Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Skkn đa dạng hóa hoạt động khởi động môn địa lí 10 tại trường thpt nguyễn viết xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (921.89 KB, 33 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Với yêu cầu của xã hội thời kì hội nhập, học sinh khơng chỉ cần kiến thức
mà cịn cần có năng lực vận dụng các kiến thức đó trong thực tế. Kiến thức và
thông tin liên tục thay đổi và được cập nhật theo từng giờ, các tình huống trong
cuộc sống thì vơ cùng đa dạng. Do vậy q trình dạy và học trong nhà trường
cũng địi hỏi phải có những thay đổi để đào tạo ra những con người phù hợp với
sự phát triển của thời đại mới. Trong hoạt động giáo dục hiện nay, có một vấn
đề khiến những người làm công tác giáo dục cần suy ngẫm: học sinh thường
cảm thấy mệt mỏi, áp lực khi bắt đầu bước vào các tiết học. Tâm lí căng thẳng
đó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của q trình học tập. Quá trình dạy học trước kia
coi trọng nội dung kiến thức nên năng lực học sinh nhiều khi chưa được chú
trọng phát triển đúng mức, khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết một vấn
đề trong thực tiễn còn nhiều hạn chế, hoạt động khởi động trong mỗi bài học
chưa được chú trọng đúng mức nên chưa tạo được tâm lí hứng thú cho học sinh.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó, Đảng và Nhà nước đã có nhiều văn bản
chỉ đạo cơng tác đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục: Nghị quyết số 29 –
NQ/TW ngày 4/11/2013 hội nghị lần VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI, Nghị quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về đổi mới chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông.
Những chỉ đạo này đều thể hiện: hoạt động giáo dục và đào tạo cần phải đổi mới
cả về mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học. Một trong những khâu quan
trọng cần chú ý trong quá trình đổi mới là đổi mới hoạt động dạy học theo định
hướng phát triển năng lực của người học.
Với học sinh lớp 10 vừa bước vào cấp 3, cần hướng các em tiếp cận với
phương pháp học và hình thức kiểm tra phát huy được năng lực của mình, tạo

1

skkn




tiền đề cho việc học tập những năm tiếp theo trong nhà trường và khẳng định
được bản thân trong cuộc sống sau này.
Tại trường THPT Nguyễn Viết Xuân, quá trình đổi mới hoạt động dạy
học cũng đang được đẩy mạnh trong những năm gần đây. Nhà trường đã áp
dụng nhiều biện pháp thiết thực để đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện
giáo dục.
Việc sử dụng phương pháp mới trong dạy học cần thiết và cần được bàn
đến một cách hết sức nghiêm túc. Chúng ta cần đổi mới hoạt động dạy học và
bước đầu là thực hiện đa dạng hóa hoạt động khởi động, tạo hứng thú học tập
cho học sinh sẽ tạo tâm lí học tập để đạt kết quả cao.
So với các nghiên cứu trước đây về đổi mới hoạt động khởi động, trong
khuôn khổ sáng kiến kinh nghiệm của cá nhân, tôi hướng đến việc thực hiện đa
dạng hóa các hình thức tổ chức hoạt động khởi động đối với đối tượng học sinh
lớp 10 THPT Nguyễn Viết Xn trong mơn Địa lí.
2. Tên sáng kiến kinh nghiệm
ĐA DẠNG HÓA HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG MƠN ĐỊA LÍ 10
TẠI TRƯỜNG THPT NGUYỄN VIẾT XN
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Trương Thị Thanh Tâm
- Địa chỉ : Giáo viên Địa Lí - Trường THPT Nguyễn Viết Xuân - Huyện Vĩnh
Tường
- Số điện thoại: 0976.669.563
E - mail:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Áp dụng trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, dùng để giảng dạy môn Địa lí 10.

2


skkn


6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
Ngày 8 tháng 10 năm 2018, tại trường THPT Nguyễn Viết Xuân
7. Mô tả sáng kiến kinh nghiệm
7.1. Nội dung
7.1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ĐA DẠNG
HÓA HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ
7.1.1.1. Cơ sở lí luận
Hoạt động khởi động là giai đoạn chuẩn bị giúp học sinh cảm thấy thư
giãn và tạo tâm trạng tích cực cho việc học (theo Rushidi, 2013). Theo
Robertson & Acklam (2000), khởi động là một hoạt động ngắn cho phần mở
đầu của bài học (tr.30). Tác giả Kay (1995) tuyên bố rằng khởi động là các loại
hoạt động khác nhau giúp học sinh bắt đầu suy nghĩ, xem lại các tài liệu được
giới thiệu trước đó và quan tâm đến bài học. Lassche (2005) định nghĩa rằng
đối với bài học học ngôn ngữ, giai đoạn khởi động là định hướng ban đầu của
bài học. Còn theo từ điển tiếng Việt, khởi động được hiểu là “thực hiện những
động tác nhẹ trước khi bắt đầu”. Như vậy hoạt động khởi động được hiểu là
một hoạt động nhằm thực hiện những thao tác cơ bản, nhẹ nhàng trước khi bắt
đầu thực hiện một công việc cụ thể nào đó.
Hoạt động khởi động thường được tổ chức thơng qua hoạt động cá nhân
hoặc hoạt động nhóm sẽ kích thích sự sáng tạo, giúp học sinh hình thành năng
lực hợp tác, tinh thần học hỏi, giúp đỡ nhau khi thưc hiện nhiệm vụ. Chuẩn bị
phần khởi động như thế nào cho hiệu quả phải dựa vào nội dung bài, đối tượng
học sinh và cả điều kiện của giáo viên.
Như vậy có thể hiểu, hoạt động này chưa đòi hỏi sự tư duy cao, không
quá coi trọng về vấn đề kiến thức mà chủ yếu là tạo tâm thế tốt nhất cho các em
nhập cuộc, lôi kéo các em có hứng thú với các hoạt động phía sau đó. Nếu tổ

