Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Skkn lựa chọn một số bài tập để sữa sai kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực trong môn bóng rổ cho học sinh lớp 10 yên thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 47 trang )

Ở GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT NAM YÊN THÀNH

LỰA CHỌN MỘT SỐ BÀI TẬP ĐỂ SỮA SAI KĨ THUẬT CHUYỀN VÀ
BẮT BÓNG BẰNG HAI TAY TRƯỚC NGỰC TRONG MƠN BĨNG RỔ
CHO HỌC SINH LỚP 10 Ở N THÀNH
Môn: THỂ DỤC

Tác giả: BÙI VĂN CHƯƠNG
Tổ: KHXH
Năm thực hiện: 2020 - 2021

1

skkn


MỤC LỤC
NỘI DUNG

Trang

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ

3
3

1.Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu

5



3. Nhiệm vụ nghiên cứu

5

4. Đối tượng nghiên cứu.

5

5. Phương pháp nghiên cứu.

5

5.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu:

5

5.2. Phương pháp quan sát sư phạm:

5

5.3. Phương pháp phỏng vấn:

6

5.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm:

6

5.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm:


6

5.6. Phương pháp toán học thống kê.

6
7

PHẦN II. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

7

1. Thực trạng của vấn đề

7

1.1. Thuận lợi:

7

1.2. Khó khăn:

7

2. Cơ sở lý luận để lựa chọn bài tập

7

2. 1. Vị trí mơn Bóng Rổ trong hệ thống Giáo dục Thể chất ở Việt Nam.


7

2.2. Những quan điểm về giảng dạy kỹ thuật môn bóng rổ.

8

2.3. Nguyên lý kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực.

10

2.4. Vai trị của sự hồn thiện kĩ thuật.

12

2.5. Tầm quan trọng của việc xác định những lỗi sai thường mắc.

13

2. 6. Các yếu tố ảnh hưởng tới kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước
ngực.

13

2

skkn


2.7. Đặc điểm phát triển hình thái, tâm sinh lý.


13

2.8. Công tác GDTC tại các trường THPT trên địa bàn huyện đang giảng dạy.

14

II. LỰA CHỌN MỘT SỐ BÀI TẬP ĐỂ SỮA LỖI SAI KHI THỰC HIỆN KĨ
THUẬT CHUYỀN VÀ BẮT BĨNG BẰNG HAI TAY TRƯỚC NGỰC TRONG
MƠN BĨNG RỔ CHO HỌC SINH LỚP 10 Ở YÊN THÀNH.

15

1. Thực trạng sử dụng các bài tập trong giảng dạy kĩ thuật chuyền và bắt bóng
bằng hai tay trước ngực cho học sinh lớp 10 ở Yên Thành.

15

2. Một số lỗi sai thường mắc khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai
tay trước ngực của học sinh lớp 10 ở Yên Thành.

16

3. Cơ sở lựa chọn bài tập để sữa lỗi sai thường mắc khi thực hiện kĩ thuật chuyền
và bắt bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh lớp 10 ở Yên Thành.

21

3.1. Lựa chọn một số bài tập để sữa lỗi sai thường mắc khi thực hiện kĩ thuật
chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh lớp 10 ở Yên Thành.


21

3.2. Đánh giá hiệu quả sử dụng các bài tập lựa chọn để sữa sai thường mắc khi
thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh lớp 10
ở Yên Thành.
PHẦN III. KẾT LUẬN.

31
43

1. Kết luận

43

2. Kiến nghị.

45

3

skkn


PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài.
Trong sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo nhằm mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ văn minh. Thì yếu tố con người
ln ln chiếm vị trí quan trọng hàng đầu. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ:
“Muốn có chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Trong hình mẫu

và phẩm chất con người, sức khoẻ và thể chất chiếm một vị trí quan trọng và cần
thiết để đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Do đó TDTT là một bộ phận
của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa nó tổng hợp các phương tiện, phương pháp giúp
con người phát triển toàn diện, hài hoà, đặc biệt trong hoạt động TDTT là một
trong những hình thức cơ bản chuẩn bị thể lực phục vụ cho lao động sản xuất và
trong các hoạt động khác.
Vì thế mỗi quốc gia đều chú trọng đến cơng tác TDTT và đưa nền TDTT
nước mình lên đỉnh cao cũng như giữ vững và phát triển những môn TDTT mang
tính bản sắc dân tộc. Kinh nhgiệm của các nước phát triển cho thấy rằng: “ Truyền
thống của dân tộc là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của đất
nước”. TDTT là một lĩnh vực của nền văn hố vì vậy nó cũng mang tính dân tộc
đậm nét, ở Việt Nam cũng đã trãi qua hàng ngàn năm các môn thể thao dân tộc
như: Vật, đua thuyền, ném còn, đánh đu, vẫn còn tồn tại và trở thành nội dung hấp
dẫn trong các dịp lễ hội của dân tộc.
Trong cơng tác ngoại giao TDTT có chức năng là nhịp cầu nối giao lưu nối
tình hữu nghị và thắt chặt tình đồn kết giữa các đân tộc và các quốc gia trên thế
giới. Thông qua thi đấu thể thao các quốc gia trên thế giới có sự trao đổi tiếp thu
tinh hoa của nhau, qua đó tìm hiểu học tập giúp đỡ lẫn nhau thắt chặt tình hữu nghị
các nước trên thế giới, vì cuộc sống hồ bình trên thế giới.
Ngày nay đất nước ta đi trên con đường cơng nghiệp hố, hiện đại hố với
khẩu hiệu: “Khoẻ để xây dựng và bảo vệ tổ quốc” Hiểu được ý nghĩa tác dụng của
việc tập luyện TDTT đã đem lại sức khoẻ cho con người, hoàn thiện về thể chất
cho nhân dân và thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay. Có thể nói sức khoẻ con người là
một yếu tố hợp thành cực kì quan trọng của lực lượng sản xuất, có sức khoẻ mới
có lao động, có lao động mới có sự sáng tạo và làm ra của cải vật chất. Đất nước
có mạnh cùng với sự lớn mạnh của nhiều nghành trong cả nước, TDTT ngày nay
được Đảng và nhà nước quan tâm và đã đưa nền TDTT phát triển cả về bề rộng lẫn
chiều sâu
GDTC là một bộ phận quan trọng của hệ thống giáo dục XHCN nhằm tạo
điều kiện phát triển tồn diện:" Đức, trí, thể, mĩ, lao động hưóng nghiệp”. Từ sau

cách mạng tháng 8 năm 1945 một nhà nước công nông non trẻ mới ra đời, đứng
trong mn vàn khó khăn gian khổ Đảng và nhà nước ta vẫn luôn quan tâm đến
công tác GDTC trong nhà trường. Con người phát triển toàn diện là lực lượng
4

skkn


nòng cốt cho một xã hội phát triển, là lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của
Đảng của toàn dân. Vì vậy Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm và xác định rõ
việc bồi dưỡng giáo dục cho thế hệ trẻ có sức khoẻ dồi dào, có thể chất cường
tráng, có tâm hồn và phẩm chất trong sáng, có trí tuệ phát triển cao ... là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của sự nghiệp giáo dục.
Để thực hiện được mục tiêu của Đảng và nhà nước cũng như điều mong mỏi
của Bác Hồ kính u thì GDTC là một trong những phương tiện quan trọng để con
người tiến dần tới mục tiêu phát triển toàn diện. GDTC bao gồm 4 phương tiện
riêng biệt đó là Thể dục, Thể thao, Trò chơi và Du lịch.
Thể thao tự chọn trong nhà trường là một trong những nội dung của mơn
Giáo dục Thể chất được học sinh u thích và luôn mang lại hứng thú tập luyện.
Trong số các mơn thể thao tự chọn Bóng đá, bóng chuyền, bóng rổ, …. Thì Bóng
rổ là mơn thể thao đã và đang được các trường phổ thông đưa vào giảng dạy, thu
hút được học sinh tham gia một cách tích cực. Bóng rổ cũng như các mơn thể thao
khác, khi tập luyện nó có tác dụng củng cố và nâng cao sức khỏe, giáo dục cho con
người những phẩm chất quý giá như: Tinh thần tập thể, tính đồn kết, lịng dũng
cảm, ý chí vững vàng. Bóng rổ là mơn thể thao có tính hấp dẫn cao, dễ tập luyện,
thích hợp với nhiều lứa tuổi, giới tính, đặc biệt là các em học sinh THPT. Đến với
mơn Bóng rổ học sinh sẽ u thích và say mê tập luyện vì sự hấp dẫn và lôi cuốn
của môn thể thao này, những đường dẫn bóng uyển chuyển linh hoạt, lắt léo,
những pha ném rổ chính xác, tinh tế và nhẹ nhàng để ghi điểm, hay những pha
phịng thủ, phối hợp chuyền bóng trên sân … tất cả sẽ tạo nên những trận thi đấu

