạng pháp luật về hủy bỏ hợp đồng ......................................................... 23
2.1.1. Các căn cứ hủy bỏ hợp đồng ........................................................................... 23
2.1.2. Hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ hợp đồng .................................................... 29
2.1.3. Thủ tục hủy bỏ hợp đồng ................................................................................ 36
2.1.4. Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng ........... 39
2.2. Việc áp dụng pháp luật đối với các trường hợp hủy bỏ hợp đồng

ở Việt Nam ............................................................................................................... 46
2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hủy bỏ hợp đồng .............................. 58
2.4. Kết luận chương 2 .............................................................................................. 64
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 65
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 67

Luan van


DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

STT


Từ viết tắt

Từ đầy đủ

1

BLDS 2005

Bộ luật Dân sự năm 2005

2

BLDS 2015

Bộ luật Dân sự 2015

3

CISG 1980

Công ước của Liên hợp quốc tế về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế 1980

4

LTM 1997

Luật Thương mại năm 1997


5

LTM 2005

Luật Thương mại năm 2005

6

TAND

Tòa án nhân dân

UNIDROIT

Unidroit Principles of International
Commercial Contract 2004

7
(PICC)

(nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế 2004)

Luan van


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp đồng thương mại được đóng vai trị rất quan trọng trong nền kinh tế
hàng hóa như hiện nay, nó quyết định mối quan hệ hợp tác nhằm mục đích lợi
nhuận của thương nhân, giúp họ bảo vệ hiệu quả nhất quyền và lợi ích hợp pháp

của mình cũng như mối quan hệ cùng có lợi trong mơi trường kinh doanh. Hiện
nay, pháp luật thương mại Việt Nam có một số lượng lớn các điều luật cụ thể
cho các hoạt động kinh doanh. Nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của các
bên tham gia cũng như đảm bảo tính trung thực, thiện chí trong giao kết hợp
đồng thương mại, pháp luật Việt Nam xây dựng những quy định riêng biệt nhằm
đảm bảo thực hiện đúng các nội dung đã giao kết trong hợp đồng, giúp các bên
tin tưởng lẫn nhau, hạn chế thiệt hại trong thực tế. Qua đó các bên đều đạt được
lợi ích mình mong muốn có được từ hợp đồng.
Trên thực tế, có nhiều trường hợp hợp đồng đã ký kết, nhưng khơng đạt
được mục đích như mong đợi, xuất phát từ việc một trong các bên không thực
hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ quy định
trong hợp đồng và gây thiệt hại cho phía bên kia. Việc vi phạm hợp đồng dù ở
phạm vi lớn nhỏ khác nhau, ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến các quan hệ kinh doanh
và sự ổn định của nền kinh tế. Để bảo vệ quyền và lợi ích của các bên bị thiệt hại
trong quan hệ hợp đồng, pháp luật của các nước trên thế giới cũng như các văn
bản pháp lý quốc tế đều có những biện pháp chế tài áp dụng cho bên vi phạm.
Theo Luật Thương mại 2005, hủy bỏ hợp đồng thương mại là một trong những
chế tài nghiêm khắt nhất bởi hậu quả pháp lý khiến nhiều thương nhân tỏ ra e
ngại. Luật Thương mại 2005 và Bộ luật Dân sự đều quy định về chế tài hủy bỏ
hợp đồng. Mặc dù chế tài hủy bỏ hợp đồng trong Luật Thương mại 2005 đã khắc
phục được nhiều hạn chế của Luật Thương mại năm 1997 nhưng vẫn còn một số
quy định chồng chéo, khơng rõ ràng, thiếu tính dự báo đối với một số trường hợp

1
Luan van


xảy ra trong thực tế. Bởi những quy định của pháp luật còn chồng chéo như vậy
nên việc áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng trong thực tiễn vướng nhiều khó khăn,
nhiều trường hợp phức tạp khó giải quyết.