chức tốt hoạt động này sẽ tạo ra một tâm lý hưng phấn, tự nhiên để lôi kéo học
sinh vào giờ học. Hơn nữa, nếu càng đa dạng thì sẽ luôn tạo nên những bất ngờ
thú vị cho học sinh. Vì thế người học sẽ không còn cảm giác mệt mỏi, nhàm
3

skkn


chán, nặng nề, lo lắng như khi giáo viên kiểm tra bài cũ. Các em sẽ được thoải
mái tham gia vào hoạt động học tập mà không hề hay biết.
* Mục đích của hoạt động khởi động
Mục đích của hoạt động khởi động là dẫn vào bài học, nối liền bài cũ với
bài mới, gợi ý cho học sinh, kích thích hứng thú, làm rõ mục đích, tạo được
khơng khí học tập tích cực, sơi nổi ở học sinh. Bởi như Khổng Tử đã từng nói
“ Biết mà học, khơng bằng thích mà học, thích mà học khơng bằng vui mà học”.
Từ nội dung của câu nói và thực tế giảng dạy, tơi nhận thấy niềm vui và sự ham
thích sẽ là một động lực lớn giúp học sinh vượt qua khó khăn để vươn lên trong
học tập. Có thể nói hoạt động khởi động có vai trị như trải nệm để dẫn dắt học
sinh bước vào bài học một cách hứng thú, say mê.
Hoạt động khởi động giúp chấm dứt các hoạt động của giờ học trước hoặc
những trò chơi, cuộc nói chuyện trong lúc nghỉ giữa giờ để đảm bảo rằng học
sinh toàn tâm, toàn ý, nhập thân, hiện diện với giáo viên ngay từ khoảnh khắc
đầu tiên của giờ học. Nếu như khơng có sự tập trung chú ý thì q trình học tập
nói riêng và q trình nhận thức nói chung sẽ khơng có hiệu quả.
Hoạt động khởi động cịn là cơng cụ để kiểm tra bài cũ. Nếu giáo viên tổ
chức hoạt động khởi động hiệu quả với các trò chơi kiểm tra bài cũ như đuổi
hình bắt chữ, tình u Địa lí..., khuyến khích các em hứng thú tham gia trải
nghiệm sáng tạo đầu giờ học, khơng khí của 5 phút khởi động kiểm tra bài cũ
sẽ rất sôi nổi và ấn tượng.
Những hoạt động khởi động giúp thu hẹp khoảng cách giữa giáo viên và

học sinh và giữa học sinh với nhau. Cả lớp sẽ giao tiếp gần gũi, gắn kết nhau
hơn thông qua các trị chơi, các hoạt động trải nghiệm.
Ngồi ra việc sáng tạo trong hoạt động khởi động cũng để tìm ra biện
pháp nhằm đảm bảo hiệu quả và nâng cao chất lượng trong dạy học Địa lí ở
trường THPT. Đó cũng là hướng tiếp cận giúp học sinh mạnh dạn, tự tin trong
học tập, là cơ sở thực tiễn, là nền tảng cho việc hình thành thói quen tốt, hình
thành nhân cách cho các em trong tương lai.

4

skkn


Như vậy, hoạt động khởi động chỉ là khâu nhỏ, nhưng lại ở vào vị trí mở
đầu, có tác dụng đặt nền móng và gắn bó với các hoạt động cịn lại. Vậy nên,
người dạy khơng thể bỏ qua.
* u cầu của hoạt động khởi động
Thời gian lên lớp chỉ gói gọn trong vịng 45 phút, nên khi soạn giảng cũng
như tiến trình lên lớp người dạy thường khơng đặt sự chú ý và công phu ở bước
này. Thông thường, người dạy chỉ dành khoảng 5 phút để dẫn vào bài mới (bằng
nhiều cách). Vậy nên, yêu cầu đầu tiên của hoạt động khởi động là cần ngắn
gọn, súc tích, khái qt cao, lấy ít dẫn nhiều chứ khơng dài dòng, tùy tiện. Nội
dung hoạt động khởi động cần khái qt, cơ đọng nhưng phải phong phú. Về
ngơn ngữ thì cần trong sáng, tinh tế, súc tích.
Thứ hai, tùy vào từng bài dạy mà giáo viên có thể vận dụng và chú ý từng
yêu cầu riêng. Trong đó, có những yêu cầu sau mà người dạy cần lưu ý:
 Làm nổi bật tính mũi nhọn của bài dạy. Vì vậy, giáo viên khi thiết kế
hoạt động khởi động phải có chọn lọc về ngôn ngữ, làm sao để lời gọn mà ý sâu
chứ khơng nên dài dịng, vịng vo tạo cho học sinh cảm giác dễ hiểu, hứng thú
hứa hẹn một tiết dạy hấp dẫn, hiệu quả.

