Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Skkn giúp học sinh lớp 6 làm tốt bài văn miêu tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.79 KB, 31 trang )

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện Duy Xun
Tơi ghi tên dƣới đây
Họ
T và tên

Ngày tháng
năm sinh

Nơi cơng
tác (hoặc
nơi thường
trú)

Chức
danh

Trình độ
chun
mơn

Tỷ lệ (%)
đóng góp
vào việc
tạo ra
sáng kiến
(ghi rõ đối
với từng


đồng tác
giả, nếu
có)

0

30/03/1992

Trường
THCS
Nguyễn
Văn Trỗi

Giáo viên

Đại học

100%

T
T

1

Bà:

Huỳnh Thị
Ngọc Sa

Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến “Giúp học sinh lớp 6 làm

tốt bài văn miêu tả”
1. Chủ đầu tƣ tạo ra sáng kiến: Không;
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Dạy học;
3. Ngày sáng kiến đƣợc áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 05/09/2017;
4. Mô tả bản chất của sáng kiến
Trong chương trình Trung học Cơ sở, mơn Ngữ văn là một trong những
mơn Khoa học Xã hội có vai trị rất quan trọng. Mơn học này tác động rất sâu
sắc đến đời sống tình cảm, tâm hồn của mỗi con người. Nó hướng con người
đến đỉnh cao của chân, thiện, mỹ; đại thi hào văn Nga: Mác xim Gocki từng
viết: “Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào
bản thân và làm nảy nở con người khát vọng hướng đến chân lý”. Văn học
“chắp đôi cánh” để các em đến với mọi thời đại văn minh, để vươn tới tương lai
với ước mơ, hoài bão, lý tưởng cao đẹp. Nhưng từ lâu mơn Ngữ văn khiến học
sinh có suy nghĩ đó là môn học không dễ đạt điểm cao, phần tiếng việt khơ
khan, phần văn dài dịng nên ngại học, ngại viết. Vì thế đối với với mỗi thầy cơ
1

skkn


giáo dạy mơn ngữ văn THCS nói chung, và mơn ngữ văn 6 nói riêng, ngồi việc
cung cấp kiến thức nội dung bài học theo SGK, chuẩn kiến thức kỹ năng, tài liệu
học…cịn phải khơng ngừng tìm tịi, đổi mới sáng tạo phương pháp giảng dạy để
tạo hứng thú cho các em. Song một nhiệm vụ cũng không kém phần quan trọng
nữa là giáo viên dạy ngữ văn ở THCS là: làm thế nào giúp học sinh lớp 6 rèn
luyện tốt kĩ năng làm văn nhất là văn miêu tả.
Qua thực tế nhiều năm giảng dạy môn Ngữ văn 6 tại trường, tôi thấy học
sinh giỏi môn ngữ văn là chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay. Khi chấm bài tập
làm văn đa số các em biến bài văn miêu tả thành văn kể dài dịng, khơ khan, vốn
từ nghèo nàn. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học tập làm văn nhất

là văn miêu tả cho học sinh lớp 6? Để tìm câu trả lời cho câu hỏi này là cả q
trình. Với vai trị là một người giáo viên đứng lớp trực tiếp giảng dạy các em, tơi
đã tìm tịi phân tích thực trạng và lựa chọn để giúp học sinh lớp 6 làm tốt văn
miêu tả.
4.1. Phân tích tình trạng giải pháp đã biết
Đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học đã, đang và sẽ là một trong
những yêu cầu cấp bách của sự nghiệp đổi mới do Đảng, Nhà nước và các cấp
ngành Giáo dục đề ra. Mục tiêu của công cuộc đổi mới phương pháp dạy và học
là nhằm đưa ra những yêu cầu đào tạo con người cho phù hợp với xu hướng
chung của thời đại. Mọi vật đều vận động theo xu hướng thay đổi và không
ngừng phát triển. Chính vì vậy, việc đổi mới cơng tác giáo dục không chỉ dừng
lại ở sự thay đổi cấu trúc nội dung chương trình SGK mà chúng ta – những
người thầy, người cơ phải thay đổi cả về hình thức tổ chức, phương pháp giảng
dạy ở tất cả các bộ mơn, phân mơn nữa. Một trong những thay đổi đó là đòi hỏi
mỗi chúng ta phải thay đổi cả về phương pháp giảng dạy trên lớp, phương pháp
ôn tập cho phù hợp để đạt được hiệu quả giáo dục cao hơn.
Chương trình Ngữ văn THCS nói chung và chương trình phân mơn Tập
làm văn nói riêng là một vịng trịn đồng tâm. Trong đó chương trình Ngữ văn 6
là điều kiện, tiền đề cho các em học sinh hình thành hệ thống các kiến thức cũng
như các kĩ năng, để các em học tốt hơn ở các lớp trên.Nhất là phân mơn tập làm
văn ln chiếm vị trí quan trọng quyết định đến bài làm của các em học sinh có
thể đạt từ yếu lên trung bình, từ trung bình lên khá và từ khá lên giỏi .
Nhìn nhận vấn đề một cách cụ thể hơn chúng ta thấy rằng chương trình
Ngữ văn lớp 6 là sự tiếp nối phát triển thể loại văn miêu tả mà các em đã học
trong chương trình tiểu học (lớp 4: miêu tả đồ vật, loài vật, cây cối, phong cảnh;
lớp 5: tả cảnh sinh hoạt), trong quan hệ tương ứng với những gì đã được học về
tự sự ở kì I và trong quan hệ nối tiếp với nội dung miêu tả lớp 9 sẽ được học sau
này .Tuy nhiên chương trình Ngữ văn lớp 6 địi hỏi các em phải có cách viết trau
chuốt hơn, già dặn và sinh động, hấp dẫn hơn. Điều đó khơng thể đi ngay từ lí
thuyết sang thực hành được bởi tư duy của lứa tuổi các em học sinh lớp 6 còn là

tư duy cụ thể, cảm nhận còn đơn giản, vốn từ, vốn hiểu biết phần nhiều còn
nghèo nàn… do vậy mà các em chưa có nhiều vốn từ, tính hình ảnh, sang tạo
nghệ thuật trong viết văn… Vì thế giáo viên dạy mơn ngữ văn ở cấp THCS cần
2

skkn


hình thành và có biện pháp tích cực giúp các em làm tốt môn tập làm văn nhất là
văn miêu tả.
4.2. Nêu nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhƣợc
điểm của giải pháp đã biết
Một trong những biện pháp có tính khả thi và sẽ mang lại hiệu quả cao là
đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học theo hướng tích cực nhằm
phát triển năng lực của người học, có nghĩa là hình thành và phát triển tính tích
cực chủ động, độc lập và sáng tạo đặc biệt là khả năng vận dụng kiến thức đã
học vào giải quyết tình huống trong cuộc sống của người học.
Đề tài đã nêu ra các phương pháp dạy học cụ thể và vận dụng sáng tạo các
phương pháp đó. Mỗi phương pháp ln hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực
hóa hoạt động nhận thức của học sinh, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích
cực của học sinh. Giáo viên là người giữ vai trò hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp
cho học sinh tự tìm kiếm, khám phá những tri thức mới.
Sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học, rèn luyện kĩ năng quan sát, phân tích
cho học sinh, tạo sự hứng thú say mê trong học tập.
Giáo viên chú trọng rèn luyện kỹ năng tư duy lơgic, tự hệ thống hóa kiến
thức, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức để làm bài viết.
Trong quá trình vận dụng các hình thức, phương pháp dạy học tích cực cần
phải thơng qua việc tổ chức các hoạt động học tập của học sinh, để học sinh
tham gia vào quá trình hoạt động nhận thức, tìm tịi, phát hiện những tri thức
mới một cách tự giác, tự lực dưới sự hướng dẫn của giáo viên.