Căn cứ vào thực tiễn cũng như lý luận đã nêu trên, tác giả đã chọn “Hủy bỏ
hợp đồng theo pháp luật thương mại ở Việt Nam hiện nay” để làm đề tài với
mong muốn tìm hiểu rõ những quy định cơ bản của pháp luật Việt Nam về hủy
bỏ hợp đồng thương mại và thực trạng áp dụng pháp luật hiện nay để cho thấy
việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định cụ thể, rõ ràng và tiến bộ hơn
trong vấn đề này là cần thiết và cấp bách nhằm tạo ra một hệ thống cơ sở pháp lý
vững chắc và toàn diện hơn, hỗ trợ hiệu quả cho các bên trong kinh doanh,
thương mại có khả năng tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua có khơng ít nghiên cứu có liên quan đến nội dung của đề tài,
cụ thể như sau: Luận văn Thạc sĩ Luật học về “Hủy bỏ hợp đồng theo pháp luật
Việt Nam” của tác giả Dương Văn Đức (năm 2017) và có một số cuốn sách liên
quan đến đề tài này được xuất bản và làm tài liệu giảng dạy tại các trường đại
học như Cuốn sách “Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận, tập 1, tập
2” của tác giả Đỗ Văn Đại; giáo trình pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng của Hội luật gia Việt Nam; bên cạnh đó cịn có các bài báo
khoa học đăng trên tạp chí như “Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng
hợp đồng trong pháp luật Việt Nam” của PGS.TS. Đỗ Văn Đại (2010); “Vi phạm
cơ bản hợp đồng trong hệ thống pháp luật Việt Nam – Một số bất cập và phương
hướng hoàn thiện” của ThS Võ Sĩ Mạnh đăng trên tạp chí KTĐN số 67. Những
tài liệu khoa học nói trên là nguồn tư liệu rất quý giá, làm căn cứ giúp tơi có
thêm nhiều thơng tin, nhiều kiến thức quan trọng cần thiết để nghiên cứu luận
văn của mình. Các cơng trình nghiên cứu này đều đề cập khá kỹ các vấn đề
chung như lý luận về hủy bỏ hợp đồng, giải pháp hoàn thiện pháp luật thương
mại về hủy bỏ hợp đồng thế nhưng đi sâu vào chế tài hủy bỏ hợp đồng và các

2
Luan van



trường hợp xử lý hủy bỏ hợp đồng trên thực tế vẫn chưa được làm rõ. Việc lựa
chọn đề tài “Hủy bỏ hợp đồng theo pháp luật thương mại ở Việt Nam hiện nay”
để nghiên cứu nhằm làm rõ quy định của pháp luật về hủy bỏ hợp đồng và thực
tế việc giải quyết vấn đề này ở một số trường hợp cụ thể.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận văn “Hủy bỏ hợp đồng theo pháp luật
thương mại ở Việt Nam hiện nay” nhằm làm rõ thực trạng pháp luật Việt Nam
hiện hành về hủy hợp đồng trong quan hệ thương mại; từ đó đề xuất kiến nghị,
giải pháp hồn thiện pháp luật thương mại về hủy hợp đồng.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: luận văn làm rõ cơ sở lý luận của pháp luật về hủy
bỏ hợp đồng thương mại; những mặt được, hạn chế của pháp luật thương mại
hiện hành về hủy bỏ hợp đồng; tìm kiếm giải pháp hồn thiện pháp luật thương
mại về hủy hợp đồng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định về chế tài hủy bỏ hợp đồng
thương mại được quy định tại Luật Thương mại năm 2005, Bộ luật Dân sự năm
2015, Công ước của Liên hợp quốc tế về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
năm 1980 (CISG 1980) và một số quy định trong hệ thống pháp luật.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật thương mại Việt Nam về hủy bỏ
hợp đồng, có tham khảo trong sự so sánh, đối chiều với quy định của CISG
1980.
5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đánh giá các vấn đề trong khóa luận đã sử dụng các phương
pháp cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: nhằm làm sáng tỏ vấn đề lý luận cơ bản
về chế tài hủy bỏ hợp đồng; đánh giá quy định của pháp luật về hủy bỏ hợp

3

Luan van


đồng, qua đó tìm ra những điểm pháp luật quy định chưa phù hợp, cịn hạn chế,
từ đó đưa ra một số quan điểm giải quyết những điểm chưa phù hợp này.
- Phương pháp phân tích vụ việc: phân tích việc áp dụng luật, bình luận các
bản án, để đánh giá việc thực hiện pháp luật trong thực tế.
- Phương pháp so sánh: so sánh các quy định pháp luật Việt Nam với pháp
luật một số nước trên thế giới, so sánh chế tài hủy bỏ hợp đồng với một số chế
tài khác và so sánh các quy định của Luật Thương mại, Bộ luật Dân sự để làm rõ
vấn đề cần phân tích.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn sau khi hồn thiện có thể là tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, xây dựng, kiến nghị trong các văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề hủy
bỏ hợp đồng; đánh giá thực trạng và bất cập trong quá trình giải quyết vấn đề
hủy bỏ hợp đồng trên thực tế.
Luận văn cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho các doanh nghiệp khi chuẩn
bị tiến hành ký kết hợp đồng. Qua việc nghiên cứu luận văn sẽ chứng minh được
tầm quan trọng của vấn đề hủy bỏ hợp đồng thương mại qua đó đề xuất một số
giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng theo pháp luật
Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Với nội dung như trên, ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục
tài liệu tham khảo, khóa luận được kết cấu gồm 3 chương với nội dung như sau:
Chương 1: Lý luận về hủy bỏ hợp đồng thương mại
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về hủy bỏ hợp đồng thương mại
và một số kiến nghị hoàn thiện.