hấp dẫn và gay cấn đối với các cầu thủ cũng như người xem.
Trong bóng rổ có nhiều kĩ thuật động tác khác nhau như kĩ thuật dẫn bóng,
ném rổ, chuyền bóng, bắt bóng, nhảy bắt bóng bằng hai tay trên cao.... Trong đó kĩ
thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực là hai kĩ thuật khác nhau song lại
gắn bó với nhau rất chặt chẽ trong các bài tập, đây là kĩ thuật cơ bản, được sử dụng
rất nhiều trong tập luyện và thi đấu Bóng rổ, nhằm mục đích liên kết, phối hợp
giữa các đồng đội với nhau, phát động tấn công cũng như triển khai các ý đồ chiến
thuật của trận đấu. Tuy nhiên ở nhiều em học sinh THPT, đặc biệt là các em khối
10, việc thực hiện kĩ thuật này còn yếu, mắc nhiều lỗi sai khi thực hiện, kĩ thuật cơ
bản thiếu chính xác, khơng đạt được mục đích khi chuyền bóng, hoặc bắt bóng
khơng đúng kĩ thuật làm hỏng, gián đoạn hoặc làm chậm các pha phối hợp thi đấu,
những lỗi sai thường mắc cứ lặp đi lặp lại, mà chưa có nhiều giải pháp khắc phục
phù hợp, thường xuyên và hiệu quả. Điều này ảnh hưỡng rất lớn đến tâm lý, sự
hứng thú trong tập luyện của các em học sinh, dễ chán nán, đồng thời ảnh hưởng
rất nhiều đến các kĩ thuật khác và thành tích thi đấu của đội bóng.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, nhằm giúp các em có giải pháp sữa
chữa được những lỗi sai thường mắc, thực hiện kĩ thuật chính xác hơn, phối hợp
nhuần nhuyển, nhịp nhàng khi thực hiện kĩ thuật chuyền bóng và bắt bóng bằng
5

skkn


hai tay trước ngực, góp phần nâng cao trình độ cho học sinh trong mơn bóng rổ tơi
mạnh dạn nghiên cứu đề tài:
“Lựa chọn một số bài tập để sữa sai kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai
tay trước ngực trong mơn Bóng rổ cho học sinh lớp 10 n Thành”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu phân tích thực trạng q trình giảng dạy kĩ thuật chuyền
và bắt bóng bằng hai tay trước ngực của giáo viên, kết quả thực hiện kĩ thuật này

của học sinh lớp 10 THPT ở Yên Thành. Từ đó nghiên cứu, ứng dụng và đề xuất
các bài tập phù hợp để sữa những lỗi sai thường mắc, nâng cao độ chính xác khi
thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh lớp 10
THPT ở Yên Thành.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài xác định giải quyết 02
nhiệm vụ sau:
Nhiệm vụ 1: Tìm hiểu, phân tích một số lỗi sai thường mắc trong quá trình
thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực khi học mơn Bóng
rổ của học sinh lớp 10 Trường THPT ở Yên Thành.
Nhiệm vụ 2: Nghiên cứu và lựa chọn một số bài tập để sữa những lỗi sai khi
thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh lớp 10
THPT ở Yên Thành.
4. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là học sinh lớp 10 THPT ở Yên Thành.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để giải quyết các mục tiêu, nhiệm vụ nêu trên trong quá trình nghiên cứu, đề
tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
5.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu:
Đây là phương pháp được sử dụng rộng rãi trong hầu hết các cơng trình
nghiên cứu khoa học. Phương pháp này giúp hệ thống hố các kiến thức có liên
quan đến lĩnh vực nghiên cứu. Trong q trình nghiên cứu chúng tơi đã thu thập,
tổng hợp và phân tích các tài liệu, các văn kiện của Đảng, Nhà nước, các tài liệu
khoa học và kết quả nghiên cứu của các tác giả, các nhà khoa học liên quan đến đề
tài nghiên cứu. Đây là sự tiếp nối, bổ sung các luận cứ khoa học và tìm hiểu một
cách triệt để những vấn đề liên quan.
5.2. Phương pháp quan sát sư phạm:
Phương pháp này dùng để khảo sát, phân tích đánh giá khách quan thực
trạng q trình học mơn Bóng rổ của học sinh lớp 10 THPT ở Yên Thành. Việc
6


skkn


sử dụng phương pháp này cịn giúp chúng tơi có căn cứ để xác định tính hiệu quả
của các bài tập đưa ra.
Trong q trình nghiên cứu, chúng tơi đã quan sát trực tiếp các buổi học Bóng
rổ của học sinh lớp 10 trong các trường THPT ở Yên Thành.
5.3. Phương pháp phỏng vấn:
Chúng tôi tiến hành trao đổi, phỏng vấn các giáo viên có nhiều kinh nghiệm
giảng dạy nội dung Bóng rổ của các trường THPT trên địa bàn huyện. Mục đích
phương pháp này là đảm bảo tính thực tiễn và khoa học trong quá trình nghiên cứu.
5.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm:
Trong quá trình nghiên cứu đã sử dụng phương pháp kiểm tra sư phạm để
kiểm tra kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực của học sinh lớp 10
THPT ở Yên Thành.
5.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
Thực nghiệm sư phạm là phương pháp được sử dụng phổ biến trong
nghiên cứu khoa học. Mục đích của thực nghiệm sư phạm là sử dụng hoặc xây dựng
các bài tập cho học sinh tập luyện để só sánh đối chiếu với những học sinh khơng
được áp dụng. Ngồi ra, thực nghiệm sư phạm cịn đánh giá hiệu quả bài tập lựa
chọn cho học sinh và đánh giá hiệu quả của nó.
Mặt khác, thơng qua thực nghiệm sẽ tạo điều kiện cho nhà nghiên cứu loại trừ
một phần ảnh hưởng của các tác động bên ngoài.
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm trên 80 học sinh lớp 10 THPT ở Yên Thành,
chia làm 02 nhóm:
- Nhóm đối chứng: Gồm 40 học sinh tập luyện theo chương trình, giáo án
giảng dạy của trường.
- Nhóm thực nghiệm: Gồm 40 học sinh tập luyện theo giáo án của chương
trình thực nghiệm nhưng vẫn tuân thủ theo kế hoạch và lịch trình giảng dạy của

nhóm.
5.6. Phương pháp tốn học thống kê.
Trong q trình nghiên cứu chúng tơi đã sử dụng phương pháp toán học thống
kê để xử lý các số liệu có liên quan và sử dụng một số cơng thức sau:
n

 Xi
X

i 1

n

;

n

CT tính TB cộng của
các số liệu trong bảng
thống kê

2

 

(X

i

 X )2


i 1

;

  2 ;

n 1

t 

XA  XB

 A2
nA

CT tính phương sai
CT tính độ lệch
của bảng số liệu
chuẩn của bảng số
NỘI
DUNG
thống kê PHẦN II.liệu
thống kê



 B2
nB


CT so sánh 2 giá trị TB ở
mẫu lớn ( n  30 0)