Giáo viên cần tăng cường sử dụng các trang thiết bị hiện đại kết hợp với
các tư liệu liên quan để góp phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, nâng
cao chất lượng giảng dạy.
4.3. Nêu các điều kiện, phƣơng tiện cần thiết để thực hiện và áp dụng
giải pháp
Chuẩn bị tốt các đồ dung dạy học cần thiết cho bài giảng như vật thật, tranh
ảnh.
Máy chiếu, tranh ảnh liên quan.
Nghiên cứu các tài liệu liên quan về một số đoạn văn, bài văn miêu tả.
Sách giáo khoa và sách giáo viên môn Ngữ văn 6.
4.4. Nêu các bƣớc thực hiện giải pháp, cách thức thực hiện giải pháp
Xuất phát từ nhận thức vấn đề như trên, trong quá trình giảng dạy phân
mơn tập làm văn lớp 6 ở trường THCS tôi đã tiến hành như sau:
3

skkn


Dạy tốt các giờ tập làm văn theo kế hoạch giảng dạy bộ mơn đã được ban
giám hiệu kí duyệt.
Khi dạy ôn tập làm văn miêu tả tôi chia theo từng dạng bài, nhóm bài và
phân mảng nội dung kiến thức cụ thể.
Rèn các phương pháp, kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh.
Sau đây là một số biện pháp giúp các em học sinh lớp 6 làm tốt văn miêu
tả.
4.4.1. Giáo viên phải nắm vững nội dung, chương trình và phương pháp
dạy Tập làm văn:
Dạy như thế nào để học sinh học tốt và nắm vững phương pháp làm văn
miêu tả, viết được những bài văn hay, hấp dẫn sinh động? Đòi hỏi giáo viên dạy
phải nắm vững nội dung chương trình, đồng thời biết chọn và vận dụng phương

pháp phù hợp để truyền thụ kiến thức cho học sinh. Giáo viên biết được học sinh
cần gì, chưa biết những gì để xác định đúng mục tiêu bài dạy, xác lập được mối
quan hệ giữa kiến thức bài dạy với kiến thức cũ và kiến thức sẽ cung cấp tiếp
theo. Cụ thể, giáo viên cần nắm vững những vấn đề sau:
1. Nội dung chương trình Tập làm văn lớp 6
Các em bắt đầu làm văn miêu tả từ học kì II với số tiết Tập làm văn miêu tả
16 tiết. Mục tiêu là trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng làm văn, góp phần
cùng với các môn học khác làm giàu vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm
hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học sinh.
1.1. Biện pháp dạy học từng kiểu bài
Trong phần dạy bài mới, giáo viên phải nắm vững trình tự dạy đối với hai
loại bài Tập làm văn: loại bài dạy lý thuyết và loại bài dạy thực hành.
a) Với bài dạy lý thuyết
Các bài học về văn miêu tả trong sách giáo khoa đều được tiến hành theo
mơ hình chung là: Tìm ngữ liệu mẫu -> rút ra kết luận. ->Khắc sâu kiến thức
luyện tập củng cố.
Các ngữ liệu mẫu thường được lấy từ các văn bản miêu tả được học đồng
thời ở phần văn. Vì thế khi dạy từng loại bài, giáo viên cần chú ý đến các đối
tượng học sinh của lớp: có nội dung cho học sinh khá, giỏi; có nội dung cho học
sinh trung bình, yếu,…
b) Với loại bài thực hành
Phần thực hành về văn miêu tả gồm viết và trả bài văn miêu tả; luyện nói
về quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn miêu tả.
Với văn miêu tả tôi hướng dẫn các em thực hành tạo lập ba kiểu bài cơ bản
sau:
- Tả cảnh ( Tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh sinh hoạt)
4

skkn



- Tả người (Tả chân dung, tả người trong tư thế hoạt động)
- Miêu tả sáng tạo
Ví dụ: Muốn dạy học sinh làm văn miêu tả đạt yêu cầu thì giáo viên cần
biết thế nào là văn miêu tả, đặc điểm thể loại văn miêu tả, biết yếu tố nào là
quan trọng và cần thiết để giúp học sinh làm được bài văn miêu tả sinh động
thông qua quan sát đối tượng miêu tả (Nội dung này nằm trong bước chuẩn bị
bài mới của giáo viên).
4.4.2. Giáo viên cần giúp học sinh biết cách xác định đúng yêu cầu của đề
bài để xây dựng định hướng làm bài
Xác định yêu cầu đề bài trước khi làm là một trong những kĩ năng rất quan
trọng. Nó giúp các em định hướng đúng đối tượng miêu tả, nội dung và phạm vi
bài làm để tránh được hiện tượng lạc đề xảy ra.
Ví dụ: Đề bài: “Em hãy tả lại quang cảnh sân trường em trước giờ vào lớp
GV phải hình thành các bước tìm hiểu đề cho học sinh theo thứ tự lần lượt:
Một là thể loại, hai là nội dung cần làm gì, ba là phạm vi đề bài.
+ Thể loại: Miêu tả
+ Nội dung: Cảnh sân trường em trước giờ vào lớp
+ Phạm vi: Trước giờ vào lớp
Giáo viên phải chỉ cho học sinh thấy được đây là một đề văn tổng hợp:
Vậy thế nào là cảnh tổng hợp? Giáo viên chỉ rõ cho học sinh thấy xác định cảnh
tổng hợp nhờ những từ ngữ nào.
Giáo viên giải thích cho học sinh đề tả cảnh tổng hợp nghĩa là: cảnh gồm
nhiều cảnh nhỏ, cảnh lẻ. Những cảnh nhỏ của quê hương, miền q hay trường
học thường là cánh đơng, dịng sơng, con đường làng, sân trường…sau đó giúp
học sinh hình dung được cụ thể về cảnh miêu tả ở thời gian nào (mùa nào), ở
khơng gian nào ( cảnh đó như thế nào)… Việc xác định được đúng yêu cầu của
đề như ở ví dụ trên sẽ giúp các em rất nhiều trong việc định hình được đối tượng
miêu tả.
4.4.3. Rèn kĩ năng quan sát, tưởng tượng, so sánh và nhận xét trong văn

miêu tả
a) Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh
- Đối tượng của bài văn miêu tả là sự vật, thiên nhiên, là con người, cuộc
sống con người. Có thể coi đó là một thế giới phong phú và đa dạng phức tạp
đang diễn rất hay đổi theo từng ngày từng giờ. Tuy vậy không phải tự nhiên mà
ta hiểu ngay và nắm vững đặc điểm của từng sự vật , sự việc, con người để miêu
tả đúng bản chất của nó. Chính vì thế mỗi giáo viên dạy mơn Ngữ văn cần phải
hình thành ngay từ đầu kĩ năng quan sát và ghi chép.
- Đối với các em học sinh, khi làm văn miêu tả kĩ năng quan sát và ghi
chép cũng rất cần thiết, tuy nhiên các em khơng thể có được các kĩ năng đó và
5

skkn


sử dung thành thạo được, tất cả mới chỉ là tập dượt: tập quan sát, tập ghi chép,
tập phát hiện ra đặc điểm nổi bật của các sự vật, hiện tượng. Từ đó có vốn sống
phong phú để làm tốt bài văn miêu tả.
- Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người để
giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy, tức là lấy câu văn
để biểu hiện các đặc tính, bản chất của sự vật, giúp người đọc như được chứng
kiến tận mắt sự vật miêu tả. Nên khi dạy văn miêu tả, tôi hướng dẫn học sinh
quan sát và miêu tả theo các trình tự hợp lý như sau:
+ Tả theo trình tự khơng gian
Quan sát tồn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ
ngoài vào trong, từ trái qua phải,… (hoặc ngược lại).
Ví dụ 1: Trong văn bản“ Sơng nước Cà Mau”- Ngữ văn 6 tập II, nhà văn
Đoàn Giỏi miêu tả tồn cảnh Cà Mau theo trình tự từ xa đến gần:
“Càng đổ gần về hướng mũi Cà Mau thì sơng ngịi, kênh rạch càng bủa
giăng chi chít như mạng nhện. Trên thì trời xanh dưới thì nước xanh, chung