 Làm nổi bật tính quan hệ giữa các phần, giữa nội dung bài học.
 Làm nổi bật tính thú vị của hoạt động dạy học.
 Làm nổi bật tính đơn giản, dễ hiểu của ngơn ngữ.
 Làm nổi bật tính khái qt tập trung, nâng cao gợi ý.
Bởi vậy, hoạt động khởi động mang u cầu rất cao, địi hỏi người dạy
khơng được máy móc, khơ khan mà phải linh động, kết hợp nhiều biện pháp
sinh động, nhiều ý tưởng sáng tạo.
7.1.1.2. Cơ sở thực tiễn

5

skkn


a.Thực trạng hoạt động khởi động trong dạy học
Trước những định hướng đổi mới của Đảng, nhà nước và của ngành về dạy
học phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh; cơ bản giáo viên trường
THPT Nguyễn Viết Xn nói chung và giáo viên Địa lí nói riêng đã có tinh thần
đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, phát huy
tính tích cực của các em.
Tuy nhiên sự quan tâm đổi mới chưa nhiều, chưa thực sự đi vào chiều sâu;
đôi khi cịn qua loa, hình thức. Hiện nay nhiều giờ học trên lớp giáo viên cịn
gặp khó khăn khi tổ chức các hoạt động khởi động, cụ thể là:
- Trong các tiết dạy, đôi khi giáo viên bỏ qua phần khởi động bài học mà đi
thẳng vào nội dung bài.
- Giáo viên khi thiết kế kế hoạch dạy học thường chỉ làm theo hình thức giới
thiệu qua một chút để vào bài, như vậy sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian dành
cho hoạt động khai thác kiến thức mới, không lo lắng nhiều về vấn đề thiếu thời
gian, cháy giáo án… do đó tiết học tương đối khơ khan, thiên về lý thuyết và
giảng giải mà thiếu đi sự hợp tác tích cực của học sinh; ngay từ bước vào bài

học sinh đã có tâm lý thụ động chờ giáo viên dẫn dắt nội dung và truyền thụ một
chiều, từ đó sẽ khó tạo tâm lý để các em sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ một cách
tích cực ở các hoạt động tiếp theo của bài học.
- Chưa lựa chọn các nội dung phù hợp với khả năng của học sinh.
- Học sinh chưa tích cực hăng hái trong học tập. Tâm lý của học sinh nhìn
chung khơng quan tâm và hứng thú nhiều với mơn Địa lí; khi vào tiết học thì
quá trình dẫn dắt và định hướng bài học của giáo viên cịn khơ khan, chưa tạo
được sự hứng thú để thu hút các em vào bài học; việc truyền thụ kiến thức của
giáo viên còn nặng về lý thuyết, nội dung thiếu sinh động, hấp dẫn nên càng làm
cho các em ít có sự quan tâm đối với bộ mơn này hơn.
- Học sinh cịn lo sợ do áp lực kiểm tra bài cũ.
- Mức độ tiếp thu bài của học sinh khơng đồng bộ.
- Khơng khí trong giờ học còn căng thẳng.

6

skkn


Để đạt được hiệu quả học tập, bước đầu tiên cần tạo cho các em hứng thú
học tập. Giáo viên cần tạo ra một khơng khí thuận lợi cả về mặt tâm lí, khơi dậy
sự sự tị mị, muốn tìm hiểu khám phá kiến thức của học sinh.
Tại Trường THPT Nguyễn Viết Xn, đối với mơn Địa lí nói chung và Địa
lí 10 nói riêng, tơi đã áp dụng nhiều hình thức khởi động bài học nhằm tạo hứng
thú học tập cho học sinh, bước đầu thu được kết quả nhất định. Tuy nhiên, trong
q trình tổ chức vẫn cịn gặp một số khó khăn: mức độ nhận thức của học sinh
khác nhau, nhiều hoạt động khởi động cịn có những điểm chưa hợp lí, có đơi
khi hoạt động khởi động còn rời rạc, nặng về kiến thức...
Kết quả khảo sát đầu năm 2018 - 2019 của học sinh khối 10 tại trường
THPT Nguyễn Viết Xuân cho thấy mức độ hứng thú của học sinh khi bắt đầu

bài học:
* Với bài học khơng có hoạt động khởi động
Tổng

số Rất

học
lớp

hứng Hứng thú

Bình thường

sinh thú
10A4, Số

Khơng

hứng

thú
Tỉ lệ

Số

Tỉ lệ

Số

Tỉ lệ


Số

Tỉ lệ

A5, A6

lượng (%)

lượng (%)

lượng

(%)

lượng

(%)

129

1

13

51

39,5

64


49,6

0,8

10,1

*Với bài học có hoạt động khởi động
Tổng

số Rất

học
lớp

hứng Hứng thú

Bình thường

sinh thú
10A1, Số

Khơng

hứng

thú
Tỉ lệ

Số


Tỉ lệ

Số

Tỉ lệ

Số

Tỉ lệ

A2, A3

lượng (%)

lượng (%)

lượng

(%)

lượng

(%)

123

41

62


17

13,8

3

2,5

33,3

50,4

Thơng qua kết quả trên có thể thấy học sinh sẽ có tâm lí học tập tốt hơn
nếu giáo viên tổ chức các hoạt động khởi động một cách hiệu quả, phù hợp với
từng bài học cụ thể. Xuất phát từ thực tế trên, vấn đề đa dạng hóa hoạt động
khởi động càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.