7

skkn


I. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1. Thực trạng của vấn đề
1.1. Thuận lợi:
Được Ban giám hiệu và các giáo viên giảng dạy ở các nhà trường quan tâm,
tạo mọi điều kiện trong việc giảng dạy huấn luyện bộ môn Thể dục cũng như các
hoạt động TDTT trong trường học.
Bản thân là giáo viên đã có nhiều năm tham gia giảng dạy môn Thể dục ở
trường THPT.
Đội ngũ giáo viên giảng dạy môn Thể dục ở trường cũng như trong huyện có
nhiều giáo viên có nhiệt tình, kinh nghiệm và năng lực và đam mê chun mơn.
Ln đồn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong chuyên môn cũng như trong cơng tác giáo
dục học sinh.
Học sinh có ý thức, kỷ luật và chấp hành tốt nội qui của nhà trường.
Giáo dục thể chất cho học sinh trong nhà trường đang phát triển được phụ
huynh, học sinh, nhà trường và nhiều tổ chức xã hội quan tâm.
Kỷ luật tự giác của học sinh trong các tiết học Thể dục đã hình thành từ
những năm trước thông qua sự giáo dục, nghiêm túc, thường xuyên của giáo viên
trong nhà trường.
1.2. Khó khăn:
Cơ sở vật chất nhà trường phục vụ cho tập luyện và thi đấu mơn Bóng rổ cịn
chưa đáp ứng hết nhu cầu học, tập luyện và thi đấu của học sinh.
Một số học sinh còn chưa đam mê tập luyện nội dung Bóng rổ. Một số học

sinh xuống sân vẫn còn chưa tự giác tập luyện, một số em còn tập đối phó, bên
cạnh đó cịn một số em học sinh xem nhẹ việc học Thể dục.
Kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực là một trong những kĩ
thuật cơ bản được sử dụng rất nhiều trong bóng rổ, kĩ thuật này tương đối khó yêu
cầu người tập phải kết hợp nhịp nhàng lực từ chân, cánh tay tới các ngón tay, ngồi
ra trong q trình tập luyện người tập phải thực hiện tiếp xúc đúng hình tay, tầm
tiếp xúc, phối hợp di chuyển nhịp nhàng. Vì kĩ thuật tương đối phức tạp như vậy
nên học sinh khơng chịu khó tập luyện tỉ mỉ từ kĩ thuật cơ bản; bên cạnh đó khi
khơng tập trung tập luyện kĩ thuật một cách cẩn thận có thể xảy ra chấn thương các
ngón tay dẫn đến tâm lý ngại tập luyện hoặc tập qua loa đối phó.
2. Cơ sở lý luận để lựa chọn bài tập
2. 1. Vị trí mơn Bóng Rổ trong hệ thống Giáo dục Thể chất ở Việt Nam.
Khơng phải ngẫu nhiên mà bóng rổ từ lâu đã trở thành môn thể thao được ưa
chuộng ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển như Mỹ, Nga,
8

skkn


Braxin… Đây được đánh giá là môn thể thao tuyệt vời hỗ trợ cho sự phát triển toàn
diện của trẻ, đặc biệt là các em trước và trong độ tuổi dậy thì.
Tại Việt Nam, theo đề án “Phát triển Bóng rổ học đường đến năm 2030” hợp
tác cùng NBA, môn bóng rổ sẽ được mở rộng chú trọng ở các trường học trên toàn
quốc. Điều này mở ra một cơ hội rất lớn cho các em có cơ hội được tiếp xúc với
mơn thể thao này. Mục tiêu là góp phần nâng cao thể lực, phát triển tầm vóc, rèn
luyện ý chí, kỹ năng, tính kỷ luật và tinh thần đồng đội cho học sinh, sinh viên, từ
đó ni dưỡng niềm đam mê thể thao đi cùng một lối sống khoẻ mạnh, có ích cho
xã hội; đồng thời, tìm kiếm và bồi dưỡng những tài năng bóng rổ của đất nước,
giúp bóng rổ Việt Nam nói riêng và thể thao Việt Nam nói chung khẳng định được
vị thế của mình trên trường quốc tế.

Tập luyện và thi đấu bóng rổ là quá trình rèn luyện, bồi dưỡng con người phát
triển tồn diện về phẩm chất tâm lý - ý chí, tinh thần tập thể, tính kiên trì, dũng
cảm, hình thành khả năng xử lý nhanh nhẹn, khéo léo, tạo điều kiện thích ứng với
những hoạt động phức tạp trong lao động sản xuất, trong chiến đấu cũng như trong
học tập và cuộc sống hàng ngày.
Tập luyện và thi đấu bóng rổ ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển cho người
tập, tính kiên định, tính quyết đốn, tính sáng tạo và kỷ luật. Người tập biết hành
động tập thể, thường xuyên hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau, điều đó sẽ góp phần giáo
dục ý thức trách nhiệm tập thể, tình cảm bạn bè, tính tập thể ... cho người tập. Điều
đó chứng tỏ Bóng rổ là mơn thể thao có sức hấp dẫn với quần chúng ở các lứa tuổi,
đối tượng, ngành nghề khác nhau và số lượng người tập bóng rổ ngày càng phát
triển.
Bóng rổ là một trong những mơn thể thao cơ bản có vị trí quan trọng
trong hệ thống giáo dục Thể chất và huấn luyện thể thao ở nước ta, Bóng rổ
cũng là nội dung giữ vị trí quan trọng trong chương trình Giáo dục thể chất ở
trường học khơng chỉ bởi vì mơn Bóng rổ hình thành vốn kĩ năng, kĩ xảo phong
phú, rèn luyện ý chí, đạo đức, lối sống lành mạnh mà nó cịn tạo ra cho học
sinh có một trình độ chuẩn bị thể lực tốt và là môn học phù hợp được nhiều
học sinh các trường THPT yêu thích.

2.2

. Những quan điểm về giảng dạy kỹ thuật mơn bóng rổ.

Việc giảng dạy kĩ thuật mơn bóng rổ được lựa chọn trên cơ sở, phương pháp
nguyên tắc huấn luyện thể thao nói chung. Học tập vận động là q trình cơ bản
của huấn luyện thể thao. Huấn luyện kĩ thuật thể thao gồm tất cả các phương pháp,
phương tiện đào tạo và giáo dục cũng như mọi hoạt động của VĐV. Những hoạt
động đó được tiến hành với mục đích hồn thiện động tác, ổn định và giữ vững kĩ
thuật, giảng dạy và huấn luyện kĩ thuật bóng rổ là mục tiêu đầu tiên để tập mơn

bóng rổ cho tất cả đối tượng tham gia tập luyện và luôn đi song song với giảng dạy
và huấn luyện chiến thuật mặc dù mức độ đơn giản.
9

skkn


Trong bóng rổ các kĩ thuật liên quan chặt chẽ và bổ trợ đắc lực cho nhau
được biểu hiện trong tập luyện và đặc biệt trong thi đấu. Do vậy quá trình giảng
dạy nhất thiết phải căn cứ vào thực tiễn trong tập luyện kết hợp với thi đấu để có
những biện pháp giảng cho phù hợp. Song thực tế nghiên cứu cho thấy: Việc hoàn
thiện kĩ năng, kĩ xảo trong một mơn nào đó, ngồi việc phát triển các tố chất thể
lực có liên quan cần phải chú trọng đến quá trình hình thành kĩ năng kĩ xảo vận
động.
Kĩ năng vận động là các động tác được hình thành trong cuộc sống do tập
luyện, còn kỹ xảo vận động là sự điều khiển động tác một cách tự động hóa cao.
Phần động tác trải qua thời gian lặp lại nhiều lần thì động tác trở nên thuần thục, sự
phối hợp vận động dần dần được tự động hóa từ đó kĩ năng sẽ trở thành kỹ xảo.
Tính bền vững kĩ xảo vận động chỉ có giá trị khi kĩ thuật động tác thực hiện
đúng, không cần phải sữa đổi về sau này. Trong học kĩ thuật động tác để hình
thành nên kĩ xảo vận động phải trải qua 3 giai đoạn sau:
- Giai đoạn 1: Giai đoạn lan tỏa.
Đây là giai đoạn hình thành mối liên hệ giữa trung khu vận động với sự hiểu
biết về hình tượng, biểu tượng của động tác trong giai đoạn này hưng phấn trên
vỏ não được lan tỏa mạnh mẽ. Do vậy người tập chưa phân biệt được động tác
đúng hay sai, chính vì vậy mà các sai lầm thường hay xảy ra ở thời kỳ này. Nếu
động tác kĩ thuật được thực hiện lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ dẫn đến sự hình thành
động tác sai và trở thành cố tật.
- Giai đoạn 2: Giai đoạn ức chế phân biệt.
Giai đoạn này hưng phấn trên vỏ não đã tập trung vào trung khu thần kinh,