quanh mình cũng chỉ tồn một sắc xanh cây lá. Tiếng rì rào bất tận của những
khu rừng xanh bốn mùa, cùng tiếng sóng rì rào từ biển Đơng và vịnh Thái Lan
ngày đêm không ngớt vọng về trong hơi gió muối -thứ âm thanh đơn điệu triền
miên ấy ru ngủ thính giác, càng làm mịn mỏi và đuối dần đi tác dụng phân biệt
của thị giác con người trước cái quang cảnh chỉ lặng lẽ một màu xanh đơn điệu”.
Ví dụ 2: Cũng trong văn bản “ Sơng nước Cà Mau”- Ngữ văn 6 tập II, nhà
văn Đoàn Giỏi đã miêu tả cảnh dịng sơng và rừng đước Năm Căn theo trình tự
từ xa đến gần, từ ngồi vào trong, từ khái quát đến cụ thể:
“Thuyền chúng tôi chèo thốt qua kênh Bọ Mắt, đổ ra con sơng Cửa Lớn,
xi về Năm Căn. Dịng sơng Năm Căn mênh mông, nước ầm ầm đổ ra biển
ngày đêm như thác, cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người
bơi ếch giữa những đầu sóng trắng. Thuyền xi giữa dịng con sơng rộng hơn
ngàn thước, trơng hai bên bờ, rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường
thành vô tận. Cây đước mọc dài theo bãi, theo từng lứa trái rụng, ngọn bằng tăm
tắp, lớp này chồng lên lớp kia ơm lấy dịng sơng, đắp từng bậc màu xanh lá mạ,
màu xanh rêu, màu xanh chai lọ… lịa nhịa ẩn hiện trong sương mù và khói
sóng ban mai”.
+ Tả theo trình tự thời gian
Ví dụ : “Biển đẹp”- Vũ Tú Nam
“Buổi sớm nắng sáng. Những cánh buồm nâu trên biển được nắng chiếu
vào hồng rực lên như đàn bướm múa lượn giữa trời xanh. Lại đến một buổi
chiều gió mùa đơng bắc vừa dừng. Biển lặng, đỏ, đầy như mâm bánh đúc, loáng
thoáng những con thuyền như những hạt lạc ai đem rắc lên trên.Rồi một ngày
mưa rào. Mưa dăng dăng bốn phía. Có qng nắng xun xuống biển óng ánh
đủ màu: xanh lá mạ, tím phớt, hồng xanh biếc…Có qng thâm sì, nặng trịch.
6

skkn



Những cánh buồm ra khỏi cơn mưa, ướt đẫm, thẫm lại, khỏe nhẹ bồi hồi, như
ngực áo bác nông dân cày xong ruộng về bị ướt”.
+ Tả theo trình tự tâm lí
Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây
cảm xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả
sau. Khi miêu tả đồ vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ
nên tả những điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau
của đối tượng.
Ví dụ : Nhà văn Đoàn Giỏi miêu tả chợ Năm Căn theo mạch cảm xúc riêng
của mình, qua đó thể hiện niềm tự hào của tác giả về vùng đất trù phú, giàu có
nơi tận cùng phía Nam Tổ quốc:
“Nhưng Năm Căn cịn có cái bề thế của một trấn “anh chị rừng xanh”
đứng kiêu hãnh phô phang sự trù phú của nó trên vùng đất cuối cùng của Tổ
quốc. Những bến vận hành nhộn nhịp dọc dài theo sông; những lò than hầm gỗ
đước sản xuất loại than củi nổi tiếng nhất của miền Nam; những ngôi nhà bè ban
đêm ánh đèn măng-sông chiếu rực trên mặt nước như những khu phố nổi, và nơi
đây người ta có thể cập thuyền lại, bước sang gọi một món xào, món nấu Trung
Quốc hoặc một đĩa thịt rừng nướng ướp kiểu địa phương kèm theo vài cút rượu,
ngồi ra cịn có thể mua từ cây kim cuộn chỉ, những vật dụng cần thiết, một bộ
quần áo may sẵn hay một món nữ trang đắt giá chẳng hạn, mà không cần phải
bước ra khỏi thuyền. Những người con gái Hoa kiều bán hàng xởi lởi, những
người Chà Châu Giang bán vải, những bà cụ già người Miên bán rượu, với đủ
các giọng nói líu lơ, đủ kiểu ăn vận sặc sỡ, đã điểm tô cho Năm Căn một màu
sắc độc đáo, hơn tất cả các xóm chợ vùng rừng Cà Mau”
Ngồi các trình tự miêu tả trên, giáo viên cần hướng dẫn và rèn luyện cho
học sinh kĩ năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác,…)
để quan sát, cảm nhận sự vật, hiện tượng miêu tả.
b) Rèn kĩ năng so sánh
So sánh là hệ quả của quá trình liên tưởng và tưởng tượng. Khi quan sát
một đối tượng nào đó, hình ảnh của đối tượng ấy (từ màu sắc tới hình dáng, từ

kích thước tới trạng thái) thường gợi cho người quan sát nghĩ đến hình ảnh
tương đồng nào đó. Chính sự so sánh liên tưởng này giúp cho trang văn miêu tả
của các em hay hơn, đẹp hơn, hấp dẫn hơn.
Vì vậy, tơi đã hướng dẫn cho các em một số cách so sánh như sau:
- Có thể so sánh người với người: “Với gương mặt phúc hậu và mái tóc bạc
trắng, trơng bà hệt như bà tiên trong truyện cổ tích”; “Nhìn nó chăm chỉ làm
việc giúp bà, ai cũng tấm tắc: Hệt như cô Tấm trong chuyện cổ tích xưa”…
- Có thể so sánh người với các con vật (hình dáng, tính cách): “Lão ta quá
ranh mãnh, xảo quyệt, y như một con cáo già”; “Trông anh ta như một con gấu”;
“cậu ấy nhanh như một con sóc”…
7

skkn


- Có thể so sánh người với cây cối: “Chấm cứ như một cây xương rồng”
(cái sân gạch – Đào Vũ); “Cô bé cứ như một cây lúa non, lặng lẽ lớn lên từ bùn
đất”…
- Có thể so sánh người với các hiện tượng thiên nhiên: “Giọng lão ta lúc
nào cũng gầm vang như sấm” “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào”…
- Có thể so sánh vật với vật, cảnh với cảnh: “cây gạo như treo rung rinh
hàng ngàn nồi cơm gạo mới”( Vũ Tú Nam); “Vầng trăng non giữa bầu trời đầy
sao hệt như một cái liềm vào ai bỏ quên giưa cánh đồng lúa chín” (Theo Vích –
to Huy gơ); “ Măng chồi lên nhon hoắt như một mũi gai khổng lồ xuyên qua đất
lũy mà trỗi dậy” (Ngơ Văn Phú)…
- Có thể so sánh vật với con người: Cây bàng già sừng sững, uy nghi như
một người lính gác canh giữ cho khu vườn được bình yên”; “ cây bưởi như một
người mẹ đang cần mẫn cõng trên mình lũ con đầu trịn trọc lóc”; “Chim già
đãy, đầu hói như những ơng thầy tu mặc áo xám” (Đoàn Giỏi)
Nếu xét về cách thức so sánh thì có những hiện tượng so sánh sau:

- So sánh theo hướng thu nhỏ lại: “ Trái đất như một giọt nước màu xanh lơ
lửng giữa không trung” ; “xa xa, những cánh buồm nâu như những cánh bướm
rập rờn trên mặt biển”…
- So sánh theo hướng phóng đại lên: “Rệp bị lổm ngổm hư xe cóc – muỗi
lượn nghênh ngang tụa máy bay” (Hồ chí Minh) ; “chiếc lá tre thả xuống dòng
nước, chòng chành, xoay xoay, rồi trôi đi như một con thuyền, chở theo ước mơ
của chúng tơi”…
- So sánh theo hướng cụ thể hóa: “ Từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn
nhanh như thổi” (truyền thuyết Thánh Gióng); “Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên
cho kì hết. Trịn trĩnh phúc hậu như long đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn”
(Nguyễn Tuân)
- So sánh theo hướng trừu tượng hóa: “ Nước biển chiều nay xanh như một
trang sử của loài người, lúc con người phải viết vào than tre” (Nguyễn Tuân)…
Tuy nhiên khi sử dụng kĩ năng so sánh, cần lưu lưu ý là phải biết sáng tạo,
biết tìm điểm mới, điểm riêng. Khơng nên lặp đi lặp lại những hình ảnh so sánh
đã quá cũ, quá sáo mòn theo kiểu: “Miệng cười tươi như hoa”, “Những hạt
sương long lanh như những hạt ngọc đính trên cành hoa hồng” ; “ Cánh đồng lúa
chin trông như tấm thảm vàng trải rộng đến chân trời”.
c) Rèn kĩ năng nhận xét trong văn miêu tả
Viết văn miêu tả, bao giờ người viết cũng để lại dấu ấn chủ quan của mình.
Dấu ấn chủ quan ấy chính là sự cảm nhận riêng của mỗi người, là cách biều
lộ thái độ, tình cảm riêng của mỗi người đối với đối tượng được miêu tả. Một
nhà văn Pháp viết: “ Một trăm cây bạch dương giống nhau cả trăm, một trăm
ánh lửa giống nhau cả trăm. Mới nhìn tưởng thế, nhưng nhìn kĩ thì chân cây
bạch dương nào cũng khác nhau, ngọn lửa nào cũng khác nhau. Trong đời ta gặp
8