4
Luan van



CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ HỦY BỎ HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
1.1.

Khái niệm hủy bỏ hợp đồng
Hợp đồng là hình thức pháp lý và là phương tiện để biến các dự định hoặc

kế hoạch kinh doanh trở thành hiện thực. Về nguyên tắc, hợp đồng được giao kết
hợp pháp sẽ có giá trị pháp lý ràng buộc các bên. Khi hợp đồng có hiệu lực, các
bên phải thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận trong hợp đồng. Trên cơ sở pháp
luật khi giao kết hợp đồng, các bên tham gia phải tuân thủ các điều kiện đã cam
kết nên hợp đồng chịu sự điều chỉnh một cách chặt chẽ của pháp luật. Hợp đồng
theo nghĩa chủ quan không phải là pháp luật, nhưng sau khi được thành lập hợp
pháp thì hợp đồng sẽ phát sinh hiệu lực và có giá trị ràng buộc đối với các bên
giao kết hợp đồng. Các bên trong giao kết buộc phải thực hiện tất cả các quy
định của hợp đồng. Việc một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ
các nghĩa vụ đã cam kết sẽ dẫn đến chế tài bất lợi cho chủ thể vi phạm nghĩa vụ.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm hay nói cách khác là
bên bị thiệt hại, thông thường pháp luật các nước ln có những quy định chặt
chẽ nhằm bảo vệ quyền lợi của bên vi phạm. Bên cạnh đó chế tài đối với bên bi
phạm cũng được quy định khá nghiêm ngặt trong các văn bản pháp lý quốc tế.
Chế tài luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người có hành vi vi phạm, do đó chế
tài vừa có tính chất răn đe, vừa có tính chất trừng phạt.
Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học khơng quy định thế nào là “hủy bỏ hợp
đồng” mà thay vào quy định “hợp đồng bị hủy bỏ là hợp đồng được giao kết hợp
pháp nhưng bị coi là khơng có hiệu lực thực hiện nữa”. Hủy hợp đồng là một
trong những chế tài được quy định trong Bộ luật dân sự của Việt Nam nhằm mục
đích bảo vệ quyền lợi cho bên bị vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên không phải mọi

quyết định hủy bỏ hợp đồng cũng đều là áp dụng chế tài. Về nguyên tắc, hợp
đồng có thể bị hủy bỏ nếu các bên cùng thống nhất hủy bỏ việc thực hiện nghĩa
vụ giữa các bên trong trường hợp việc thực hiện khơng cịn phù hợp với lợi ích

5
Luan van


của các bên. Trong trường hợp này, hủy hợp đồng khơng phải là một quyết định
có tính chất trừng phạt. Mặc dù trong BLDS 2015 không quy định rõ thế nào là
chế tài hủy hợp đồng, nhưng có thể hiểu một cách khái quát rằng chế tài hủy hợp
đồng là khi một bên vi phạm những thoả thuận được nêu trong hợp đồng thì vi
phạm đó được xem là căn cứ để chấm dứt thực hiện nghĩa vụ giữa các bên hoặc
do pháp luật quy định.
Nguyên nhân dẫn đến việc áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng là các vi phạm
trong quá trình thực hiện hợp đồng. Vì thế, hợp đồng bị hủy bỏ phải là các hợp
đồng được giao kết hợp pháp và đang trong quá trình thực hiện.
Chế tài hủy hợp đồng được quy định tại Điều 423 Bộ luật Dân sự 2015.
Theo đó, “Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt
hại trong trường hợp sau đây: a) Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ
mà các bên đã thoả thuận; b) Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng;
c) Trường hợp khác do luật quy định ”. Ngồi trường hợp hủy bỏ hợp đồng và
khơng phải bồi thường thiệt hại như BLDS 2005 đã đề cập, BLDS 2015 đã bổ
sung trường hợp một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường
thiệt hại khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng. Vi phạm nghiêm
trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên
kia khơng đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng và trường hợp khác do
luật quy định theo Điểm c Khoản 1 Điều 423 BLDS 2015. Ở đây, trường hợp
khác do luật định là các trường hợp mà Bộ luật Dân sự hay luật khác có liên
quan có quy định việc hủy bỏ hợp đồng. Việc hủy bỏ trong những trường hợp

này có thể xảy ra ngay cả khi khơng có sự vi phạm của bất cứ bên nào trong hợp
đồng mà có thể do các bên khơng thể tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc vì lí do
khách quan dẫn đến mục đích giao kết hợp đồng khơng thể đạt được [25].
Căn cứ vào các phân tích cũng như quy định pháp luật vừa nêu cho thấy hủy
bỏ hợp đồng là một quy định được pháp luật công nhận. Khi một bên vi phạm
các điều khoản hợp pháp của hợp đồng thì bên cịn lại được quyền hủy bỏ hợp

6
Luan van


đồng. Nói rõ hơn, sau khi các bên trong hợp đồng đã giao kết hợp đồng hợp
pháp, các điều khoản, điều kiện, quyền và nghĩa vụ của các bên đã được thiết lập
mà có một bên vi phạm một trong những điều khoản đó thì bên cịn lại của hợp
đồng được quyền hủy bỏ hợp đồng sau khi thông báo cho bên vi phạm biết.
1.2.