hoạt động nhiều bản thân người tập đã phân biệt được những động tác đúng sai,
thừa. Lúc này người tập luôn tập trung uốn nắn sửa chữa kĩ thuật động tác dẫn tới
động tác thực hiện cứng nhắc, gị bó khơng có tính nhịp điệu, giật cục. Nếu tập
thường xuyên người học sẽ nhanh chóng chuyển sang tự động hóa (đường dây liên
hệ tạm thời trên vỏ não ngày càng ổn định).
- Giai đoạn 3: Giai đoạn tự động hóa.
Ở giai đoạn này hưng phấn đã tập trung vào những vùng hẹp trên vỏ não,
người học có thể thực hiện động tác một cách thuần thục, theo ý muốn của bản
thân một cách hồn hảo, chính xác tính nhịp điệu cao, họ biết phối hợp và sử dụng
một cách hợp lý, tiết kiệm năng lượng cho bản thân. Tiếp tục tập luyện sẽ trở thành
tự động hóa động tác.
Để nâng cao được hiệu quả bài tập sửa chữa những sai lầm thường mắc cho
học sinh, trong quá trình học kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực
giáo viên cần chú ý một cách tỉ mỉ đến người học và đưa bài tập vào thời điểm cho
phù hợp từng giai đoạn của quá trình hình thành kĩ năng vận động.
10

skkn


Theo quan điểm lý luận TDTD: Sự phân đoạn quá trình dạy học mỗi động
tác riêng khơng cần phải dựa trên giai đoạn tương ứng của quá trình hình thành kĩ
năng kĩ xảo vận động. Muốn học thành kĩ xảo tương đối hồn thiện thì học TDTT
có 3 giai đoạn giảng dạy:
- Giai đoạn giảng dạy ban đầu.
- Giai đoạn học đi sâu từng phần.
- Giai đoạn củng cố hoàn thiện.
Lượng vận động là cơ sở cho việc hình thành thành tích thể thao và tùy
thuộc vào đặc điểm của từng mơn chun sâu và trình độ tập luyện đặc điểm của
từng đối tượng và sử dụng lượng vận động cho phù hợp.

2.3. Nguyên lý kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực.
Chuyền bóng là một kĩ thuật động tác nhờ đó mà các cầu thủ có thể chuyền
bóng cho nhau để tấn cơng đối phương.
Tầm quan trọng của chuyền bóng: Trong thi đấu Bóng rổ chuyền bóng tốt là
cơ sở cho sự phối hợp chính xác giữa các cầu thủ trên sân thi đấu. Nếu kĩ thuật
chuyền bắt bóng khơng tốt thì khơng có điều kiện ném rổ được, có nhiều kĩ thuật
chuyền bóng khác nhau trong đó chuyền bóng bằng hai tay trước ngực là 1 trong
những kĩ thuật được sử dụng rất nhiều - đây là phương pháp cơ bản cho phép
chuyền bóng nhanh và chính xác cho đồng đội ở khoảng cách gần hay trung bình.
Kĩ thuật này dùng nhiều khi đối phương khơng kèm chặt.
Để thực hiện đúng kĩ thuật chuyền bóng trong bóng rổ, các cầu thủ cần thực
hiện theo quy luật chuyền bóng rổ sau:
- Dùng sức ở ngón tay và cổ tay để chuyền bóng dựa trên sức ở cánh tay và
thân người làm động tác bổ trợ
- Thực hiện tư thế chuẩn bị chuyền bóng ngay sau khi bắt được bóng từ cầu
thủ khác
Tùy thuộc vào vị trí cầu thủ muốn chuyền bóng mà chúng ta dùng lực
chuyền bóng mạnh hay nhẹ, tốc độ nhanh hay chậm.
-

Bắt nhịp tốc độ đồng đội thi đấu trên sân để có những đường chuyền bóng
thích hợp. Ln nhớ rằng, mỗi điểm ghi được đều nhờ vào thành tích của cả đội
-

*Hình vẽ tồn bộ động tác chuyền bóng bằng hai tay trước ngực


Kĩ thuật chuyền bóng bằng hai tay trước ngực gồm các bước sau:

11


skkn


Tư thế chuẩn bị
- Đứng chân trước chân sau, hai chân rộng bằng vai. Trọng tâm thấp và dồn
vào 2 chân, 2 gối hơi khụy, mắt quan sát hướng chuyền
- Hai tay cầm bóng ở 2 bên lùi về nữa sau của quả bóng, các ngón tay xịe tự
nhiên, bóng tiếp xúc vào phần chai tay và các ngón tay, lịng bàn tay khơng chạm
bóng. Cánh tay thả lỏng tự nhiên, bóng để ở phía trước bụng trên.
Thực hiện chuyền bóng
- Khi chuyền người ngả nhanh về trước, chân sau đạp đất, 2 tay đưa từ dưới
lên trên tạo thành một đường vịng cung nhỏ, sau đó kết hợp lực thân người với
cánh tay chuyển lực sang cẳng tay và các đầu ngón tay để chuyền bóng về phía
trước. Khi tay đã gần thẳng hết dùng lực cổ tay, các ngón tay (trỏ, giữa và cái) đẩy
bóng.
- Để tạo nên đường bóng đi mạnh, các ngón tay phải miết vào bóng và khi
bóng rời tay lịng bàn tay hơi xoay ra ngồi.
Kết thúc
- Bóng rời tay cuối cùng ở ngón trỏ và giữa, kết thúc động tác 2 tay duỗi
thẳng, lịng bàn tay hướng ra ngồi, hai lưng bàn tay hướng vào nhau, ngón cái
hướng xuống dưới, các ngón tay hướng về phía trước, trọng tâm dồn về hướng
chuyền.
* Bắt bóng bằng hai tay: Bắt bóng là một động tác mà nhờ nó vận động viên
có thể kiểm sốt bóng một cách chắc chắn và áp dụng những động tác tấn cơng có
bóng tiếp theo. Bắt bóng và chuyền bóng là hai kĩ thuật khác nhau song lại gắn bó
với nhau rất chặt chẽ trong các bài tập, khơng có hình thức tập luyện nào có
chuyền bóng mà khơng có bắt bóng và ngược lại. Bắt bóng bằng 2 tay là động tác
được sử dụng nhiều trong thi đấu, có thể bắt bóng từ mọi hướng đến vì nó rất cơ
bản, bắt dễ dàng, bảo vệ bóng tốt, tiện cho làm động tác tiếp theo, song phạm vi

bắt bóng hẹp.
12

skkn


Kĩ thuật bắt bóng bằng hai tay:
TTCB: Hai chân đứng song song hoặc chân trước, chân sau rộng bằng vai,
gối khuỵu, thân trên quay về hướng bóng đến. Khi bắt bóng hai tay đưa thẳng về
hướng bóng đến, các ngón tay mở thả lỏng tự nhiên, hình thành giống như chiếc
phễu, khoảng cách giữa hai bàn tay nhỏ hơn đường kính của bóng, 2 ngón tay cái
tạo thành hình chữ A.
Động tác: Bộ phận tiếp xúc bóng đầu tiên là các ngón tay, sau đó nhanh
chóng hỗn xung đưa bóng nằm gọn vào 2 lòng bàn tay, đồng thời khép cổ tay gần
vào nhau và hai tay hơi gập lại ở khớp khuỷu kéo về ngực để bảo vệ bóng và chuẩn
bị làm động tác tiếp theo