skkn



bao nhiêu người, phải thấy ra mỗi người mỗi khác nhau, khơng ai giống ai”
(Dẫn theo Tơ Hồi – Một số kinh nghiệm viết văn miêu tả).
Không phải chỉ các nhà văn, mà ngay cả học sinh khi làm văn miêu tả cũng
nên ý thức rõ điều này. Giáo viên còn phải mở rộng thêm nữa, rằng thiên nhiên,
con người xung quanh chúng ta luôn trong trạng thái vận động và thay đổi
không ngừng- thật vô cùng thú vị và hấp dẫn. Đâu phải chỉ có ngọn lửa này
ngọn lửa khác ngọn lửa kia, thân cây bạch dương này khác thân cây bạch dương
kia mà ngay cùng một sự vật, hiện tượng ấy cũng từng phút, từng giờ thay đổi
liên tục. Cũng một con đường từ nhà đến trường, nhưng sáng hơm nay ta thấy
nó như thế này, sáng mai đã có thể đổi khác. Cũng một cây bàng , chiều hơm
trước cịn trơ trụi lá cành, mà chỉ sau mấy hôm đã đâm trồi nảy lộc, tràn đầy
sức sống. Cũng một môt bãi biển, nhưng khi ta buồn sẽ ta sẽ cảm nhậc nó khác
khi ta đang vui… Có thể nói rằng, đối tượng miêu tả sẽ xuất hiện và đi vào bài
văn tùy thuộc vào điểm nhìn, thái độ, tâm trạng, tình huống giao tiếp của người
viết. Đây chính là cơ sở tạo nên dấu ấn chủ quan của người viết. Nó địi hỏi
người viết trong bài viết của mình có những lời nhận xét, những suy nghĩ, những
cảm nhận riêng về đối tượng. Vần đề là phải dùng cách nhận xét như thế nào để
tạo sự hấp dẫn cho bài văn miêu tả? Trước hết có thể nhận xét trực tiếp bằng
những lời bình, những câu cảm thán, những hình ảnh so sánh: “Chà! chà !Béo ơi
là béo !”, “Gớm !Béo đâu có béo lạ béo lùng thế !”( Nguyễn Công Hoan ); “
Những bông hoa rơi từ trên cao, đài hoa nặng chúi xuống những cánh hoa đỏ rực
quay tít như chong chóng, nom thật đẹp (Vũ Tú Nam ); “ A Cháng đẹp người
thật … Nhưng phải nhìn A Cháng cày mới thấy vẻ đẹp của anh “ (Ma Văn
Kháng)…
Và cũng có thể bộc lộ một cách kín đáo qua việc lựa chọn hình ảnh miêu tả.
Đây là thái độ mỉa mai, giễu cợt của nhà văn Nguyễn Cơng Hoan khi miêu tả
hình ảnh một “bà chủ “ :” Vậy thì bà nằm đó. Như thoạt trông, đố ai dám bảo là
một người. Nếu người ta chư nom rõ cái măt phị, cái cổ rụt, cái nung núc và bốn
chân tay ngắn chùn chùn thì phải bảo là một đống hai ba cái chăn bông cuộn lại
với nhau, sắp đem cất đi “. Còn đây là thái độ ngạc nhiên thích thú của nhà văn

Vũ Tú Nam khi quan sát và miêu tả hình ảnh những trái mướp lớn nhanh như
thổi : “ Rồi quả thi nhau chịi ra… bằng ngón tay … bằng con chuột rồi bằng
con cá chuối to”…
Ví dụ : Trong văn bản “Cô Tô” –SGK ngữ văn 6 ,nhà văn Nguyễn Tuân
khi miêu tả vẻ đẹp trong sáng, tràn đầy sức sống tồn cảnh Cơ Tơ một ngày sau
bão,đã thể hiện được cảm nhận riêng của mình về một vùng đất ông từng qua:
“Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô là một ngày trong trẻo, sáng sủa. Từ khi có
vịnh Bắc Bộ và từ khi quần đảo Cô Tô mang lấy dấu hiệu sự sống con người thì,
sau mỗi lần dơng bão, bao giờ bầu trời Cô Tô cũng trong sáng như vậy. Cây trên
núi đảo lại thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc đặm đà hơn hết cả mọi khi,
và cát lại vàng giòn hơn nữa. Và nếu cá có vắng tăm biệt tích trong ngày động
bão thì nay lưới càng thêm nặng mẻ cá giã đôi. Chúng tôi leo dốc lên đồn Cô Tô
9

skkn


hỏi thăm sức khỏe anh em bộ binh và hải quân cùng đóng sát nhau trong cái đồn
khố xanh cũ ấy.
Trèo lên nóc đồn, nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng
quay gót 180 độ mà ngắm cả tồn cảnh Cơ Tơ. Nhìn rõ cả Tơ Bắc, Tơ Trung, Tơ
Nam, mà càng thấy u mến hịn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và
lớn lên theo mùa sóng ở đây”.
4.4.4. Giúp học sinh nắm đặc điểm của từng kiểu bài miêu tả
Giáo viên giúp học sinh biết dùng lời văn cùng trí tưởng tượng phong phú
hợp với yêu cầu về nội dung và thể loại cho trước, khi luyện tập. Giáo viên cũng
cần lưu ý nhắc nhở các em nắm vững các đặc điểm của mỗi thể loại, mỗi dạng
bài và xác định đối tượng miêu tả. Trong mỗi bài văn phải thể hiện cái mới cái
hay, cái riêng và cảm xúc của mình.
a) Kiểu văn tả đồ vật, lồi vật, cây cối

Đối tượng ở kiểu bài này rất cụ thể và thường là những vật quen thuộc
trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Nhưng kiểu bài này lại khó ở chỗ đối
tượng miêu tả , nhiều khi cấu tạo lại đơn giản nên khó phát triển ý, bài viết ngắn
cụt lủn, hời hợt. Vì thế ,mỗi giáo viên khi dạy dạng bài này cần lưu ý cho các em
học sinh những yêu cầu sau để bài làm tốt hơn.
Thứ nhất: Khi làm kiểu bài này cần miêu tả từ bao quát đến cụ thể, từ giới
thiệu chung đến miêu tả chi tiết. Riêng tả lồi vật cây cối có thể theo quá trình
trưởng thành của đối tượng với các giai đoạn cụ thể.
Thứ hai: Đối tượng miêu tả của bài này là những đồ dùng, vật dụng, những
hình ảnh quen thuộc trong đời sống hàng ngày. Do đó khi miêu tả phải chú ý
đến ý nghĩa công dụng của chúng với con người. Đặc biệt trong q trình miêu
tả có thể xen kẽ một vài kỉ niệm thể hiện sự gắn bó giữa người tả với đối tượng
được tả.
Thứ ba: Cần biết điều chỉnh một cách hợp lý giữa các hình ảnh tả thực với
liên tưởng. Nếu tả thực quá nhiều thì hình ảnh miêu tả trở nên trần trụi. Cịn nếu
liên tưởng q nhiều thì tính chân thực sẽ giảm đi. Riêng với đồ dùng vật dụng
không phải lúc nào cũng tả cái mới. Có thể tả những đồ dùng cũ đan xen các kỉ
niệm thì bài viết sẽ sâu sắc hơn.
Ví dụ: Tả lại một lồi cây mà em yêu quý nhất trong sân trường
+ Thể loại: Miêu tả
+ Nội dung: Tả lại một loài cây mà em yêu q nhất
+ Phạm vi: Trong sân trường
Ví dụ:
Ngơi trường thân u của tơi có rất nhiều loại cây cho bóng mát. Nhưng có
lẽ khơng cây nào có bóng che rợp mát bằng cây bàng. Nó đứng sừng sững giữa
10