Điều kiện hủy bỏ hợp đồng

1.2.1. Chế tài hủy bỏ hợp đồng

Trong hoạt động kinh doanh, thương mại, chế tài đối với vi phạm hợp đồng
thương mại theo tinh thần của LTM 2005 tại Điều 292 là biện pháp pháp lý mà
bên bị vi phạm, toà án, hay trọng tài áp dụng đối với bên vi phạm do việc không
thực hiện, thực hiện không đúng hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ theo hợp
đồng hoặc theo quy định của pháp luật liên quan. Khác với các loại chế tài pháp
lý nói chung được áp dụng với mọi hành vi vi phạm pháp luật, chế tài do vi
phạm hợp đồng thương mại chỉ được áp dụng đối với những hành vi vi phạm
những điều khoản mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Xuất phát từ
nguyên tắc tự do thỏa thuận, các bên được tự nguyện giao kết và thỏa thuận

những điều khoản trong hợp đồng để phù hợp với mục đích kinh doanh của
mình. Chính vì vậy, khi hợp đồng phát sinh hiệu lực các bên sẽ phải ràng buộc
với nhau về các quyền và nghĩa vụ đã cam kết, mọi hành vi vi phạm nghĩa vụ đã
cam kết trong hợp đồng sẽ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi hay còn
gọi là các chế tài do vi phạm hợp đồng.
Chế tài vi phạm hợp đồng được xem là hậu quả pháp lý bất lợi được pháp
luật quy định mà bên vi phạm hợp đồng phải chấp nhận và bắt buộc thực hiện vì
quyền và lợi ích của bên bị thiệt hại. Quy định về chế tài này có ý nghĩa trong
việc giao kết và thực hiện hợp đồng, nhằm ngăn ngừa sự vi phạm của các bên
tham gia hợp đồng, giúp các bên ý thức về quyền hạn và trách nhiệm của mình
khi ký kết. Trên nền tảng ý thức và trách nhiệm này thì các quan hệ dân sự mới
tồn tại ổn định góp phần làm cho kinh tế hàng hóa và thương mại của các nước
ngày càng phát triển bền vững.

7
Luan van


Theo quy định tại Điều 292 LTM 2005, các loại chế tài trong thương mại
gồm: “(1) Buộc thực hiện đúng hợp đồng; (2) Phạt vi phạm; (3) Buộc bồi
thường thiệt hại; (4) Tạm ngừng thực hiện hợp đồng; (5) Đình chỉ thực hiện hợp
đồng; (6)Hủy bỏ hợp đồng và (7) Các biện pháp khác do các bên thoả thuận
không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc
tế”.
Hủy bỏ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả hoặc một
phần các nghĩa vụ hợp đồng. Nội dung chi tiết về hủy bỏ hợp đồng sẽ được trình
bày trong các phần sau.
Bộ luật Dân sự 2015 không quy định cụ thể về khái niệm hủy bỏ hợp đồng,
cịn LTM 2005 thì tại Điều 312, pháp luật không nêu khái niệm riêng rẽ mà quy

định thơng qua việc phân biệt hủy bỏ tồn bộ và hủy bỏ một phần hợp đồng: “ 2.
Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa
vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng; 3. Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi
bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn
còn hiệu lực.”.
Mục đích từ việc phân loại như trên là nhằm đảm bảo được bản chất của chế
tài hủy bỏ hợp đồng, đảm bảo ý nguyện của các bên trong việc xác định là hủy
bỏ một phần hợp đồng và tiếp tục thực hiện phần còn lại hay hủy bỏ tồn bộ hợp
đồng. Việc ghi nhận hình thức hủy bỏ một phần hợp đồng trong luật thực định
Việt Nam là một trong những bước tiến mới trong việc điều chỉnh pháp luật
quốc gia ngày càng tương thích với pháp luật kinh doanh quốc tế, tạo một hành
lang pháp lý cho các bên trong việc giải phóng một phần nghĩa vụ mà các bên
không phải thực hiện khi xảy ra vi phạm, phần cịn lại khơng bị hủy bỏ vẫn có
hiệu lực và buộc các bên vẫn tiếp tục thực hiện.
Cùng điều chỉnh về vấn đề này, Điều 51 CISG quy định: “Nếu người bản
chỉ giao một phần hàng hóa hoặc nếu chỉ một phần hàng hóa đã giao phù hợp