7

skkn


b. Một số nguyên nhân dẫn đến hạn chế của việc đa dạng hóa hoạt động khởi
động.
Theo tơi thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có thể
chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản sau:
- Một bộ phận giáo viên chưa nhận thức đầy đủ về sự cần thiết phải đổi mới
phương pháp dạy học theo năng lực học sinh. Việc ứng dụng công nghệ thông
tin của giáo viên trong một số tình huống chưa tốt nên còn ngại trong việc đổi

mới phương pháp dạy học và thiết kế giáo án theo hướng phát huy tính tích cực
của học sinh trong hoạt động khởi động.
- Chỉ chú trọng đến nội dung bài học mà chưa chú trọng việc tổ chức hoạt
động khởi động để tạo hứng thú học tập cho học sinh. Tâm lý giáo viên còn
nặng về truyền thụ kiến thức bài học mới, còn sợ nếu dành nhiều thời gian cho
hoạt động khởi động có thể bị “cháy giáo án” hoặc khơng đủ thời gian dành cho
việc khai thác kiến thức mới.
- Việc áp dụng các hình thức khởi động hiện tại cịn hạn chế vì cơ sở vật chất,
thiết bị dạy học, hạ tầng công nghệ thông tin - truyền thông trong các nhà trường
cịn chưa đáp ứng được u cầu.
- Chương trình mơn Địa lí THPT hiện tại ở các mơn học cịn tương đối dài,
giáo viên cịn gặp khó khăn trong việc xây dựng phân phối chương trình, phân
phối thời gian cho phù hợp để dành nhiều thời gian cho hoạt động khởi động.
- Chương trình kiểm tra, thi hiện nay còn phân bố số điểm tương đối nhiều
cho việc ghi nhớ, do đó giáo viên khi dạy cịn áp lực nhiều về việc cung cấp đủ
kiến thức cho học sinh, để học sinh có đủ kiến thức cơ bản đáp ứng cho việc
kiểm tra kiến thức thường xuyên và định kì.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc tăng cường đổi mới phương
pháp dạy học, tôi thấy rằng cần trang bị nhận thức đúng đắn cho giáo viên, học
sinh, phụ huynh về đổi mới hoạt động khởi động. Khi có nhận thức đúng, quá
trình thực hiện đổi mới hoạt động dạy học sẽ đạt hiệu quả cao.

8

skkn


7.1.2. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN ĐỂ ĐA DẠNG HÓA HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG
MƠN ĐỊA LÍ 10 TẠI TRƯỜNG THPT NGUYỄN VIẾT XUÂN
7.1.2.1. Cơ sở để tiến hành đa dạng hóa hoạt động khởi động mơn Địa lí lớp


10
Để tiến hành đổi mới hoạt động khởi động mơn Địa lí lớp 10 tại trường
THPT Nguyễn Viết Xuân, tôi đã thực hiện một số nội dung sau:
- Nghiên cứu học tập các nội dung liên quan đến đổi mới PPDH, KTĐG
theo định hướng phát triển năng lực người học của Bộ Giáo dục và Sở Giáo dục
và Đào tạo Vĩnh Phúc.
- Học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp cùng trường và ở các trường khác.
- Xây dựng các biện pháp đổi mới hoạt động khởi động theo định hướng
năng lực phù hợp điều kiện thực tế tại trường THPT Nguyễn Viết Xuân.
- Tiến hành thực nghiệm, thu thập thông tin đánh giá kết quả
- Tiến hành rút kinh nghiệm, khắc phục những điểm còn hạn chế.
7.1.2.2. Các biện pháp đã thực hiện để đa dạng hóa hoạt động khởi động

mơn Địa lí 10 tại trường THPT Nguyễn Viết Xn
Trong q trình dạy học mơn Địa lí lớp 10 tại trường, tơi đã thực hiện các
biện pháp sau để đa dạng hóa hoạt động khởi động bài học:
a. Khởi động bằng các câu hỏi gắn với tình huống thực tiễn
Kết hợp thực tế có nghĩa là kết hợp thực tế giữa học sinh - giáo viên - phụ
huynh, là kết hợp giữa thực tế học tập - cuộc sống - xã hội. Kết hợp thực tế sẽ
giúp cho hoạt động dạy học thân thiết hơn, gần gũi và khoáng đạt hơn. Dùng
phương pháp này chỉ là cái “cớ” để dẫn vào bài học, vừa làm phong phú nội
dung dạy học, vừa phát huy tính tích cực ở học sinh và tính chỉ dẫn của người
dạy.
Trong q trình dạy học tơi chú trọng các câu hỏi gắn với thực tiễn để
phát huy khả năng vận dụng kiến thức kĩ năng của học sinh giải quyết các vấn