skkn



sân trường này không biết từ bao giờ chỉ biết từ khi tôi đặt chân đến trường đã
thấy bàng rồi.
Cây bàng đứng sừng sững giữa sân trường này không biết từ bao giờ chỉ
biết từ khi tôi đặt chân đến trường đã thấy bàng rồi.Nhìn từ xa, cây bàng như
một chiếc ơ khổng lồ nhiều tầng x tán chùm bóng mát cả một khoảng sân
trường rộng cho chúng tôi vui chơi giải trí sau mỗi giờ học căng thẳng. Lại gần
cây bàng tròn, thẳng mầu nâu sẫm như dãi giầu qua nhiều năm tháng. Cây bàng
là một loại cây rất nhạy cảm với sự thay đổi của bốn mùa. Nhìn lá bàng người ta
có thể nhận biết chính xác các mùa trong năm.Vào mùa thu, khi tiết trời se lạnh
những chiếc lá bàng to như hai bàn tay người lớn vốn màu xanh đâm chuyển
sang màu vàng gạch quăn dần mép lá rồi vồng lên như hình mo cau. Lúc này nó
đó biến sang màu đỏ tía và khi những chị gió thu tinh nghịch thổi đến nó vội vã
bứt ra khỏi cành chao liệng giữa không trung y hệt những cánh tay vẫy chào tạm
biệt nơi đã sinh ra mình. Nhìn những chiếc lá bàng nằm trải dài trên sân trường
trông mới tuyệt làm sao! Cứ thế, những chiếc lá bàng chuyển dần mầu sắc cho
đến khi những cơn gió lạnh buốt từ phương Bắc tràn về thì cây bàng khơng cịn
một chiếc lá nào nữa. Cịn lại những cành trơ trụi trơng có vẻ khẳng khiu gơng
mình chịu đựng cái rét lạnh buốt của mùa đông nhưng trong những cành khẳng
khiu ấy vẫn tràn trề nhựa sống. Rồi tiết trời như ấm lại, xuân đã về. Chỉ một tuần
thơi thì những trồi non xanh li ti đã điểm hết những cành to, cành nhỏ. Thoáng
cái đã thấy màu xanh non bao phủ lấy toàn thân cây và chuyển dần sang màu
xanh đậm. Những chiếc lá của tầng thấp, tầng cao phát triển nhanh đến kì lạ. Từ
bé bằng bàn tay trẻ nhỏ mà nay đã phè phè như cái quạt mo. Cho đến khi mùa hạ
về, lá vàng rợp mát cả một khoảng sân và đây là thời điểm mà tụi nhỏ chúng tôi
tụm năm tụm bẩy vui đùa nhảy nhót hết sức thỏa mái vào những giờ chơi dưới
gốc bàng mát rượi thân yêu này. Bàng còn là nơi gọi chim về tụ hội ca hát nhảy
múa trong vịm lá. Càng tơ điểm cho cây vẻ đẹp mĩ miều.Tụi nhỏ chúng tôi yêu
cây bàng này lắm bởi nó đã gắn bó với ngơi trường tơi. Nó cịn là nơi chứng
kiến bao kỉ niệm vui buồn của chúng tơi.
Dù mai này có phải xa mái trường, xa cây bàng yêu dấu này thì hình ảnh về

cây bàng mãi mãi in đậm trong tâm trí tơi.
b) Kiểu văn tả cảnh
Đối tượng miêu tả bao gồm cảnh thiên nhiên và cảnh sinh hoạt. Có thể coi
đây là những bức tranh bằng ngơn ngữ, dừng lại một khung cảnh nào đó, một
hoạt động nào đó, một hoạt động nào đó của thiên nhiên của con người (Một
phiên chợ tết, một bến đị hoặc ga tàu đơng khách, một cuộc thi thả diều, một
cánh rừng,một dịng sơng, một làng q,n tĩnh,…). Nội dung của kiểu bài này
khơng nghèo nàn, thậm chí rất phong phú nhưng do kinh nghiệm quan sát của
học sinh cịn yếu, kiến thức nghèo nàn, trình độ sắp xếp ý cịn hạn chế nên bài
làm thường có bố cục lộn xộn, thiếu cân đối.
Khi làm kiểu bài này giáo viên cần lưu ý một số vấn đề sau

11

skkn


- Đối với văn tả cảnh thiên nhiên, người viết có thể chọn một trong số các
trình tự tả : theo trình tự thời gian, khơng gian, số lượng cảnh,…Bức tranh thiên
nhiên không bao giờ ở dạng tĩnh mà luôn có sự thay đổi, vì vậy khi tả phải làm
nổi bật được sự thay đổi này (Mùa này khác mùa kia, buổi này khác buổi kia,
thời điểm này khác thời điểm kia…)
- Ngoài việc tả bao quát toàn cảnh, người tả cần tìm được một số hình ảnh
tiêu biểu để tập trung tả chi tiết, cụ thể. Đặc biệt là khi tả cảnh thiên thiên nào thì
cũng phải đặt nó trong một không gian, thời gian cụ thể, và phải có mối quan hệ
mật thiết với các hiện tượng tự nhiên như gió, nắng… Các biện pháp nghệ thuật,
so sánh, nhân hóa nên được vận dụng nhiều để góp phần làm cho bài văn tả sinh
động hơn.
- Đối với văn tả cảnh sinh hoạt thì cần chú trọng chọn tả theo trình tự thời
gian và trình tự hoạt động của các đối tượng. Ngồi việc tả chung, nhìn bao qt

tồn cảnh và liệt kê các hoạt động, người viết phải tập trung vào một số cảnh
chính, tiêu biểu. Ưu tiên dùng nhiều những từ láy tượng hình, tượng thanh, nghệ
thuật so sánh, câu đặc biệt hay câu bình thường, câu đảo ngữ hay câu tỉnh
lược… Đặc biệt cần chú ý làm nổi bật mối quan hệ tình cảm giữa các đối tượng
xuất hiện trong bức tranh này. Nếu cần thiết vẫn có thể đưa một số mẩu đối
thoại, một số câu văn tự sự, một số câu văn nêu nhận xét cảm nghĩ vào văn tả.
c) Kiểu văn tả người
Khi miêu tả người, yếu tố quan sát lại càng quan trọng. Nhìn chung, mọi
người đều có những đặc điểm giống nhau nhưng lại hoàn toàn khác nhau ở
những đặc điểm riêng, chỉ người đó mới có. Nhiệm vụ của giáo viên khi hướng
dẫn học sinh “miêu tả người” là giúp cho các em thấy rằng phải miêu tả ngắn
gọn mà chân thực, sinh động về hình ảnh và hoạt động của người mình tả.
Ví dụ: Trong bài “Vượt thác” (sách giáo khoa ngữ văn 6 tập II) nhà văn Võ
Quảng đã miêu tả về Dượng Hương Thư như sau:
“ Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn,
hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào như
một hiệp sĩ của Trường Sơn hùng vĩ. Dượng Hương Thư vượt thác khác hẳn
dượng Hương Thư ở nhà, nói năng nhỏ nhẻ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng
vâng dạ dạ.”
Từ đó ta thấy tác giả quan sát rất kĩ và miêu tả sinh động làm nổi bật hình
ảnh Dượng Hương Thư khi vượt thác rất khéo léo, dũng cảm và dạn dày kinh
nghiệm. Về cơ bản, để làm được bài văn tả người thành công, giáo viên cần giúp
học sinh đảm bảo các yêu cầu sau các yêu cầu sau:
- Xác định đối tượng cần miêu tả: Thầy cô giáo, bạn bè hay người thân,…
tả chân dung hay tả người trong tư thế hoạt động.
- Quan sát đối tượng miêu tả và lựa chọn các chi tiết tiêu biểu: Chân dung
nhân vật (khn mặt, mái tóc, nước da,…); tính cách nhân vật (qua ngơn ngữ ,
tính cách, hành động, cử chỉ của nhân vật).
12


skkn


- Trình bày các chi tiết đã lựa chọn theo một trình tự hợp lý sao cho phù
hợp với mục đích miêu tả và làm nổi bật được đối tượng miêu tả.
- Cảm nhận của người viết về nhân vật mà mình miêu tả.
(Lưu ý khi ra đề tả người cần chú ý đến đối tượng tả có trong vốn sống của
các em và nên ra những dạng đề mở. Bên cạnh những cụ thể như: hãy tả lại bà
ngoại, ông nội của em, nên có những đề bài mở hơn tự do hơn như: tả lại một
người mà em yêu thương nhất trong gia đình). Sự lựa chọn này sẽ giúp các em
bày tỏ cảm xúc tình cảm một cách chân thực nhất.
4.4.5. Rèn luyện về cách diễn đặt trong văn miêu tả
a) Cách dùng từ ngữ, hình ảnh
Việc lựa chon từ ngữ trong văn miêu tả là yêu cầu quan trọng, đòi hỏi phải
được đặt ra một cách nghiêm túc. Muốn làm tốt yêu cầu này thì người viết văn
miêu tả trước hết phải có một vốn từ phong phú. Vấn đề tích lũy vốn từ cần
được tiến hành thường xun và dưới nhiều hình thức: thơng qua các giờ học
văn – Tiếng việt trong nhà trường: thông qua giao tiếp hàng ngày, thơng qua q
trình đọc sách, đọc tài liệu tham khảo liên quan tới văn miêu tả… Tất nhiên, có
vốn từ phong phú chưa hẳn là đã thành công mà điều quan trọng là người viết
bài phải có sự lựa chọn tinh tường, sao cho giữa một hệ thống các đồng nghĩa,
gần nghĩa, có thể lẩy ra một vài từ phù hợp, chính xác nhất. Điều cần chú ý là
phải ln có thói quen tìm được từ gợi hình, biểu cảm và phải chọn từ ngữ phù
hợp với đối tượng với văn cảnh. Muốn làm nổi bật hình ảnh của đối tượng thì
chú ý nhiều tới hệ thống từ tượng hình (Tả màu sắc, hình dạng, trạng thái…) ;
muốn làm nổi bật khơng khí của cảnh thì dùng hệ thống của từ tượng thanh (mơ
phỏng các tiếng động). Bài văn miêu tả thiếu đi các từ ngữ có sức tạo hình, gợi
cảm thì chắc chắn sẽ không thể hay. Nhưng cũng cần kiến thức được rằng nếu
dùng các từ ngữ hình ảnh tùy tiện hoặc khn sáo, bắt chước một cách lộ liễu thì
cách miêu tả cũng khơng có sức thuyết phục.