8
Luan van


với hợp đồng thì các Điều 46 đến 50 sẽ được áp dụng đối với phần hàng hóa
thiếu hoặc phần hàng không phù hợp với hợp đồng” và “Người mua chỉ được
tuyên bố hủy bỏ toàn bộ hợp đồng, nếu việc không thực hiện hợp đồng hoặc một
phần hàng giao không phù hợp với hợp đồng cấu thành một sự vi phạm cơ bản
hợp đồng”.
Ví dụ:
Cơng ty A và Cơng ty B ký hợp đồng mua bán sắt (giả thiết là các quốc gia
nơi mà hai pháp nhân đặt trụ sở đều là thành viên của CISG). Trong đó, Cơng ty
A là bên cung cấp sắt theo đơn đặt hàng của Công ty B. Theo yêu cầu từ Công ty

B (giả thiết là Cơng ty A cũng đã có thư phúc đáp cam kết đảm bảo số lượng và
tiêu chuẩn do Công ty B yêu cầu), Công ty A đã giao đủ 09 tấn sắt vào ngày
03/4/2013 (đợt 1) và sẽ phải giao đủ 10 tấn sắt với tiêu chuẩn không thay đổi
như đợt 1 vào ngày 05/4/2013 (đợt 2). Tuy nhiên, đến ngày 05/4/2013, ngày giao
đợt 2, Công ty A mới giao cho Công ty B được 02 tấn so với đơn đặt hàng. Căn
cứ quy định của CISG Công ty B được quyền hủy bỏ 08 tấn sắt cịn lại và u
cầu bồi thường nhưng khơng được hủy tồn bộ hợp đồng.
Bộ luật Dân sự Pháp khơng có quy định về hủy bỏ một phần hợp đồng
nhưng thực tiễn đã chấp nhận khả năng hủy bỏ một phần hợp đồng và một tiền
Dự thảo sửa đổi Bộ luật Dân sự Pháp đã ghi nhận khả năng này như sau: “hủy
bỏ hợp đồng có thể được tiến hành chỉ đối với một phần của hợp đồng khi việc
thưc hiện hợp đồng có thể phân chia được”.
Qua đó, ta có thể thấy được sự tương thích giữa các quy định về hủy bỏ hợp
đồng trong LTM 2005 với pháp luật kinh doanh quốc tế, luật thực định của một
số nước có nền lập pháp lâu đời đủ. Theo Cơng ước viên 1980 về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế, việc quy định các biện pháp chế tài hủy bỏ hợp đồng mới
chỉ quy định quyền hủy bỏ hợp đồng của bên bị vi phạm hợp đồng. Điều 49 và
Điều 64 quy định việc người mua/ người bán có thể tuyên bố hủy hợp đồng nếu

9
Luan van


việc người bán/ người mua không thực hiện nghĩa vụ nào đó của họ trong hợp
đồng.
Cịn theo bộ ngun tắc về hợp đồng thương mại quốc tế UNIDROIT 2004,
thì lại quy định quyền được chấm dứt hợp đồng của một bên khi có sự vi phạm
hợp đồng. Tại Điều 7.3.1, mỗi bên có thể chấm dứt hợp đồng khi bên kia khơng
thực hiện nghĩa vụ của mình, nghĩa vụ ấy là một nghĩa vụ quan trọng.
Như vậy, sau khi làm rõ các quy định tại điều 312 LTM 2005 cũng như tiếp

thu các quy định của pháp luật kinh doanh quốc tế, tác giả đề xuất khái niệm hủy
bỏ hợp đồng như sau: “Hủy bỏ hợp đồng là một trong những hình thức chế tài
trong thương mại, theo đó bên bị vi phạm có quyền bãi bỏ việc thực hiện tất cả
các nghĩa vụ hợp đồng hoặc bãi bỏ thực hiện một phần hợp đồng đã có hiệu lực
khi một bên hợp đồng có hành vi vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng đến mức
khiến cho bên bị vi phạm khơng thực hiện được mục đích giao kết hợp đồng hoặc
một bên có hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp
đồng, trừ trường hợp miễn trách nhiệm được quy định trong luật”.
1.2.2. Đặc điểm của chế tài hủy bỏ hợp đồng

Hủy bỏ hợp đồng thương mại là một loại chế tài phát sinh trong quá trình
thực hiện hợp đồng thương mại. Với cách hiểu đó, chế tài hủy bỏ hợp đồng
thương mại có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, chế tài hủy bỏ hợp đồng thương mại là chế tài mang tính chất tài
sản.
Điều kiện để áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng là khi có sự xuất hiện hành vi
vi phạm hợp đồng buộc bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại hay nói cách khác
bên vi phạm phải chịu hậu quả khơng có lợi về tài sản.
Vì sao lại nói chế tài hủy bỏ hợp đồng thương mại là chế tài mang tính chất
tài sản? Bởi hậu quả mà bên vi phạm trong hợp đồng phải gánh thường là hậu
quả bất lợi, thường phải bồi thường thiệt hại bằng tài sản, do đó nó mạng tính
chất tài sản.