9

skkn



đề thực tế. Mặt khác, tôi đã sử dụng hệ thống các câu hỏi, bài tập gắn với tình
huống thực tế để khởi động bài học tạo sự hứng thú cho học sinh.
Các tình huống thực tiễn ln gần gũi, tạo sự tị mị để học sinh tìm cách
giải quyết, đó cũng là cách thu hút các em tìm hiểu nội dung bài mới để giải
quyết tình huống hiệu quả.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 3: SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TRONG HỌC TẬP VÀ
ĐỜI SỐNG, để tiến hành hoạt động khởi động, tôi sẽ lần lượt tiến hành theo các
bước như sau:
Bước 1: Vận dụng kiến thức đã học về bản đồ và kiến thức của bản thân, trao
đổi và thảo luận nhanh theo từng nhóm nhỏ trong thời gian 4 phút để trả lời các
câu hỏi sau:
+ Em đã sử dụng bản đồ vào những tình huống cụ thể nào?
+ Nếu em là một chủ đầu tư và xây dựng, trước khi tiến hành thi công xây
dựng cây cầu bắc qua Sơng Phó Đáy thì em cần nghiên cứu những loại bản
đồ nào? Vì sao?
Bước 2: Học sinh trao đổi nhanh với bạn trong nhóm để trả lời câu hỏi dưới sự
quan sát, định hướng của giáo viên.
Bước 3: GV chia bảng làm 6 phần, mời đại diện của các nhóm ở mỗi dãy lên ghi
trên bảng.
- Mời đại diện các nhóm giải thích vì sao lựa chọn như vậy.
- Các nhóm khác nhận xét và phản biện.
Bước 4: Giáo viên đánh giá hoạt động của học sinh; từ phần trả lời của học sinh
để dẫn dắt tạo nên tình huống có vấn đề để định hướng vào bài.
Ví dụ 2: Đối với bài 5: VŨ TRỤ. HỆ MẶT TRỜI VÀ TRÁI ĐẤT. HỆ
QUẢ CHUYỂN ĐỘNG TỰ QUAY QUANH TRỤC CỦA TRÁI ĐẤT, bài 6:
HỆ QUẢ CHUYỂN ĐỘNG XUNG QUANH MẶT TRỜI CỦA TRÁI ĐẤT, tôi
sử dụng một số câu hỏi bài tập gắn với thực tiễn để thay thế các câu hỏi tái hiện
kiến thức thông thường.


10

skkn


Bố em rất thích xem đá bóng, một trận đấu giữa đội tuyển Manchester và
Chelsea diễn ra lúc 14 giờ ngày 1/9/2018 tại thủ đô Luân Đôn (Anh).Nhà em ở
tỉnh Vĩnh Phúc, hãy tính giờ tại Vĩnh Phúc để bố em có thể xem được trận đấu
đó được truyền hình trực tiếp trên tivi?
Đáp án: Thủ đô Luân Đôn (Anh) nằm ở múi giờ số 0
Tỉnh Vĩnh Phúc (Việt Nam) nằm ở múi giờ số +7
Giờ tại Vĩnh Phúc sớm hơn giờ tại Ln Đơn 7 tiếng, do đó trận đấu sẽ được
truyền hình trực tiếp trên ti vi tại Vĩnh Phúc vào thời gian: 14 + 7= 21 giờ ngày
1/9/2018.
Ví dụ 3: Khi dạy bài 12: SỰ PHÂN BỐ KHÍ ÁP. MỘT SỐ LOẠI GIĨ
CHÍNH, GV nêu ra tình huống:
Thời tiết mấy ngày nay chuyển lạnh. Bà nội và em bé nhà em bị ho, ốm. Em bé
hỏi: Chị ơi, sao tự nhiên em thấy rét, mũi em khô quá. Em hãy giải thích cho em
bé hiểu nguyên nhân của điều này?
HS trả lời câu hỏi. GV dựa vào câu trả lời của HS để hướng dẫn vào bài học.
Khi áp dụng các câu hỏi gắn với thực tiễn, học sinh chăm chú hơn vào
việc vận dụng các kiến thức lí thuyết để giải quyết vấn đề nảy sinh trong thực
tế. Học sinh sẽ chủ động, sáng tạo hơn trong học tập và đời sống.
b. Khởi động bằng phương pháp liên tưởng loại suy
Loại suy là thuật ngữ lôgic, có nghĩa là căn cứ vào điểm tương đồng về
thuộc tính nào đó của hai đối tượng để suy ra những thuộc tính khác của chúng
cũng có thể là tương đồng ở những suy lí gián tiếp. Phương pháp liên tưởng loại
suy phù hợp với dịng ý thức thơng thường của con người, hợp lơgic, dễ được
tiếp nhận. Bởi vì, phương pháp này không chỉ gợi cho học sinh tư duy mà còn

dễ dàng khởi động vào nội dung bài mới. Đây chính là chiếc cầu nối liên tưởng
rất hiệu quả.
Ví dụ 1: GV hỏi: Đó là một dạng vật chất tồn tại trên Trái Đất từ rất lâu
đời, con người sống ở trên nó, sản xuất trên nó. Mỗi loại của vật chất này có

11

skkn


những tính chất khác nhau, tạo ra sản phẩm khác nhau. Con người khai thác nó
và có những tác động làm nó trở nên tốt hơn hay xấu đi. Đến thời điểm bây giờ,
con người vẫn chưa hoàn toàn sản xuất nơng nghiệp thiếu nó được. Đó là dạng
vật chất nào?
HS : Đất ạ.
GV: Đúng vậy. Đó chính là đất, và đất tồn tại tạo thành một lớp vỏ thành
phần của Trái Đất. Cô và các em sẽ cùng nhau tìm hiểu thành phần thứ tư của
lớp vỏ Trái Đất trong bài học ngày hơm nay. Đó là bài 17: THỔ NHƯỠNG
QUYỂN. MỘT SỐ NHÂN TỐ HÌNH THÀNH THỔ NHƯỠNG.
Ví dụ 2: GV hỏi: Đây là một ngành kinh tế không trực tiếp tham gia sản
xuất, nhưng lại không thể thiếu được để tạo ra sản phẩm và đưa hàng hóa ra thị
trường. Ngành kinh tế này tham gia cung cấp nguyên liệu, đưa sản phẩm đến nơi
tiêu thụ. Nó còn ảnh hưởng to lớn đến đời sống người dân ở mọi quốc gia. Đó là
ngành kinh tế nào?
HS: Giao thông vận tải ạ.
GV: Đúng vậy. Đây là một ngành thuộc nhóm ngành dịch vụ. Nó khơng
tạo ra sản phẩm hữu hình, sản phẩm của nó con người chỉ có thể sử dụng, đánh
giá chất lượng. Vậy, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu vai trị và đặc điểm của
ngành kinh tế này trong bài 36: VAI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM VÀ CÁC NHÂN TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN, PHÂN BỐ NGÀNH GIAO THÔNG VẬN