Vì thế khi dạy văn miêu tả cần rèn luyện cho các em cách sử dụng từ ngữ,
lựa chọn hình ảnh sao cho phù hợp.
Ví như:
- Tả cảnh sóng biển có nhiều từ ngữ gợi hình, gợi thanh : cuồn cuộn, nhấp
nhơ , lăn lăn , rì rầm , rì rào , lơ nhơ , ì oạp …Nhưng khơng phải tả sóng lúc nào
cũng dùng được các từ ấy. Ta phải xác định các từ ngữ phù hợp trong từng hồn
cảnh. Ví dụ như sóng biển lúc trời động thì phải dùng từ cuồn cuộn; tả tiếng
sóng biển vỗ vào bờ đá thì phải dùng từ ì oạp; tả tiếng song biển vọng lại trong
đêm mà nghe xa thì phải dùng tù từ rì rầm…
- Tả cây cối cũng có nhiều từ ngữ chỉ màu xanh khác nhau: xanh um, xanh
rì, xanh non, xanh mơn mởn; xanh tươi, xanh tốt, xanh rờn… nhưng khi đi vào
thực tế, mỗi loại cây đều có một màu xanh riêng, không thể lẫn lộn: cây rau cải
trong vườn hay cây lúa đang thì con gái thì phải là xanh mơn mởn, xanh rờn;
cây cối trong rừng rậm rạp thì phải là xanh rì, xanh tốt, xanh um…
13

skkn


- Ngay cả âm thanh tiếng mưa rào cũng có sự phân biệt rất rõ: mưa ban đầu
thì lẹt đẹt, mưa trên mái tơn thì rào rào, mưa đạp vào phên lứa thì đồm độp; mưa
đập vào tàu lá chuối thì lung bùng; mưa từ mái tranh giọt đổ xuống sân thì ồ ồ…
- Cịn từ ngữ tả dáng đi của con người cũng vô cùng phong phú, đa
dạng: em bé tập đi thì lẫm chẫm, cậu bé tinh nghịch thì có dáng đi nhún nhảy,
vừa đi vừa nhảy chân sáo; cụ già thì lom khom; người đang đau chân thì đi khập
khà khập khiễng; có cơ gái trẻ thì yểu điệu thướt tha; người vất vả thì dáng đi
hấp tấp, lật đật, sấp ngửa, chân nam đá chân xiêu…
- Bên cạnh việc lựa chọn từ ngữ, vấn đề tạo hình ảnh trong văn miêu tả
cũng khơng kém phần quan trọng có thể thấy câu văn miêu tả giàu hình ảnh bao
nhiêu thì sức gợi cảm của nó sẽ lớn bấy nhiêu. Việc tạo hình ảnh cho câu văn

miêu tả có thể thực hiện bằng nhiều cách: hoặc bằng từ ngữ tượng hình, tượng
thanh (gấu bố, gấu mẹ, gấu con cùng béo núc ních, bước đi lặc lè, lặc lè); hoặc
bằng nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, nhân hóa (“Lá mía sắc như lưỡi gươm, xanh
đậm”, “lũ trẻ đứa nào đứa nấy da cứ đen bóng như bơi nhọ mỡ ”, “ Dịng sơng
thay chiếc áo màu xanh hằng ngày bằng dải lụa đào”).
b) Cách đặt câu, dựng đoạn trong văn miêu tả
+ Cách đặt câu trong văn miêu tả
Cũng như văn tự sự, cách đặt câu trong văn miêu tả địi hỏi người viết phải
linh hoạt và cơng phu. Có thể là câu dài với đầy đủ các thành phần chính phụ, có
nhiều tầng ý nối tiếp nhau. Cũng có thể là những câu ngắn ( câu đặc biệt hoặc
câu tỉnh lược). Vấn đề đặt ra ở đây là phải biết chọn kiểu câu phù hợp với hoàn
cảnh, với tình huống, nội dung miêu tả, và cả với cảm xúc của người miêu tả
nữa.
Sau đây tôi xin giới thiệu một số trường hợp lựa chọn kiểu câu thường gặp
như sau:
- Kiểu câu dài, nhiều tầng ý, nhiều vế nối nhau thường phù hợp với việc
miêu tả khung cảnh thiên nhiên êm đềm, yên ả, hoặc những hoạt động diễn ra
nhẹ nhàng, liên tiếp nối nhau; hoặc khi cảm xúc của con người đang dâng tràn,
tuôn chảy…
- Kiểu câu ngắn (câu đặc biệt, câu tỉnh lược) với các dấu câu (dấu chấm
than, dấu chấm hỏi, dấu chấm lửng…) thường dùng để diễn tả những cảm xúc
mạnh, những hoạt động nặng, diễn ra nhanh gọn liên tục; những tình huống bất
ngờ…
- Kiểu câu có sử dụng phép tu từ đảo ngữ: thường dùng trong những trường
hợp cần nhấn mạnh một đặc điểm, một trạng thái nào đó của đối tượng được
miêu tả.
Tuy nhiên với học sinh lớp 6, việc yêu cầu học sinh sử dụng linh hoạt các
kiểu câu còn gặp nhiều khó khăn. Vì thế giáo viên nên hướng dẫn học sinh lựa
chọn các kiểu câu phù hợp với đối tượng và đề bài.
Ví dụ :

14

skkn


- Tả cảnh đồng quê yên ả thanh bình: cánh đồng trải ra xa tít tắp, mênh
mơng với sóng lúa lăn tăn gợn nhẹ, đuổi nhau chạy dài đến tận chân trời. (Câu
dài)
- Tả ánh trăng khuya: Trời đã về khuya, ánh trăng dường như càng sáng
hơn, vằng vặc giữa vịm cao mênh mơng, lặng lẽ tỏa ánh sáng dịu dàng và tinh
khiết xuống mặt đất, huyền ảo và đẹp lạ kì. (Câu dài)
- Tả em bé đang tập đi: Cu Tí đang chập chững tập đi . Hai bàn chân bấm
xuống. Hai tay dang ra để giữ thăng bằng. Một bước. Hai bước. “ Uỵch”. Cu Tí
khóc ịa lên vì bị ngã. Mẹ vội đỡ Tí dậy, thơm một cái vào đơi má trắng hồng. Tí
ta nhoẻn cười, nước mắt vẫn đọng trên mí. Hai bàn chân lại bấm xuống. Hai tay
lại dang ra. Một bước… Hai bước… Năm bước… Mười bước… Tiếng vỗ tay cổ
vũ của mọi người làm cho cu Tí càng phấn khởi. (Một loạt câu ngắn)
- Tả hoa phượng: Trên cành cây, lác đác xuất hiện những bông hoa phượng
đầu mùa. (Câu đảo ngữ)
Tuy nhiên tôi cũng lưu ý và nhắc nhở học sinh trong khi làm văn miêu tả
là phải biết dùng đan xen các kiểu câu khác nhau. Có câu dài xen câu ngắn. Có
câu bình thường xen câu đặc biệt. Như vậy mới tạo được sự phong phú, đa dạng
cho cách diễn đạt.
+ Cách dựng đoạn trong văn miêu tả
Ngoài việc đặt câu, cách dựng và liên kết giữa các đoạn trong một bài văn
miêu tả cũng rất cần được quan tâm. Thông thường, khi làm văn, học sinh chia
bài thành ba phần: mở bài, thân bài, kết bài. Do đó, ứng với ba phần thường là
ba đoạn văn. Mở bài và kết luận ngắn, thân bài thì dài. Dù nội dung bài văn
nghèo nàn hay phong phú, dù dung lượng bài văn dài hay ngắn, dù đối tượng
miêu tả ít hay nhiều, phần thân bài cũng chỉ có một đoạn. Đây là hạn chế đáng