10
Luan van


Thứ hai, các chủ thể bị vi phạm trong quan hệ hợp đồng được quyền chọn và
áp dụng các hình thức của chế tài hủy bỏ hợp đồng vì họ là các chủ thể bị vi
phạm quyền và lợi ích mong muốn đạt được trong quan hệ hợp đồng.

Căn cứ vào hợp đồng đã được giao kết, thông thường sẽ có các điều khoản
về chế tài áp dụng nếu một trong các bên vi phạm. Khi xuất hiện hành vi vi
phạm hợp đồng, bên bị thiệt hại hay bên bị vi phạm được quyền yêu cầu bên còn
lại phải thực hiện chế tài đã quy định trong hợp đồng đã ký trước đó. Trường
hợp đã yêu cầu buộc bên vi phạm phải thực hiện chế tài mà bên vi phạm khơng
đáp ứng thì bên bị vi phạm có quyền làm đơn gửi Tòa án để Tòa thụ lý giải quyết
hay nộp đơn cho Trọng tài để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đây
là quyền của bên bị vi phạm, thông thường được quy định sẵn trong hợp đồng.
Thứ ba, chế tài hủy bỏ hợp đồng thương mại nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
của các bên trong quan hệ hợp đồng. Xây dựng chế tài hủy bỏ hợp đồng thương
mại trước hết là ngăn ngừa và hạn chế những hành vi vi phạm hợp đồng; nhằm
bồi hoàn những tổn thất đã xảy ra và trừng phạt bên vi phạm. Khi các bên tự do
thỏa thuận giao kết hợp đồng thì bất cứ hành vi vi phạm hợp đồng nào cũng phải
bị trừng phạt để bảo vệ lợi ích của chủ thể [40].
Thứ tư, các bên chỉ được áp dụng chế tài huỷ bỏ hợp đồng trong những
trường hợp nhất định. LTM 2005 quy định về vấn đề này khá giống với Bộ luật
Dân sự, đó là cả hai đều xuất phát từ sự cam kết của các bên về hành vi vi phạm,
xem nó là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng hay việc bên bị vi phạm trong hợp đồng
khơng đạt được mục đích của việc giao kết do sự vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ
hợp đồng của bên còn lại. Hủy bỏ hợp đồng có ảnh hưởng lớn đến lợi ích của các
bên khi tham gia quan hệ hợp đồng bởi vì đây là hình thức buộc các bên phải
chấm dứt việc thực hiện mọi nghĩa vụ hợp đồng, bất kể những chi phí và lợi ích
mà các bên đã bỏ ra trong quá trình thực hiện hợp đồng cho đến thời điểm hợp
đồng bị hủy. LTM 2005 quy định cụ thể hơn về mức độ nghiêm trọng của việc vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng. Bên bị vi phạm không được tự ý tạm ngừng, đình chỉ,

11
Luan van



hủy bỏ hợp đồng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác (như trường hợp
bên mua hàng có quyền ngừng thanh toán tiền hàng trong các trường hợp được
quy định tại Điều 51 LTM năm 2005)1 bên bị vi phạm chỉ có quyền đơn phương
tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng nếu trong trường hợp đã có thỏa thuận vi
phạm của bên kia là điều kiện tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng hoặc bên
kia đã có vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
1.2.3. Mối liên hệ giữa hủy bỏ hợp đồng với các chế tài khác

❖ Với chế tài bồi thường thiệt hại
Thực tế ta có thể đồng thời áp dụng hai loại chế tài bồi thường thiệt hại và
hủy bỏ hợp đồng. Theo LTM 2005, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường
theo quy định, tức chế tài bồi thường thiệt hại có thể được áp dụng cùng thời
điểm với hủy bỏ hợp đồng nếu thỏa mãn các quy định về căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Đồng thời Điều 316 LTM 2005 cũng quy định: “Một
bên không mất quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tổn thất do vi phạm
hợp đồng của bên kia khi đã áp dụng các chế tài khác”. Cụm từ “không mất
quyền” ở đây thể hiện quyền được áp dụng đồng thời chế tài bồi thường thiệt hại
và các chế tài khác mà LTM 2005 quy định trong đó có chế tài hủy bỏ hợp đồng.
Như vậy, theo quy định của LTM 2005, chế tài hủy bỏ hợp đồng có thể kết
hợp cùng với chế tài bồi thường thiệt hại. Khi một bên tuyên bố hủy hợp đồng,
chắc chắn trước đó một hành vi vi phạm đã xảy ra và có khả năng gây nên thiệt
hại trên thực tế, ảnh hưởng đến quyền lợi của bên bị vi phạm nên việc cho phép