TẢI.
c. Khởi động bằng việc tổ chức các trị chơi
Trò chơi là hoạt đợng được các học sinh thích thú tham gia. Vì vậy nó có
khả năng lôi kéo sự chú ý và khơi dậy được hứng thú học tập. Rất nhiều trò chơi
ngoài mục đích đó còn có thể ôn tập kiến thức cũ hoặc dẫn dắt các em vào hoạt
động tìm kiếm tri thức mới một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, có những trò chơi

12

skkn


giúp các em vận động tay chân khiến cho cơ thể tỉnh táo, giảm bớt những áp lực
tâm lý do tiết học trước gây ra.
Việc tổ chức “trò chơi” trong các giờ dạy Địa lí khơng chỉ nhằm mục đích
giải trí cho học sinh mà điều quan trọng là thông qua các trò chơi sẽ tạo nên một
không khí hăng say học tập, một không khí làm việc nghiêm túc để đi tìm những
kiến thức Địa lí. Qua các trò chơi các em vừa có thể độc lập suy nghĩ, tìm tòi tri
thức, đồng thời vừa rèn luyện kỹ năng hoạt động nhóm cho các em để có đáp án
vừa nhanh vừa chính xác. Vì vậy, khi các em học Địa lí thơng qua các trò chơi
sẽ tạo sự thoải mái hơn, hứng thú hơn. Từ đó các em ghi nhớ tớt hơn những kiến
thức cơ bản cần đạt.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 29: ĐỊA LÍ NGÀNH CHĂN NI, giáo viên tổ
chức cho học sinh chơi trò chơi: chia lớp thành 2 dãy, gọi là 2 đội và đặt tên
(Đội 1: ngành trồng trọt; đội 2: ngành chăn nuôi). Mỗi đội chia thành 3 nhóm
nhỏ, tiến hành thảo luận trong thời gian 5 phút để giới thiệu về những thế mạnh
và hạn chế của ngành nơng nghiệp mà nhóm mình phụ trách để thu hút nhà đầu
tư, đồng thời chỉ ra những khó khăn về ngành nơng nghiệp của đội bạn.
- Đại diện của 2 đội trình bày, góp ý và phản biện nội dung của đội bạn.
Qua phần trình bày của HS, GV nhận xét chỗ đúng và chưa đúng, từ đó GV dẫn

dắt vào nội dung của ngành chăn ni.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 32: ĐỊA LÍ CÁC NGÀNH CƠNG NGHIỆP, GV sẽ
u cầu học sinh kể tên các ngành công nghiệp mà học sinh biết. Sau đó lựa
chọn một số ngành cơng nghiệp chủ yếu như: năng lượng, cơ khí, điện tử - tin
học, sản xuất hàng tiêu dùng, thực phẩm. GV chia lớp thành 5 đội chơi, đóng vai
các ngành cơng nghiệp để chứng minh đây là ngành có vai trị quan trọng nhất.
Lần lượt thành viên từng đội chơi liệt kê vai trò, đội nào kể được nhiều
nhất là đội thắng. GV sử dụng kết quả để dẫn vào bài.
Các phần kiểm tra bài cũ đầu giờ thường làm học sinh lo lắng, căng thẳng.
Hình thức kiểm tra bài cũ thường là tái hiện kiến thức bài trước không chú trọng

13

skkn


nhiều đến năng lực học sinh. Để học sinh không coi kiểm tra bài cũ là áp lực, tôi
đã tổ chức các trị chơi Địa lí với thời gian ngắn. Các trị chơi đó sẽ giúp tơi
kiểm tra đánh giá kiến thức, năng lực được hình thành ở học sinh, mặt khác sẽ
tạo khơng khí sơi nổi để bước vào bài học tiếp theo.
Ví dụ 1 : Trị chơi “Tình yêu Địa lí”
Các em học sinh sẽ lựa chọn một vấn đề Địa lí cảm thấy tâm đắc nhất
của bài trước để thuyết trình cho cả lớp nghe trong thời gian 5 phút. Sau khi
thuyết trình, cả lớp sẽ đóng góp ý kiến cho phần thuyết trình về nội dung, cách
trình bày...cuối cùng giáo viên sẽ đưa ra những nhận xét.
Hình thức này được học sinh đón nhận rất nhiệt tình, giảm áp lực học
thuộc lịng bài cũ máy móc. Thơng qua phần thuyết trình của học sinh có thể
đánh giá được kiến thức, năng lực chung, năng lực chuyên biệt và quan điểm
riêng đối với mỗi vấn đề của các em.