tiếc mà tôi thường gặp trong bài làm của học sinh.
Vậy có thể khắc phục hạn chế này bằng cách nào? Trước hạn chế đó tơi
hướng dẫn học sinh làm như sau:
Điều trước tiên tôi hướng dẫn học sinh xác định những ý cần triển khai
trong bài văn miêu tả để chia thân bài thành các đoạn văn tương ứng. Có nhiều
cách để chia đoạn trong bài văn tả.
Sau đây là một số cách giúp học sinh tách đoạn trong phần thân bài:
- Chia đoạn theo trình tự thời gian: Người làm bài đặt đối tượng miêu tả
vào các khoảng thời gian khác nhau. Trong một năm thì theo bốn mùa xn – hạ
– thu – đơng (tả cây cối, cảnh vật); trong một ngày thì có sáng – trưa –chiều –
tối (tả cảnh vật, thời tiết); trong q trình thì có bắt đầu- diễn biến- kết thúc (tả
cảnh sinh hoạt), khi nhỏ – khi lớn – về già (tả con người), …
- Chia đoạn theo trình tự không gian: Người làm bài quan sát đối tượng
miêu tả ở nhiều góc độ và từ nhiều hướng khác nhau: từ xa nhìn lại, từ ngồi
nhìn vào, từ trong nhìn ra, từ trên nhìn xuống, từ dưới nhìn lên, nhìn bên trái,
nhìn bên phải, nhìn phía trước, nhìn phía sau, nhìn tồn cảnh, nhìn chi tiết…
15

skkn


- Chia đoạn theo đặc điểm tính cách của đối tượng được miêu tả: mỗi đặc
điểm tính chất có thể được tách ra để miêu tả trong một đoạn văn độc lập. Ví
như tả người nói chung có thể chia thành hai ý (hình dáng, tính tình)…
- Chia đoạn theo số lượng đối tượng được miêu tả: có thể sử dụng cách chia
đoạn này cho kiểu bài tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh sinh hoạt, tả thế giới loài vật,
đồ vật…Ví như tả cảnh thiên nhiên thì có: bầu trời – mặt đất; cảnh trong vườn –
ngoài đồng; cảnh biển cả – cảnh núi rừng… Hoặc tả khơng khí giờ học thì có:
cơng việc của thầy cơ giáo, cơng việc của học sinh, … Tả đàn gia súc, gia cầm
của gia đình thì có: bầy gà, đàn vịt, lũ trâu bò – mấy con lợn…

- Sau khi học sinh chia đoạn rồi tôi hướng dẫn cách triển khai ý trong từng
đoạn. Thơng thường, nếu tồn bộ thân bài triển khai trong một đoạn văn thì
nhiều khi chỉ cần liệt kê cảnh cũng có thể thành một đoạn (dù rằng nội dung
miêu tả sẽ nghèo nàn, dù rằng cách tả sẽ không hay). Nhưng khi tách phần thân
bài ra một số đoạn mà người viết khơng có đủ kiến thức để triển khai ý trong
một đoạn thì những đoạn văn ấy sẽ làm cho bài văn trở nên rời rạc, vụn vặt,
thiếu liên kết. Như vậy, thực tế này đòi hỏi người viết phải có khả năng mở rộng
ý, phát triển hình ảnh miêu tả một cách phong phú và hợp lí. Thơng thường có
thể mở rộng ý theo một số hướng sau:
- Mở rộng ý bằng cách liên tưởng, so sánh đối tượng đang miêu tả với đối
tượng khác. Hoặc đặt đối tượng đang miêu tả trong các bước quan hệ với những
đối tượng xung quanh.
- Mở rộng ý bằng cách đi vào miêu tả thật tỉ mỉ, thật chi tiết từng đường
nét, hình dáng, đặc điểm của đối tượng.
- Mở rộng ý bằng cách đan xen vào những câu văn tả là những câu văn nêu
cảm xúc, suy nghĩ, nhận xét.
- Mở rộng ý bằng cách kết hợp miêu tả đặc điểm với những lời giới thiệu
về giá trị, về cộng dụng của đối tượng được miêu tả.
Ví dụ : Khi làm bài văn tả cây cối trong vườn vào một thời điểm cụ thể, ta
có thể chia thân bài thành một số đoạn ứng với một số đối tượng miêu tả như
sau :
Đoạn một : tả một cây cối có đặc điểm tiêu biểu và gây ấn tượng nhất trong
vườn (Lớn nhất, đặt ở vị trí quan trọng nhất). Khi tả phải giới thiệu được vị trí,
miêu tả, hình dáng, đặc điểm của thân, lá, rễ, hoa, quả,…,tầm quan trọng của nó
đối với các cây cối khác trong vườn, hoặc đối với con người. Có trường hợp nêu
lên lai lịch của nó (Ai trồng? Trồng lúc nào? Người trồng và thời điểm trồng có
ý nghĩa như thế nào đối với chủ nhân của khu vườn?).
Đoạn hai : Tả loại cây hoa cho hương: Liệt kê một số loài hoa (hoa nhài,
hoa hồng,…). Đồng thời miêu tả cụ thể vị trí, hình dáng đặc điểm, cấu tạo của
từng loại cây (thân, lá, hoa, hương vị…)


16

skkn


Đoạn ba: Tả loài cây cho quả: Liệt kê một số loại cây tiêu biểu (cam, bưởi,
na, ổi…). Sau đó tập trung miêu tả vị trí, quy trình ra hoa kết trái, cấu tạo, cơng
dụng… của từng lồi cây.
Lưu ý: là trong q trình tả, có thể đặt các đối tượng được tả trên trong mối
quan hệ với nắng, với gió, với chim chóc, ong bướm, với con người…để tả toàn
cảnh khu vườn hiện lên sống động và đẹp hơn.
c) Cách mở đầu và cách kết luận cho một bài văn miêu tả
Mơ hình bố cục của một bài văn miêu tả thông thường gồm ba phần rõ rệt:
- Mở bài : giới thiệu đối tượng cần miêu tả (Đối tượng là gì? Có quan hệ
như thế nào đối với người miêu tả? Hoàn cảnh tiếp xúc gặp gỡ với đối tượng ấy
có gì đặc biệt?)
- Thân bài : Lần lượt dừng lại hình ảnh hoặc khung cảnh được miêu tả với
những nét đặc điểm chung, riêng
- Kết luận : Nêu cảm nghĩ về đối tượng miêu tả
Cách mở bài
Cách mở bài trực tiếp
Với cách mở bài trực tiếp thì văn miêu tả chỉ mở bài bằng việc giới thiệu
đối tượng và kết bài bằng cách nêu cảm nghĩ của người viết (Và với cách mở bài
và kết bài này tôi áp dụng cho những học sinh nhận thức ở mức độ trung bình,
yếu)
Ví dụ 1: Khi tả một cây ăn quả, thường các em hay đi theo cách mở và kết
như sau:
Mở bài: Trong vườn bà em trồng rất nhiều thứ quả như cam, ổi, xồi…
Nhưng em thích nhất là cây bưởi đào.

Kết luận: Em rất yêu quý khu vườn (yêu cây bưởi đào). Hoặc em muốn
được chăm sóc cho khu vườn ngày càng tươi tốt (Chăm sóc cây bưởi đào để nó
tiếp tục đơm hoa kết trái ở những mùa sau).
Ví dụ 2: Đối với đề văn “Tả một người bạn thân”, cách mở bài và kết luận
cũng lắp theo khn hệt như ví dụ 1 :
Mở bài: Em có nhiều người bạn, bạn nào em cũng quý mến. Nhưng có lẽ
thân thiết và gần gũi nhất vẫn là bạn X.
Kết luận: Em và X rất thân thiết, gắn bó với nhau. Chúng em tự hứa với
lịng mình rằng, dù cho hoàn cảnh và điều kiện cuộc sống có thay đổi như thế
nào thì tình bạn ấy vẫn không bao giờ phai nhạt.
Cách mở bài gián tiếp
Nếu cứ theo kiểu lắp khuôn như kiểu mở bài trực tiếp thì ta sẽ có một loạt
mở bài và kết luận gần như giống nhau mặc dù đối tượng cần miêu tả có thể
khơng giống nhau. Vì thế để bài văn miêu tả sáng tạo hơn, nên tôi hướng dẫn
17

skkn


học sinh chọn một số cách mở bài và kết bài khác: Mở bài gián tiếp (Cách này
tôi thường áp dụng cho học sinh khá giỏi).
- Cách mở bài: có thể mở bài bằng một lời thông báo ngắn gọn, đi thẳng
vào vấn đề (Ngày chưa tắt hẳn,trăng đã lên rồi – Thạch Lam).
- Cũng có thể mở bài bằng lời giới thiệu tình huống để đối tượng miêu tả
xuất hiện. Cách mở này thường dài dịng (Ví như tả một người công nhân làm
đường : Cái Thư, bạn tôi lạ lắm kia! Hễ cứ ngồi với nhau là nó chẳng lần nào là
nó khơng mở đầu bằng câu:“Mẹ tớ, ấy biết không, là công nhân sửa đường đấy.
Năm nào mẹ tớ cũng đươc bầu là lao động tiên tiến. Tổ mẹ tớ vá đường giỏi
nhất công ti. Nếu ấy được xem mẹ tớ làm việc, ấy phải thích mê đi.
Cách kết bài