Theo Điều 51 LTM năm 2005 quy định về việc ngừng thanh toán tiền mua hàng như sau: “Trừ trường hợp
có thoả thuận khác, việc ngừng thanh tốn tiền mua hàng được quy định như sau: Bên mua có bằng chứng về
việc bên bán lừa dối thì có quyền tạm ngừng việc thanh tốn; (2) Bên mua có bằng chứng về việc hàng hóa
đang là đối tượng bị tranh chấp thì có quyền tạm ngừng thanh tốn cho đến khi việc tranh chấp đã được giải
quyết; (3) Bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì có quyền
tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc phục sự khơng phù hợp đó;(4) Trường hợp tạm ngừng
thanh tốn theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này mà bằng chứng do bên mua đưa ra không xác thực,

gây thiệt hại cho bên bán thì bên mua phải bồi thường thiệt hại đó và chịu các chế tài khác theo quy định của
Luật này”.
1

12
Luan van


áp dụng cả hai chế tài trên cùng lúc là rất cần thiết nhằm bù đắp kịp thời những
thiệt hại mà một bên đã gánh chịu.
Có ý kiến cho rằng nên hiểu thêm việc yêu cầu bồi thường thiệt hại sẽ được
áp dụng cho bên bị tuyên hủy bỏ hợp đồng khơng có căn cứ. Với cách hiểu này
sẽ bảo vệ quyền lợi của bên bị hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp việc hủy bỏ
hợp đồng là sai và cũng đồng thời ràng buộc trách nhiệm của bên đưa ra quyết
định hủy bỏ hợp đồng, buộc họ phải trân trọng, cân nhắc kỹ khi đưa ra quyết
định hủy bỏ hợp đồng. Ở quy định trên nếu được hiểu theo cách trên sẽ phù hợp
với quy định tại Điều 316 LTM 2005, bởi quy định này cũng đã ghi nhận quyền
được áp dụng đồng thời chế tài hủy bỏ hợp đồng và bồi thường thiệt hại. Tác giả
cũng đồng ý với ý kiến trên nên hiểu theo hướng bảo vệ quyền lợi của bên bị
tuyên hủy bỏ hợp đồng. Bản chất của hủy bỏ hợp đồng là hành vi đơn phương
chấm dứt quan hệ hợp đồng của một bên khi bên kia vi phạm hợp đồng [18,
tr.46]. Như vậy, việc hủy bỏ hợp đồng thực chất chỉ giải phóng các bên khỏi
những ràng buộc về nghĩa vụ hợp đồng, mà chưa có sự ràng buộc trách nhiệm
của bên vi phạm hợp đồng. Trong khi, việc hủy bỏ hợp đồng hầu hết là do vi
phạm cam kết của hợp đồng. Hủy bỏ hợp đồng trong nhiều trường hợp sẽ làm
phát sinh thiệt hại về tài sản. Do đó, pháp luật Việt Nam quy định bên bị thiệt hại
trong hợp đồng có quyền sử dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng cũng như quyền yêu
cầu được bồi thường thiệt hại từ bên vi phạm.
❖ Với chế tài phạt vi phạm hợp đồng
Phạt vi phạm là trường hợp nếu trong hợp đồng có sự thỏa thuận thì bên bị

vi phạm có quyền u cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt vì vi phạm hợp
đồng (Căn cứ tại Điều 300 LTM 2005). Tuy nhiên khơng phải cứ có thỏa thuận
là được u cầu phạt vi phạm mà phải xem nó có thuộc trường hợp miễn trách
nhiệm được pháp luật quy định tại Điều 294 của LTM 2005 không.
Như vậy, chế tài phạt vi phạm theo pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay
là một chế tài mang tính vật chất, được áp dụng phổ biến đối với tất cả các hành