2.4. Vai trò của sự hồn thiện kĩ thuật.
Để đạt được những thành tích cao khi thực hiện kĩ thuật ngoài việc phát triển
các tố chất thể lực thì yếu tố hồn thiện kĩ thuật đóng vai trị to lớn. Do vậy khi
thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực để có thành tích tốt
thì người tập phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoàn thiện về thể lực, trạng thái
tâm lý, sự chú ý cao và sự hoàn thiện kĩ thuật động tác.
Sự hoàn thiện về kĩ thuật ở đây có nghĩa là tất cả các động tác được người
thực hiện một cách liên hồn mang tính nhịp điệu, phối hợp ăn khớp giữa các bộ
phận của cơ thể. Như chúng ta thấy ở mỗi giai đoạn động tác kĩ thuật đều có một
nhiệm vụ để thúc đẩy những giai đoạn tiếp theo.
Vậy q trình hồn thiện kĩ thuật là quá trình thực hiện động tác một cách
thuần thục, liên hồn, chặt chẽ mang tính nhịp điệu không tách rời nhau, hoạt động
này tác động hoạt động kia, khơng có sự nhầm lẫn, sai thừa, thiếu kĩ thuật ở mỗi

giai đoạn thực hiện kĩ thuật chuyền bóng cao tay bằng hai tay trước mặt.
2.5. Tầm quan trọng của việc xác định những lỗi sai thường mắc.
Kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực có tầm quan trọng rất
lớn trong việc giảng dạy và huấn luyện. Ở đây ngưòi giáo viên cần truyền đạt
những kiến thức (kĩ - chiến thuật và những yếu lĩnh kĩ thuật động tác) cho người
học. Việc phát hiện những sai lầm thường mắc khi học được coi là một nghệ thuật
trong cơng tác của người dạy, trên cơ sở đó người dạy có thể đưa ra những biện
13

skkn


pháp, phương pháp sửa chữa những sai lầm một cách hợp lý ngay từ đầu. Đây là
một trong những biện pháp cần thiết để tránh những sai lầm đến động tác tiếp theo.
2.6. Các yếu tố ảnh hưởng tới kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay
trước ngực.
Kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực trong khi thi đấu bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố chủ quan và khách quan đó là: kĩ thuật; thể lực; tâm lý; thời
tiết; sân bãi, khán giả.
Chính vì vậy trong thi đấu địi hỏi người học khơng những hồn thiện về
chun mơn mà phải trang bị cho người tập tồn diện về thể lực, kĩ chiến thuật,
tâm lý.
2.7. Đặc điểm phát triển hình thái, tâm sinh lý.
2.7.1. Đặc điểm phát triển hình thái
* Hệ xương: Ở lứa tuổi này hệ xương tiếp tục cốt hóa và phát triển mạnh, cột
sống tương đối đã ổn định, hình dáng, xương chi trên, xương chi dưới, xương
hơng,…vẫn chưa được cốt hóa hồn tồn nên dễ bị biến dạng. Xương chậu của nữ
to và yếu hơn của nam, vì vậy khơng nên cho nữ tập luyện với khối lượng và
cường độ lớn như nam.
* Hệ cơ: Ở lứa tuổi này do hệ xương và cơ phát triển mạnh nên năng lực vận

động được nâng cao. Do hệ cơ phát triển mạnh nên các em rất hiếu động,
thích dùng các hoạt động về lực và dùng sức chứ khơng thích các hoạt động tỉ mỉ,
khéo léo,… Cơ bắp và các nhóm cơ lớn phát triển tương đối nhanh như cơ đùi, cơ
cánh tay,… các cơ nhỏ như cơ bàn tay phát triển chậm hơn. Ở nữ dưới lớp da phát
triển mỡ nên phần nào ảnh hưởng đến sức mạnh.
2.7.2. Đặc điểm tâm lý- sinh lý
Ở lứa tuổi học sinh THPT (từ 15 đến 17 tuổi), hoạt động học tập là hoạt
động cơ bản thu hút nhiều thời gian và công sức. Do các môn học có nội dung kiến
thức ngày càng nâng cao, phương thức giảng dạy học tập của thầy và trị có nhiều
thay đổi, mỗi giáo viên đều có những nét riêng về trình độ chun mơn và cách xử
thế, nên địi hỏi các em phải cố gắng nỗ lực tập trung nhiều cơng sức, thời gian và
trí tuệ. Thời kỳ này là thời kỳ quá độ để trở thành người lớn, các em rất thích tị
mị, ham học hỏi, trí nhớ có nhiều biến đổi căn bản, năng lực ghi nhớ có chủ định
tăng lên rõ rệt, cách thức ghi nhớ được cải tiến, hiệu xuất ghi nhớ cũng được tăng
lên. Tính hệ thống trong việc thu lượm tri thức được tăng lên nhờ việc thiết lập
những mối liên tưởng ngày càng phức tạp và sâu sắc. Sự phát triển của các em ở
giai đoạn này là rất phức tạp, đời sống tâm lí có nhiều mâu thuẫn, nhiều thay đổi
đột ngột khiến cha mẹ và thầy cô đôi lúc phải ngạc nhiên và cảm thấy khó xử, vì
thế cần phải có thái độ tế nhị và khéo léo. Tình cảm của các em sâu sắc và phức
tạp, dễ xúc động, dễ bị kích thích nhiều do bị ảnh hưởng của quá trình phát dục và
14

skkn


thay đổi một số cơ quan nội tạng, nhiều khi cịn do hoạt động thần kinh khơng
cân bằng, các q trình hưng phấn q mạnh đã khiến các em khơng tự kiềm chế
được. Các em rất nhạy cảm với những đánh giá của những người xung quanh về
bản thân các em. Vì vậy, đơi khi chỉ một thành cơng ngẫu nhiên mà được mọi
người chú ý cũng có thể làm cho các em tự đánh giá cao về mình sinh ra tự kiêu, tự

mãn, ngược lại cũng có thể gây cho các em có tính tự ti, nhút nhát,… Trong quá
trình học tập cũng như trong tập luyện nếu thầy cơ hay cha mẹ có những nhận xét
đánh giá khơng đúng, khơng cơng bằng, các em dễ có những phản ứng mãnh liệt.
Nói chung sự phát triển của các em trong giai đoạn này có nhiều biến đổi về tâm
sinh lý cần hướng dẫn giúp các em có những nhận xét đúng về bản thân, cần có
những biện pháp thích hợp để động viên khuyến khích các em trong học tập cũng
như tập luyện TDTT …
2.8. Công tác GDTC tại các trường THPT trên địa bàn huyện Yên
Thành.
Công tác Giáo dục thể chất trong các trường THPT trên địa bàn huyện Yên
Thành nhiều năm qua được chú trong phát triển. Lãnh đạo các trường THPT, các
giáo viên giảng daỵ môn Thể dục cũng như các em học sinh luôn ý thức được việc
tập luyện TDTT trong nhà trường là nhằm tăng cường thể chất, sức khỏe cho học
sinh, thông qua giờ học Thể dục và các hoạt động tập luyện các môn thể thao giúp
học sinh nắm vững kiến thức cơ bản và kĩ năng kĩ xảo của vận động thể dục thể
thao, tạo thói quen tự giác rèn luyện thân thể một cách khoa học.
Thông qua giờ học Thể dục, tiến hành giáo dục phẩm chất đạo đức cho học
sinh, tạo nên phong cách đạo đức tốt đẹp, cao thượng; truyền thụ tri thức vệ sinh
cần thiết cho học sinh, bồi dưỡng thói quen vệ sinh tốt, hướng dẫn học sinh phòng
ngừa bệnh tật, bảo vệ tăng cường sức khỏe tâm sinh lý.
Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy một số giáo viên vẫn áp dụng các
phương pháp theo lối mòn truyền thống, chưa mạnh dạn áp dụng các phương pháp
mới; chưa chú trong các bài tập khắc phục những sai lầm mà học sinh thường mắc
phải trong quá trình tập luyện đặc biệt là học sinh đầu cấp học mới tiếp xúc với nội
dung mới; cần có nhiều giải đồng bộ góp phần nâng cao hiệu giờ dạy, nâng cao
trình độ tập luyện của học sinh.
II. LỰA CHỌN MỘT SỐ BÀI TẬP ĐỂ SỮA LỖI SAI THƯỜNG MẮC
KHI THỰC HIỆN KĨ THUẬT CHUYỀN VÀ BẮT BÓNG BẰNG HAI TAY
TRƯỚC NGỰC TRONG MƠN BĨNG RỔ CHO HỌC SINH LỚP 10 THPT
Ở YÊN THÀNH.