- Có thể kết thúc bằng một câu miêu tả
Ví dụ: Đêm đã khuya, vầng trăng càng sáng, vằng vặc trên vịm cao mênh
mơng như đang thao thức cùng trời đêm.
Hay: Cánh đồng lúa rập rờn, rập rờn trong gió. Hương thơm dìu dịu tỏa ra
lan xa. Lan xa …
- Có thể kết thúc bằng một lời mở hoặc để lửng ý cho người đọc tự cảm
nhận.
Ví dụ: Khi tả cảnh hồng hơn trên sơng Hương, tác giả Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã kết thúc bài theo kiểu này: “Huế thức dậy trong nhịp chuyển động mới
đi vào cuộc sống ban đầu của nó.
- Hoặc cũng có thể kết thúc bằng một vài lời tâm tình trực tiếp với đối
tượng được miêu tả.
Ví dụ: Kết bài cho bài văn miêu tả mùa xuân:“Cảm ơn mùa xuân, cảm ơn
những điều kì diệu mà trời đất đã ban tặng cho thiên nhiên và con người”.
Ví dụ: Kết bài cho bài văn tả hình ảnh người mẹ: “Con yêu mẹ rất nhiều!
Mẹ ơi!”
4.4.6. Hướng dẫn học sinh cách tìm ý và lập dàn ý cho bài văn miêu tả
Sau khi đã xác định được yêu cầu đề bài và đúng đối tượng miêu tả nhưng
chưa thể định hình được ngay hướng đi của bài làm. Vì thế tơi hướng dẫn học
sinh cách lập dàn ý như sau:
a) Nhóm bài tả cảnh
Mở bài:
- Giới thiệu về đối tượng miêu tả
Thân bài
- Tả khái quát về đối tượng miêu tả
- Tả chi tiết
18

skkn



+ Quan sát lựa chọn những hình ảnh cụ thể tiêu biểu của đối tượng
+ Miêu tả vẻ đẹp của đối tượng theo trình tự quan sát ở nhiều góc nhìn và
nhiều thời điểm khác nhau
+ Sắp xếp những điều quan sát được theo một trình tự hợp lý.
- Cảm nghĩ về đối tượng miêu tả (nếu có)
Kết bài: Phát biểu cảm nghĩ của mình về đối tượng miêu tả
b) Nhóm bài tả người
Mở bài: Giới thiệu về người định tả(là ai? Có quan hệ với em như thế nào)
Thân bài
- Tả hình dáng bên ngồi
- Tả tính cách, hành động, cử chỉ, việc làm…
- Kỉ niệm sâu sắc nhất với đối tượng miêu tả
Chú ý:
+ Đối tượng miêu tả là tả chân dung hay hoạt động)
+ Lựa chọn những hình ảnh tiêu biểu của đối tượng được tả từ thực tiễn
vốn sống của mình
+ Biết trình bày các hình ảnh đó theo một trình tự và ngơn ngữ hợp lý
Kết bài Thể hiện tình cảm của mình với đối tượng miêu tả
4.4.7. Thực hiện một cách nghiêm túc và có hiệu quả tiết chẩm trả bài tập
làm văn
a) Chấm bài
- Trước khi chấm bài tôi đọc qua một lượt bài làm của các em học sinh để
có cái nhìn bao quát chung về bố cục, về diễn đạt của học sinh, xem thử học sinh
đã làm bài đúng thể loại, nội dung và trọng tâm bài viết chưa.
- Sau đó tơi chấm từng chi tiết từng bài: đọc kĩ từng bài, sửa từng lỗi nhỏ:
dùng từ, lỗi về câu, lỗi chính tả cho các em (nếu có) và tơi đặc biệt chú ý đến
cách diễn đạt sử dụng các hình ảnh, các biện pháp tu từ của các em.
- Bên cạnh đó tơi cũng ghi lại những từ, câu văn, đoạn văn hay và những
bài làm văn tốt.

- Sau khi chấm bài xong, tôi tổng hợp điểm theo vào sổ cá nhân và so sánh
kết quả bài làm của từng hoc sinh với kết quả bài kiểm tra trước. Từ đó biết
được em nào có sự tiến bộ; em còn lơ là, chủ quan với việc học.
b) Trả bài
- Trước hết tôi nhận xét, đánh giá chung về phần bài làm của cả lớp: về
việc nắm vững các yêu cầu của đề bài, thể loại, xác định đúng nội dung trọng
tâm.
19

skkn


- Sau đó tơi gọi từng học sinh lên nhân bài của mình và chỉ ra lỗi sai của
các em đó để em rút kinh nghiệm trong những bài kiểm tra sau
- Đọc trước lớp những câu văn, đoạn văn hay những bài làm tốt để các em
khác học tập
- Khen ngơi những em làm bài tốt đạt điểm cao, những em đã có tiến bộ.
Đồng thời cũng nhắc nhở, phê bình những em làm bài chưa tốt cịn cẩu thả, chủ
quan…
Ví dụ: Đây là phần bài làm của học sinh được tôi sửa lại lỗi diễn đạt như
sau
Đề bài: Từ văn bản “ Lao xao” của nhà văn Duy Khán, hãy tả lại khu vườn
nhà em.
Ví dụ: Một đoạn văn trong bài làm của học sinh
Bài làm của học sinh

Bài sửa của giáo viên

Vườn cây đang vào mùa quả
Vườn cây đang vào mùa quả chín trơng thật

chín trơng thật thích mắt. Đây là thích mắt. Rợp bóng che nửa khoảng vườn là
cây dừa lớn đứng uy nghi tỏa
cây dừa lớn, đứng uy nghi. Những buồng
Vườn cây đang vào mùa quả chín dừa trơng như những chùm bóng bay màu
trơng thật thích mắt, từng chùm xanh lủng lỉu bám quanh ngọn, nặng trĩu.
quả bao quanh ngọn nặng chĩu.
Quả nào quả ấy mơn mởn và lớn nhanh như
Giữa vườn là cây roi hồng. Năm thổi. Còn giữa vườn là cây roi hồng. Năm
nay roi cũng được mùa, nhiều quả nay roi cũng được mùa, quả sai trĩu trịt. Có
có những cành khơng nhìn thấy lá những cành roi chín đỏ mọng, uốn cong, chỉ
đâu. Cuối góc vườn là cây bưởi. nhìn thấy quả không thấy lá đâu nữa. Nắng
Đây là giống bưởi mới, thân không gắt. Rồi một trận mưa rào đổ xuống. Những
cao, tán lá xòe rộng, quả to và múi trái roi da căng mọng nước trông càng hấp
dày. Ngắm vườn cây vào mùa này, dẫn thêm. Ở cuối góc vườn là cây bưởi đứng
lịng người tự nhiên thấy thư thái nép mình lặng lẽ cõng trên lưng những chùm
hơn.
quả trịn lốc. Đây là giống bưởi mới, thân
khơng cao, tán lá xòe rộng. Nhưng được cái
quả to và múi dày nên nhiều người ưa
chuộng. Ngắm vườn cây vào mùa quả chín
khơng hiểu sao lịng người tự nhiên thấy
thanh thản và thư thái hơn.
Ở đoạn văn này học sinh mới chỉ dừng lại nội dung thông báo, giới thiệu
đặc điểm của từng loại cây, không chú trọng đến việc sử dụng hình ảnh và các
biện pháp tu từ nên đoạn văn khơng hay và khơng có sức hấp dẫn.
4.5. Chứng minh khả năng áp dụng của sáng kiến
Quá trình thực hiện kinh nghiệm của tôi qua một số năm đứng lớp, với
những gì tơi đã trình bày và đã viết phần nào đó đem đến sự chuyển biến tích
20


skkn



×