13
Luan van


vi vi phạm các điều khoản của hợp đồng, không cần tính đến hành vi đó đã gây
ra thiệt hại hay chưa gây thiệt hại. Phạt vi phạm có chức năng bổ sung thêm
quyền yêu cầu về vật chất của bên bị vi phạm và tương ứng là nghĩa vụ vật chất
của bên vi phạm, do đó, tăng cường ý thức tuân thủ hợp đồng của các bên.
Như đã phân tích ở trên, hợp đồng bị hủy bỏ thì sẽ mất hiệu lực từ thời điểm
giao kết; vậy câu hỏi đặt ra là thỏa thuận phạt vi phạm là một phần của hợp đồng
có bị triệt tiêu cùng hợp đồng hay không, tức là chúng ta đi xem xét khả năng kết
hợp giữa chế tài hủy bỏ hợp đồng và phạt vi phạm. Theo như LTM 2005 và các
văn bản có liên quan đã khơng quy định về vấn đề này. Vì thế, dễ dẫn đến cách
hiểu là khơng được phép kết hợp hai chế tài trên vì cho rằng: (i) hiệu lực của
thỏa thuận phạt vi phạm chấm dứt cùng với hiệu lực của hợp đồng và (ii) pháp
luật đã không thể hiện sự cho phép bằng một quy phạm cụ thể.
Tuy nhiên, tác giả cho rằng, thỏa thuận phạt vi phạm vẫn tồn tại mặc dù hợp
đồng đã bị hủy bỏ. Chế tài hủy bỏ hợp đồng giải phóng các bên khỏi những
quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng nhưng trong chừng mực nhất định,
không đủ để đảm bảo quyền lợi của bên bị vi phạm. Do đó, việc áp dụng chế tài
vi phạm sẽ giúp bên bị vi phạm lấy lại phần nào sự cân bằng. Tác giả xin được
dẫn ra bên dưới một số quan điểm mà tác giả ủng hộ.
Tác giả Phan Khắc Nghiêm đồng tình với quan điểm được phép kết hợp hai

chế tài này. Bởi lẽ, việc áp dụng chế tài phạt vi phạm bên cạnh chế tài bồi
thường hợp đồng khi hủy bỏ hợp đồng là hết sức cần thiết nhằm bảo vệ hợp
đồng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của bên ngay tình trong giao kết. Mục
đích của các chủ thể khi ký hợp đồng là mong muốn từ giao dịch hợp đồng họ
thu về được các lợi ích hợp pháp. Bên nào trong hợp đồng vi phạm nghĩa vụ cơ
bản của hợp đồng làm cho hợp đồng bị hủy thì phải bồi thường thiệt hại cho bên
bị vi phạm, ngoài ra việc bên vi phạm phải chịu phạt là điều có thể chấp nhận
được. Theo tơi phải xử lý vi phạm mang tính răn đe để các giao dịch thương mại
ngày càng có tính kỷ luật cao.

14
Luan van


Ủng hộ quan điểm này, “Giáo trình Pháp luật về thương mại hàng hóa và
dịch vụ” của Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng nếu xem
thỏa thuận phạt vi phạm khơng có hiệu lực từ thời điểm giao kết sẽ không phù
hợp với chức năng của chế tài phạt vi phạm và vì vậy vẫn phải được yêu cầu trả
tiền phạt vi phạm như thỏa thuận; tuy nhiên, để tránh rắc rối, bên bị vi phạm có
thể yêu cầu trả tiền phạt vi phạm trước khi hủy bỏ hợp đồng [27, tr.453].
Thực tiễn xét xử một số vụ việc cho thấy, ngay cả khi pháp luật khơng quy
định như vậy Tịa án cũng cho phép kết hợp hai chế tài trên.
Ví dụ: Bản án số 48/2007/KDTM - ST ngày 12 tháng 6 năm 2007 [40]
trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng góp vốn giữa bà Nguyễn Thị Trúc
(nguyên đơn) và Công ty cổ phần vật tư và giống gia súc Matroke (bị đơn).
Tình huống: Bà Nguyễn Thị Cúc ký với Công ty Cổ phần vật tư và giống
gia súc Matroke 04 bản thỏa thuận góp vốn đầu tư xây dựng nhà ở tại nền thuộc
Dự án Khu dân cư - thương mại - trường học “Nam-Nam Sài Gịn” ở xã Phong
Phú, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh (số 232/BTT-PP, 233/BTTPP, 234/BTT-PP, 235/BTT-PP). Thỏa thuận có nội dung: Bà Cúc nộp tiền cho
cơng ty Matroke; Công ty Matroke giao cho bà Cúc 04 nền nhà, mỗi nền nhà

450.000.000 đồng (4m x 20m), số 24 lô B1, số 23 lô B1, số 33 lô B2, số 06 lô
B5. Bà Cúc đã giao tiền đợt 1 cho 04 nền nhà là 360.000.000 đồng. Giao tiền
cho Công ty xong, bà Cúc tìm hiểu và thấy dự án khơng có tính khả thi nên đã
u cầu Cơng ty Matroke hủy 04 bản thỏa thuận với mục đích lấy lại tiền đã giao
đợt 1, tuy nhiên công ty không đồng ý trả lại tiền. Sau đó, Bà Cúc đã khởi kiện
yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về việc hủy bỏ các bản thỏa thuận.
Quan điểm của Tòa án: Khi Cơng ty Matroke khơng có bất kì vi phạm nào,
bà Nguyễn Thị Cúc yêu cầu hủy bỏ các thỏa thuận với lý do không tin tưởng vào
khả năng thực hiện dự án của Matroke và không nộp tiền đầy đủ theo tiến độ đã
thỏa thuận là vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, Công ty Matroke đã đồng ý hủy bỏ

15
Luan van



×