1. Thực trạng sử dụng các bài tập trong giảng dạy kĩ thuật chuyền và bắt
bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh THPT trên địa bàn huyện Yên
Thành.
15

skkn


Để có cơ sở trong việc lựa chọn các bài tập để sữa chữa những sai lầm thường
mắc khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực cho học
sinh các trường THPT ở Yên Thành. Bằng phương pháp quan sát sư phạm và
phỏng vấn, chúng tôi phỏng vấn 20 giáo viên đang giảng dạy môn Thể dục tại các
trường THPT về thực trạng sử dụng bài tập trong giảng dạy kĩ thuật chuyền và bắt
bóng bằng hai tay trước ngực. Kết quả được thể hiện ở bảng 1.
Bảng 1: Kết quả phỏng vấn thực trạng sử dụng các bài tập trong giảng dạy
kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh lớp 10
THPT ở Yên Thành (n = 20).
Kết quả
Nhóm
bài tập

Chuyền
và bắt
bóng
bằng hai
tay trước
ngực

Bài tập


Thường
xun

Ít

N

%

N

%

Mỗi người tự mơ phỏng kĩ thuật chuyền và
bắt bóng có sự kết hợp lực nhịp nhàng giữa
tay, chân và thân người

19

95%

1

5%

Một người tung bóng cho người đối diện bắt
bóng đúng kĩ thuật và ngược lại.

14


70%

6

30
%

Tại chỗ cầm bóng chùng gối phối hợp tồn
chuyền bóng ra trước.

13

65%

7

35
%

Chuyền và bắt bóng tại chỗ bằng hai tay cho
bạn tập

16

80%

4

20
%


Chuyền và bắt bóng di chuyển từng đơi một

19

95%

1

5%

Di chuyển 1 đến 2 bước thực hiện kĩ thuật
bắt bóng.

20

100%

0

0

Hai người chuyền bắt bóng qua lại liên tục
với nhau, đứng cách nhau 3 – 4m

20

100%

0


0

Qua bảng 1 chúng tôi nhận thấy việc sử dụng các bài tập trong quá trình giảng
dạy tương đối thống nhất giữa nội dung các bài tập và số lượng bài tập. Qua tìm
hiểu chúng tơi được biết đây là những nội dung được các giáo viên sử dụng trong
việc hình thành và hồn thiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực
cho học sinh.
Việc xây dựng các bài tập và nội dung bài tập là phù hợp với mục đích, yêu
cầu của các giai đoạn kĩ thuật. Nhưng việc sử dụng các bài tập với mục đích nhằm
16

skkn


giúp học sinh sữa chữa những sai lầm thường mắc phải để thực hiện chính xác kĩ
thuật chuyền, bắt bóng bằng hai tay trước ngực chưa được chú trọng, biểu hiện ở
các bài tập sử dụng cho kĩ thuật này còn đơn điệu, theo lối mòn truyền thống. Các
bài tập để giúp học sinh sữa chữa những sai lầm thường mắc ít được các giáo viên
sử dụng một cách thường xuyên.
Để đảm bảo cho công tác giảng dạy và học tập có chất lượng thì việc lựa chọn
một số bài tập nhằm sữa chữa những sai lầm thường mắc nâng cao độ chính xác
khi thực hiện kỹ thuật chuyền và bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh là hết
sức cần thiết.
2. Một số lỗi sai thường mắc khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng
bằng hai tay trước ngực của học sinh lớp 10 ở huyện Yên Thành
Qua tham khảo việc sử dụng các bài tập để giảng dạy kĩ thuật chuyền và bắt
bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh trong quá trình giảng dạy của các giáo
viên. Chúng tôi tiến hành quan sát các giờ học tập chính khố của học sinh lớp 10
THPT trên địa bàn, chúng tôi nhận thấy 10 sai lầm mà học sinh thường mắc phải

khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực được trình bày ở
bảng 2.

Bảng 2: Những lỗi sai thường mắc khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt
bóng bằng hai tay trước ngực của học sinh lớp 10 THPT ở Yên Thành (n =
42).
TT

Tên lỗi sai khi thực hiện kĩ thuật

Số người
mắc

Tỷ lệ %

1

Chuyền bóng đi xốy khơng thuận lợi cho
người bắt bóng

32

76,19%

2

Khi bắt bóng, kéo bóng về thường bị rơi

38


90,47%
17

skkn


hoặc có tiếp xúc bóng nhưng khơng bắt
được bóng
3

Khi chuyền bóng chuyền q chậm hoặc
chuyền q nhanh.

16

38%

4

Khơng sử dụng hai tay chuyền bóng mà sử
dụng lực của một tay đẩy bóng đi nên bóng
thường đi lệch hướng định chuyền

34

80,95%

5

Tay bắt bóng khơng ép sát vào thân


15

35,71%

6

Chuyền bóng khơng đi được xa, lực
chuyền yếu.

33

78,57%

7

Khả năng phối hợp sức tồn thân khơng tốt,
khơng nhịp nhàng, động tác bị giật cục.

35

83.33%

8

Khi chuyền bóng khơng đổ người về hướng
chuyền.

17


9

Sau khi bắt được bóng khơng đưa bóng về
vị trí trước ngực

16

40,47%

10

Chuyền bóng tầm q cao hoặc quá thấp

14

33,33%

40,47%

Bảng 2: Lỗi sai khi học kĩ thuật chuyền bóngcao tay bằng hai tay trước mặt của
học sinh lớp 10 THPT (n = 42)

Qua bảng 2 cho thấy những lỗi sai 1, 2, 4, 6, 7 người tập mắc nhiều hơn, tỷ lệ
chiếm từ 75% trở lên. Những lỗi sai cịn lại khơng nhiều có thể giải thích rằng các
sai lầm này xảy ra không thường xuyên và không phổ biến ở người tập. Những lỗi
sai trên đã ảnh hưởng rất lớn đến độ chính xác của kĩ thuật chuyền và bắt bóng
bằng hai tay trước ngực.
Để có được kết quả chính xác hơn tơi tiến hành phỏng vấn 32 giáo viên đang
giảng dạy Thể dục trong huyện để tìm ra những lỗi sai chính mà người tập thường
mắc phải khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực.

Sau khi phỏng vấn 32 giáo viên dạy Thể dục trong huyện thu được kết quả ở
bảng 2.1
Bảng 2.1. Kết quả phỏng vấn giáo viên trong nhóm về những lỗi sai khi
thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực (n=32)
Tên lỗi sai khi thực hiện kĩ thuật
TT

Số
người
đồng ý

Tỷ lệ
%
18

skkn


1

Chuyền bóng đi xốy khơng thuận lợi cho người bắt
bóng.

20

76,87%

2

Khi bắt bóng, kéo bóng về thường bị rơi hoặc có

tiếp xúc bóng nhưng khơng bắt được bóng.

28

87,5%

3

Khi chuyền bóng chuyền quá chậm hoặc chuyền
quá nhanh.

10

31,25%

4

Không sử dụng hai tay chuyền bóng mà sử dụng
lực của một tay đẩy bóng đi nên bóng thường đi
lệch hướng định chuyền.

23

71,87%

5

Tay bắt bóng khơng ép sát vào thân.

9


28,12%

6

Chuyền bóng khơng đi được xa, lực chuyền yếu.

25

78,12%

7

Khả năng phối hợp sức tồn thân khơng tốt, khơng
nhịp nhàng, động tác bị giật cục.

25

78,12%

8

Khi chuyền bóng khơng đổ người về hướng chuyền.