Học sinh 10A4- THPT Nguyễn Viết Xuân tham gia kiểm tra bài cũ với “Tình u Địa lí”

- Ví dụ 2: Trị chơi “Đuổi hình bắt chữ Địa lí”.
Giáo viên đưa ra từ khóa là các nội dung kiến thức trong mơn Địa lí cho một
học sinh, chỉ học sinh đó biết nội dung từ khóa (thường 1 đến 2 từ). Học sinh đó
có nhiệm vụ sử dụng kiến thức Địa lí vẽ hình mơ tả từ khóa (khơng sử dụng
chữ) trong thời gian 3 phút / từ. Sau khi đã hồn thành, học sinh khác thơng qua

14

skkn


hình vẽ để tìm đáp án. Các học sinh ở dưới lớp có thể đưa ra các thắc mắc liên
quan để các bạn trả lời.

Học sinh 10A5 THPT Nguyễn Viết Xuân tham gia kiểm tra bài cũ với trò chơi
“Đuổi hình bắt chữ Địa lí”

Khi tham gia trị chơi này, học sinh có thể thể hiện khả năng sáng tạo trí
tưởng tượng của mình thơng qua các hình vẽ và khắc sâu được kiến thức của bài
học trước, phát triển năng lực của học sinh
Ví dụ 3: Trị chơi “Sắc màu Địa lí”
Học sinh sẽ tham gia theo từng cặp (2 học sinh/ lượt).
Giáo viên đưa ra một số từ khóa là các thuật ngữ Địa lí có liên quan đến nội
dung bài đã học (thường từ 5 đến 10 từ).

Học sinh 10A5 THPT Nguyễn Viết Xuân tham gia kiểm tra bài cũ với trị chơi
“Sắc màu Địa lí”


15

skkn


Trong hai học sinh có một học sinh được giao từ khóa và sử dụng kiến
thức Địa lí để mơ tả các thuật ngữ đó (khơng được nhắc đến bất cứ từ nào trong
từ khóa, khơng sử dụng tiếng Anh, đánh vần, hay dùng tiếng lóng). Học sinh cịn
lại khơng được biết đáp án và phải thông qua phần mô tả của bạn để tìm từ khóa.
Học sinh dưới lớp sẽ lắng nghe và đánh giá phần mô tả, các kiến thức của học
sinh trên bảng và ghi nhớ luôn kiến thức.
Có lẽ đây là một trong những trị chơi được học sinh hưởng ứng nhiệt tình
nhất, khơng khí lớp sơi nổi, hào hứng. Giờ học sau, học sinh cịn chủ động nhắc
giáo viên kiểm tra bài cũ, học sinh nào cũng muốn lên bảng.
Ví dụ 4: Trị chơi “Tìm từ khóa”.
Giáo viên đưa ra một bảng chữ cái, học sinh sẽ phải tìm các từ khóa
theo các hàng ngang, hàng dọc... Học sinh tìm càng nhiều càng tốt các từ khóa
sẽ xuất hiện trong bài học ngày hơm nay.
Trước khi dạy bài 5, VŨ TRỤ, HỆ MẶT TRỜI VÀ TRÁI ĐẤT. HỆ
QUẢ CHUYỂN ĐỘNG QUANH TRỤC CỦA TRÁI ĐẤT, giáo viên đưa ra
bảng ô chữ và yêu cầu học sinh trong 1 phút tìm ra 5 từ khóa về Vũ Trụ, Trái
Đất là: Dải Ngân Hà, Hệ Mặt Trời, hành tinh, thiên thể, sao chổi.
D

T

K

H


G

U

O

H

S

A

H

H

E

L

N

A

I

S

I


A

H

I

J

N

M

C

A

N

K

D

S

H

A

U


O

G

G

Z

T

N

N

V

C

C

A

F

I

X

Q


P

T

O

H

N

N

K

H

I

L

N

H

O

H

E


M

A

T

T

R

O

I

A

T

H

I

E

N

T

H


E

S

A

O

K

I

M

T

H

E

16

skkn


T

N

J


I

T

R

V

R

I

ĐÁP ÁN
D

T

K

H

G

U

O

H


S

A

H

H

E

L

N

A

I

S

I

A

H

I

J


N

M

C

A

N

K

D

S

H

A

U

O

G

G

Z


T

N

N

V

C

C

A

F

I

X

Q

P

T

O

H


N

N

K

H

I

L

N

H

O

H

E

M

A

T

T


R

O

I

A

T

H

I

E

N

T

H

E

S

A

O


K

I

M

T

H

E

T

N

J

I

T

R

V

R

I


Với các hình thức kiểm tra như trên, học sinh vừa củng cố được kiến thức
mặt khác còn phát triển được năng lực sáng tạo, giao tiếp, hợp tác, sử dụng ngơn
ngữ...các em sẽ tự tin hơn khi trình bày một vấn đề trước đám đông.
d. Khởi động bằng sử dụng thơ, ca dao, tục ngữ, thành ngữ, danh ngơn, câu
đối...
Đó là những lời hay ý đẹp có tính chất ca ngợi, lời răn dạy và những câu
triết lí hàm nghĩa sâu sắc, được mọi người sử dụng hằng ngày trong cuộc sống
hoặc là tâm huyết của danh nhân. Trích dẫn những loại câu trên để vận dụng vào
hoạt động khởi động khi dạy học trên lớp có thể thu hút được sự chú ý của học
sinh, tạo sự mới mẻ, khác lạ, kích thích và nâng cao hứng thú học tập ở học sinh.
Qua đó GV có thể giáo dục thực tiễn cho học sinh nhiều bài học bổ ích. Với
bước này GV u cầu HS tìm các câu thơ, ca dao...có chủ đề liên quan đến bài
học. GV đặt vấn đề và đi vào bài học.