12

37,5%

9


Sau khi bắt được bóng khơng đưa bóng về vị trí
trước ngực

14

43,75%

10

Chuyền bóng tầm q cao hoặc quá thấp

11

34,37%

Qua kết quả phỏng vấn các giáo viên trong dạy Thể dục trong huyện cho
thấy những lỗi sai: 1, 2, 4, 6, 7 có tỷ lệ trả lời là 70% trở lên. Từ đó chúng tơi kết
luận :
Khi học kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực trong mơn
Bóng rổ học sinh lớp 10 THPT trong huyện thường mắc phải những lỗi sai sau
đây:
- Chuyền bóng đi xốy khơng thuận lợi cho người bắt bóng.
- Khi bắt bóng, kéo bóng về thường bị rơi hoặc có tiếp xúc bóng nhưng
khơng bắt được bóng.
- Khơng sử dụng hai tay chuyền bóng mà sử dụng lực của một tay đẩy bóng
đi nên bóng thường đi lệch hướng định chuyền.
- Chuyền bóng khơng đi được xa, lực chuyền yếu.
- Khả năng phối hợp sức tồn thân khơng tốt, không nhịp nhàng, động tác bị
giật cục.
Để khắc phục những lỗi sai đó trước hết phải tìm ra những ngun nhân dẫn

đến những lỗi sai lầm, từ đó có biện pháp khắc phục phù hợp nhất trong khi học.
19

skkn


* Nguyên nhân dẫn đến lỗi sai khi thực hiện kĩ thuật:
Trước hết cần căn cứ vào nhiệm vụ là những yêu cầu đặt ra trong bài giảng
hoặc giai đoạn học kĩ thuật, phối hợp động tác. Muốn đánh giá chính xác kĩ thuật
thực hiện phải chú ý quan sát nhiều lần đối tượng tập luyện một cách tỉ mỉ từ hình
tay, tư thế chuẩn bị thực hiện động tác và cả việc sử dụng cơ quan cảm thụ của
giáo viên, với tư duy, ý thức tự đánh giá của học sinh trong khi tập và quan sát để
thấy được những động tác đúng của bạn bè, của thầy cô. Ngồi ra nếu có điều kiện
thì cho học sinh xem những băng hình tư liệu về động tác trước khi học và trong
khi học để từ đó có nhận xét về bản thân mình. Ngồi chuyện quan sát, quản lý lớp
học giáo viên phải chỉ dẫn tỉ mỉ từ cảm giác chung đối với động tác đến cảm giác
phối hợp của các cơ quan và yêu cầu về kĩ thuật động tác… Qua đó giáo viên đánh
giá chính xác việc thực hiện kĩ thuật, đồng thời biết phát hiện những sai lầm và tìm
biện pháp sữa chữa kịp thời, đó là một yêu cầu trong giảng dạy.
Để hiểu rõ nguyên nhân của những lỗi sai một cách khoa học tôi đã thông
qua phương pháp quan sát sư phạm và phương pháp phỏng vấn để tìm ra những
nguyên nhân dẫn đến những sai lầm cơ bản được trình bày ở bảng 2.2

Bảng 2.2: Nguyên nhân dẫn đến những lỗi sai khi thực hiện kĩ thuật chuyền
và bắt bóng bằng hai tay trước ngực.
TT Tên lỗi sai khi thực hiện
Nguyên nhân
kĩ thuật
Chuyền bóng đi xốy - Lực hai tay khơng đều nhau
khơng thuận lợi cho người - Thiếu cảm giác tay với bóng

1

bắt bóng.

- Các ngón tay khơng miết vào bóng, hoặc các

ngón tay miết khơng đều
Khi bắt và kéo bóng về Cánh tay khơng chủ động vươn ra đón
thường bị rơi hoặc tay tiếp bóng, hình dạng ngón tay khi tiếp xúc bóng
2

xúc bóng nhưng khơng bắt khơng chính xác, sau khi bắt bóng khơng chủ
được bóng

động kéo tay ra sau đê’

hỗn xung.
Khơng sử dụng hai tay - Khơng nắm được nguyên lý kĩ thuật động tác
20

skkn


chuyền bóng mà sử dụng - Sức mạnh của hai tay khơng bằng nhau.
lực của một tay đẩy bóng - Cảm giác bóng và cảm giác khơng gian
3

đi nên bóng thường đi không tốt.
lệch hướng định chuyền.


- Lực bị lệch về tay thuận do không chú ý

phân phối đều khi thực hiện động tác duỗi tay
Chuyền bóng khơng đi - Không nắm được nguyên lý kĩ thuật động tác
được xa, lực chuyền yếu.

- Không phối hợp được lực từ chân, cánh tay,
lực bị triệt tiêu do động tác thiếu nhịp nhàng

4

lựa giữa lực các ngón trỏ, giữa, ngón cái, kết
hợp động tác duổi tay, sức của chân, hông và
thân khi chuyền bóng đi.

5

Khả năng phối hợp sức - Do khả năng phối hợp vận động các bộ phận
tồn thân khơng tốt, trong cơ thể không nhịp nhàng.
không nhịp nhàng, động - Do chỉ sử dụng lực của tay. Do chỉ sử dụng
lực của chân. Lực bị triệt tiêu, động tác giật
tác bị giật cục.
cục.

3. Cơ sở lựa chọn bài tập để sữa lỗi sai khi thực hiện kĩ thuật chuyền và
bắt bóng bằng hai tay trước ngực cho học sinh lớp 10 THPT ở huyện Yên
Thành.
Để lựa chọn các bài để lỗi sai khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng
hai tay trước ngực. Qua tham khảo, nghiên cứu các tài liệu chuyên môn, chúng tôi
xác định các căn cứ trong việc đưa ra các bài tập để áp dụng trong quá trình giảng

dạy là:
- Căn cứ vào nguyên lý, đặc điểm kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay
truớc ngực.
- Căn cứ vào đặc điểm hình thành kĩ năng, kỹ xảo vận động.
- Căn cứ vào những sai lầm mà học sinh mắc phải và các nguyên nhân dẫn
đến những sai lầm đó.
- Căn cứ điều kiện tổ chức giảng dạy, sân bãi dụng cụ, trang thiết bị phục vụ
cho giảng dạy và tập luyện.
- Căn cứ vào đối tượng giảng dạy.
3.1 Lựa chọn một số bài tập để sữa lỗi sai khi thực hiện kĩ thuật chuyền
và bắt bóng bằng hai tay trước ngực trong mơn Bóng rổ cho học sinh lớp 10
THPT ở n Thành.
21

skkn


Trên cơ sở những lỗi sai thường mắc khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt
bóng bằng hai tay truớc ngực của học sinh lớp 10 THPT ở huyện Yên Thành, từ
những căn cứ trong việc đưa ra các bài tập nêu trên, chúng tôi xác định các bài tập
đưa ra phải đảm bảo các yêu cầu sau:
Các bài tập đảm bảo về nhịp điệu và tần số, sự phối hợp các động tác tay,
chân, thân người nhằm bổ trợ cho người học trong việc hình thành, hồn thiện kĩ
thuật thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay truớc ngực.
Các bài tập khắc phục các yếu tố ảnh hưởng đến việc nắm bắt, thực hiện kĩ
thuật: tâm lý, thể lực …
Các bài tập chun mơn hồn thiện kĩ năng, kĩ xảo cho người học.
Các bài tập cần hợp lý, vừa sức đối với người học, nâng dần khối lượng và độ
khó.
Qua nghiên cứu các tài liệu chun mơn liên quan, từ những yêu cầu lựa chọn

bài tập trên, chúng tôi lựa chọn một số bài tập để sữa những lỗi sai khi kĩ thuật
chuyền và bắt bóng bằng hai tay truớc ngực cụ thể là:
* Nhóm bài tập để sữa lỗi: Chuyền bóng đi xốy khơng thuận lợi cho người
bắt bóng
- Bài tập 1: Tập mơ phỏng lại động tác tại chỗ chuyền bóng bằng hai tay
trước ngực; chú ý động tác miết các ngón tay vào bóng trước và sau khi bóng rời
khỏi tay, tập từ chậm đến nhanh.
- Bài tập 2: Tại chỗ nhồi bóng bằng hai tay.
- Bài tập 3: Tại chỗ đứng cách tường 3 - 4m, hướng lên trên tường chuyền
bóng bằng hai tay vào tường và bắt bóng phản lại; chú ý 2 khuỷu tay phải ép vào
người, cầm bóng đúng vị trí, thả lỏng cổ tay và miết các ngón tay vào bóng, xoay
lịng bàn tay ra ngồi. u cầu: Trước khi chuyền và sau khi bắt bóng đều phải duy
trì tư thế cơ thể chính xác
* Nhóm bài tập để sữa lỗi: Khi bắt và kéo bóng về thường bị rơi hoặc tay
tiếp xúc bóng nhưng khơng bắt được bóng
- Bài tâp 4: Tự tung bóng lên cao rồi bắt bóng đúng hình tay, kéo bóng về tư
thế chuẩn bị chuyền, tương tự lần lượt tung bóng trước mặt bắt bóng, tung bóng
sang hai bên bắt bóng
- Bài tập 5: Tung bóng cao ra trước, để bóng đập đất xốy ngược rồi bắt
bóng đúng bằng hai tay.
- Bài tập 6: Tung bóng trước ra sau rồi bật xoay 180 độ bắt bóng đúng bằng
hai tay.
22

skkn


- Bài tập 7: Bắt bóng từ đường chuyền của bạn đối diện và 2 bên liên tục và
nhiều lần
* Nhóm bài tập để sữa lỗi: Khơng sử dụng hai tay chuyền bóng mà sử dụng

lực của một tay đẩy bóng đi nên bóng thường đi lệch hướng định chuyền.
- Bài tập 8: Tại chỗ mô phỏng động tác chuyền, tập khơng bóng, có bóng
- Bài tập 9: Đứng cách tường 3-4m, hướng lên trên tường, chuyền bóng vào 2
điểm định sẵn trên tường và bắt bóng phản ra; chú ý phối hợp lực đều cả 2 tay.
Bài tập 10: Chuyền và bắt bóng với bạn tập theo 2 hướng khác nhau tăng
dần cự ly chú ý lực đều cả 2 tay, chú ý lực nhịp nhàng thông qua từng bộ phận của
cơ thể như: cổ chân, đùi, các ngón tay, miết đều 2 tay vào bóng. Thực hiện từ chậm
đến nhanh
* Nhóm bài tập để sữa lỗi: Chuyền bóng không đi được xa, lực chuyền
yếu.
- Bài tập 11: Đứng gần tường, tại chỗ dập bóng nhanh, liên tục vào tường
bằng 2 tay đảm bảo yêu cầu: Bóng cao nhất có thể; bóng tiếp xúc đầu các ngón tay
(50 lượt/lần tập).
- Bài tập 12: Tại chỗ chuyền bóng mạnh vào tường và bắt bóng phản lại,
kéo dần cự ly: 3m, 4m, 5m ( chú ý dùng lực các ngón trỏ, giữa, ngón cái, kết hợp
động tác duổi tay, sức của chân, hơng và thân khi chuyền bóng đi)
- Bài tập 13: Chuyền bóng qua 1 vạch kẻ sẵn cho bạn cùng tập, kéo dần
khoảng cách
* Nhóm bài tập để sữa lỗi: Khả năng phối hợp sức tồn thân khơng tốt,
khơng nhịp nhàng, động tác bị giật cục.
- Bài tập 14: Tại chỗ cầm bóng cố định tập chuyển sức từ chân tới tay.
- Bài tập 15: Nhóm 4 người 1 bóng tập chuyền bắt bóng qua lại giữa số 1
với số 2,3,4; đảm bảo 1 người chuyền bắt bóng cho 3 người ở 3 hướng khác nhau,
hết 1 lượt thì chuyển vị trí luân phiên, chú ý phối hợp nhịp nhàng lực chân, hơng,
thân người cánh tay và các ngón tay. Tập sữa cho nhau để tập trung vào kĩ thuật cơ
bản.
- Bài tập 16: Hai người đối diện phối hợp di chuyển chuyền bắt bóng cho
nhau.
Sau khi lựa chọn được các bài tập tôi tiến hành phỏng vấn 20 giáo viên
giảng dạy Thể dục tại các trường THPT trên địa bàn huyện mà tôi đang công tác để

xác định lượng vận động cho các bài tập.
Bảng 3: Phỏng vấn số buổi tập trong một tuần (n=20)
Số tiết tập một tuần

1

2

3

4

5
23

skkn


Số người hỏi

20

20

20

20

20


Số người tán thành

4

16

0

0

0

Tỉ lệ %

20

80

0

0

0

Qua bảng 3 cho thấy ý kiến của các giáo viên cho rằng một tuần tập 2 tiết
nhằm khắc phục những sai lầm thường mắc trong khi học kĩ thuật chuyền và bắt
bóng bằng hai tay trước ngực như vậy sẽ đảm bảo yêu cầu nhiệm vụ giảng dạy.
Do mỗi tuần chỉ có 2 tiết học với thời gian 90 phút, muốn vậy cần phải chú
ý tới thời gian để bố trí cho phù hợp với công tác giảng dạy để đạt kết quả tốt mà
không gián đoạn tập luyện.

Qua phỏng vấn về mức độ ưu tiên sử dụng thời gian cho mỗi buổi tập, nhằm
khắc phục những sai lầm thường mắc trong học kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng
hai tay trước mặt chúng tơi nhận được kết quả được trình bày ở Bảng 3.1

Bảng 3.1. Phỏng vấn thời gian tập luyện các bài tập trong 1 tiết học.
05-10
phút

10-15
phút

15-20
phút

20-25 phút

Số người được hỏi

20

20

20

20

Số người tán thành

6


14

0

0

Tỉ lệ %

30

70

0

0

Thời gian

Qua 2 bảng 3 và 3.1 cho thấy để sữa những lỗi sai thường mắc nhằm nâng
cao độ chính xác khi học kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng 2 tay trước mặt thì tập
mỗi tuần 2 tiết và mỗi tiết từ 15 đến 20 phút là phù hợp.
Để có số liệu khách quan về mức độ sử dụng các bài tập đã đề xuất, chúng tôi
tiến hành phỏng vấn 20 giáo viên đang giảng dạy Giáo dục Thể chất trên địa bàn
huyện. Kết quả được chúng tơi trình bày ở bảng 3.2
Bảng 3.2: Kết quả phỏng vấn lựa chọn các bài tập để sữa lỗi sai thường
mắc khi thực hiện kĩ thuật chuyền và bắt bóng bằng hai tay trước ngực cho
học sinh lớp 10 trên địa bàn huyện Yên Thành (n = 20).
Kết quả
Nhóm bài tập


Nội dung bài tập

Người
tỷ lệ
đồng
(%)
ý
24

skkn


Chuyền bóng đi
xốy
khơng
thuận lợi cho
người bắt bóng

Khi bắt và kéo
bóng về thường
bị rơi hoặc tay
tiếp xúc bóng
nhưng khơng bắt
được bóng

Khơng sử dụng
hai tay chuyền
bóng mà sử
dụng lực của
một tay đẩy

bóng đi nên
bóng thường đi
lệch hướng định
chuyền.

Tập mơ phỏng lại động tác tại chỗ chuyền
bóng bằng hai tay trước ngực; chú ý động tác
miết các ngón tay vào bóng trước và sau khi
bóng rời khỏi tay.

18

90%

Tại chỗ nhồi bóng bằng hai tay

8

40%

Tại chỗ đứng cách tường 3 - 4m, hướng lên
trên tường chuyền bóng bằng hai tay vào
tường và bắt bóng phản lại; chú ý 2 khuỷu tay
phải ép vào người

17

85%

Tự tung bóng lên cao rồi bắt bóng đúng hình

tay, kéo bóng về tư thế chuẩn bị chuyền,
tương tự lần lượt tung bóng trước mặt bắt
bóng, tung bóng sang hai bên bắt bóng

19

95%

Tung bóng cao ra trước, để bóng đập đất xốy
ngược rồi bắt bóng đúng bằng hai tay.

9

45%

Tung bóng lên cao trước ra sau rồi bật xoay
180 độ bắt bóng đúng bằng hai tay.

17

85%

Bắt bóng từ đường chuyền của bạn đối diện
và 2 bên liên tục và nhiều lần, sau đó chuyền
bắt bóng qua lại với nhau

18

90%


Tại chỗ mơ phỏng động tác chuyền, tập khơng
bóng, có bóng.

9

45%

Đứng cách tường 3-4m, hướng lên trên tường
chuyền bóng vào 2 điểm định sẵn trên tường
và bắt bóng phản ra; chú ý phối hợp lực đều
cả 2 tay.

20

100
%

Chuyền và bắt bóng với bạn tập theo 2 hướng
khác nhau tăng dần cự ly chú ý lực đều cả 2
tay, chú ý lực nhịp nhàng thông qua từng bộ
phận của cơ thể như: cổ chân, đùi, các ngón
tay, miết đều 2 tay vào bóng. Thực hiện từ
chậm đến nhanh

18

90%

16


80%

Chuyền
bóng Đứng gần tường, tại chỗ dập bóng nhanh, liên
không đi được tục vào tường bằng 2 tay đảm bảo yêu cầu:
xa, lực chuyền Bóng cao nhất có thể; bóng tiếp xúc đầu các

25

skkn


×