17

skkn


Ví dụ 1: Khi dạy bài 15: THỦY QUYỂN. MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG TỚI CHẾ ĐỘ NƯỚC SÔNG. MỘT SỐ SƠNG LỚN TRÊN TRÁI
ĐẤT, GV có thể nói: Trong bài thơ “Thề non nước” của Tản Đà, ông đã viết:
“ Non xanh đã biết hay chưa
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn”
Em hiểu hai câu thơ này như thế nào?
Sau đó giáo viên hướng dẫn vào bài và giới thiệu cụ thể hơn ở phần “ Tuần hoàn
của nước trên Trái Đất”
Ví dụ 2: Khi dạy bài 16: SĨNG.THỦY TRIỀU. DỊNG BIỂN
Trong phần khởi động, GV có thể đọc một số câu thơ trong bài “Sóng”
của Xuân Quỳnh


“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu”

Vậy qua những câu thơ trên, em cho biết hôm nay cô và các em sẽ tìm
hiểu hiện tượng Địa lí tự nhiên nào? Nguyên nhân gây ra hiện tượng này?
Học sinh trả lời: Sóng, ngun nhân do gió.
GV: Đúng là bài hơm nay cơ và các em tìm hiểu về sóng, nhưng ngun
nhân khơng chỉ do gió. Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu khái niệm, các nguyên nhân
gây ra trong bài ngày hôm nay để thấy rõ điều này nhé.
e. Khởi động bằng phương pháp thảo luận có chủ đề
Phương pháp khởi động thảo luận có chủ đề là lúc giáo viên vừa bước vào
lớp, đúng lúc học sinh đang chờ đợi giáo viên giảng bài; hoặc khi lớp chưa ổn
định, chưa chú ý thì lúc này giáo viên có thể áp dụng.
Ví dụ 1: Khi GV dạy Bài 6: HỆ QUẢ CHUYỂN ĐỘNG XUNG QUAY
QUANH MẶT TRỜI CỦA TRÁI ĐẤT, GV yêu cầu HS thảo luận và trả lời câu
hỏi: Tại sao thời tiết các mùa có sự khác nhau theo thời gian? Tại sao vào mỗi
mùa ngày đêm lại không dài bằng nhau? Tại sao "Đêm tháng năm chưa nằm đã
sáng, ngày tháng mười chưa cười đã tối"?
HS thực hiện và ghi ra giấy nháp, chuẩn bị để báo cáo trước lớp.

18

skkn


GV gọi 01 HS báo cáo, các HS khác trao đổi và bổ sung thêm.
GV sử dụng nội dung HS trả lời để tạo ra tình huống có vấn đề và dắt dẫn
vào nội dung bài học.


Học sinh 10A5 THPT Nguyễn Viết Xuân tiến hành thảo luận chủ đề

Ví dụ 2: Trong phần khởi động bài 25: THỰC HÀNH: PHÂN TÍCH
BẢN ĐỒ PHÂN BỐ DÂN CƯ THẾ GIỚI, GV đặt câu hỏi: Nếu được lựa chọn
nơi để sinh sống, em sẽ chọn như thế nào? Vì sao em lại lựa chọn nơi đó
HS thực hiện và ghi ra giấy nháp, chuẩn bị để báo cáo trước lớp.
Lần lượt HS lên trình bày, nêu những ưu điểm của nơi mình muốn sống.
GV sử dụng nội dung HS trả lời để tạo ra tình huống có vấn đề và dắt dẫn
vào nội dung bài học: Như vậy, đa phần các em đều muốn sống ở các thành phố,
các khu vực đồng bằng.....Những khu vực này tập trung những yếu tố gì thích
hợp để cư trú và làm việc? Chúng ta cùng tìm hiểu xem dân số thế giới có cùng
ý tưởng với các em không?
f. Khởi động bằng cách sử dụng tranh ảnh minh họa
Sử dụng tranh ảnh minh họa là phương pháp khá phổ biến trong giảng dạy
các môn khoa học tự nhiên và các mơn Địa lí, Sinh học, Lịch sử,… Vì thế, khi
sử dụng tranh ảnh minh họa học sinh sẽ có được những cảm nhận mới mẻ khi
tiếp cận nội dung bài học. Đây là một biện pháp hỗ trợ dạy học không thể thiếu

19

skkn


trong giảng dạy nói chung. Biện pháp này có thể thay cho khởi động để tạo cảm
giác chân thực, tăng thêm tính rõ ràng, tính sinh động khi thuyết giảng.
Ví dụ 1: Khi dạy Bài 19: SỰ PHÂN BỐ SINH VẬT VÀ ĐẤT TRÊN
TRÁI ĐẤT, GV sẽ chuẩn bị cho học sinh hình ảnh hai kiểu thảm thực vật trên
Trái Đất

GV đặt ra câu hỏi:

- Em hãy miêu tả đặc điểm các loại cây xuất hiện ở đây?
- Theo em, hình ảnh này ở khu vực nào trên Trái Đất?
Rõ ràng, các em thấy ở những vùng khác nhau sẽ xuất hiện các loại cây
khác nhau. Vậy trên Trái Đất có những vùng thực vật khác nhau như thế nào,
nguyên nhân của sự phân hóa đó là gì? Cơ và các em sẽ cùng tìm hiểu điều đó
trong bài học ngày hơm nay.
Ví dụ 2: Khi dạy bài 28: ĐỊA LÍ NGÀNH TRỒNG TRỌT, GV đưa ra
các hình ảnh về một số cây trồng.

20

skkn



×