Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Skkn một số biện pháp chỉ đạo giúp đỡ học sinh còn hạn chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.46 KB, 19 trang )

c1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Đổi mới phương pháp dạy học được hiểu là tổ chức các hoạt động học tập
tích cực cho người học. Từ đó khơi dậy và thúc đẩy lòng ham muốn, phát triển nhu
cầu tìm tịi, khám phá, từ đó phát huy khả năng tự học của học. Trước vấn đề đó,
người giáo viên khơng ngừng tìm tịi, khám phá, khai thác, xây dựng hoạt động,
vận dụng phối hợp các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với từng kiểu bài,
từng đối tượng học sinh, xây dựng cho học sinh hướng phát huy chủ động, sáng
tạo.
Hiện nay chúng ta đang thực hiện đổi mới nhiều vấn đề liên quan đến dạy và
học với mục đích là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Đặc biệt,
đối với bậc Tiểu học được xác định “là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo dục
quốc dân” (Điều 2 - Luật phổ cập giáo dục), với mục tiêu cơ bản là: “nhằm giúp
học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn lâu dài về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung
học cơ sở”. (Điều 23 - Luật Giáo dục) Mục tiêu đó được cụ thể hóa trong từng mơn
học, từng lớp học, từng hoạt động của cả bậc học.
Đào tạo thế hệ trẻ trở thành những người năng động sáng tạo, độc lập tiếp
thu tri thức là một vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm trong giai
đoạn hiện nay.
Trong những năm qua, một thực trạng là sự chênh lệch về khả năng tiếp thu
của học sinh trong các lớp càng tăng. Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho học
sinh khai thác tối đa bài giảng của thầy, nhất là đối với học sinh còn hạn chế các kĩ
năng. Ở các em có sự khác biệt về: khả năng tiếp thu bài, ý thức học tập, sức
khoẻ… so với những học sinh khác. Cần xem xét những học sinh này với những
đặc điểm vốn có của nó để tìm ra những biện pháp nhằm dẫn dắt các em đạt đến
kết quả tối đa, tránh để học sinh bị rơi vào những khó khăn thường xuyên trong
học tập. Đó chính là điều mà bản thân muốn trao đổi, chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm
từ đồng nghiệp để giúp đỡ đối tượng học sinh còn hạn chế.
Để mọi học sinh đều có cơ hội và điều kiện phát triển tồn diện thì người
giáo viên khơng những chỉ biết dạy mà cịn phải biết tìm tịi phương pháp nhằm



skkn


phát huy tính tích cực, khơi dậy lịng ham mê yêu thích học tập của các em. Vấn đề
nêu trên không phải là dễ nhưng ngược lại giải quyết được điều này là góp phần
xây dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương pháp dạy học
hiện đại, giúp cho học sinh có hướng tư duy mới trong việc lĩnh hội kiến thức.
Việc vận dụng sự đổi mới cơng tác dạy và phụ đạo học sinh cịn hạn chế
khơng chỉ là trách nhiệm mà cịn là bổn phận, nghĩa vụ của người thầy. Mặt khác,
nếu quan tâm đến việc phụ đạo học sinh yếu thì sẽ làm cho các em tự tin hơn khi
đến lớp, công tác duy trì sĩ số mới được đảm bảo, góp phần làm nên thắng lợi của
công tác phổ cập giáo dục tiểu học ở địa phương.
Với những lí do trên, ngay từ đầu năm học, bản thân tôi đã chú trọng đến
việc xây dựng chi tiết một kế hoạch chỉ đạo giúp đỡ  học sinh còn hạn chế. Từ
những suy nghĩ trên, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp chỉ đạo giúp
đỡ học sinh còn hạn chế”.
1.2. Điểm mới của đề tài.
Sáng kiến kinh nghiệm giúp:
Giải quyết những khó khăn trong việc giúp đỡ học sinh cịn hạn chế, rèn cho
học sinh ý thức, thói quen và hồn thiện kĩ năng đọc, viết, tính tốn nhằm nâng cao
chất lượng.
Nâng cao nghiệp vụ chun mơn, tích lũy thêm kinh nghiệm, giúp bản thân và
các giáo viên chủ nhiệm có kinh nghiệm trong cơng tác giúp đỡ học sinh cịn hạn
chế của nhà trường mà bản thân đang công tác. Định hướng cho tất cả các giáo
viên tiểu học thấy rõ tầm quan trọng của việc giúp đỡ học sinh cịn hạn chế, kiên trì
rèn luyện cho các em có kiến thức ngay từ các lớp dưới.
1.3. Phạm vi áp dụng.
Sáng kiến kinh nghiệm đi sâu tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến việc học sinh
học cịn hạn chế và tìm ra giải pháp để giúp các em từng bước tiến bộ hơn trong

học tập, tự tin trong cuộc sống vì vậy phạm vi áp dụng của sáng kiến ở các trường
tiểu học và đối tượng là học sinh yếu.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng học sinh ở trường.
2

skkn


Trường Tiểu học tôi đang công tác thuộc vùng thuận lợi của huyện Lệ Thủy.
Nguồn thu nhập của nhân dân chủ yếu bằng nghề nơng, mức thu nhập bình qn
khơng đồng đều. Một số dân cư nghề nghiệp vừa buôn bán nhỏ vừa làm nghề
nông, đời sống một số người dân còn thiếu thốn, một số phụ huynh đi làm ăn xa vì
vậy việc phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học của con em mình cịn rất
nhiều hạn chế, phó thác cho nhà trường và thầy cơ giáo (có nhiều phụ huynh đã
được nhà trường và giáo viên chủ nhiệm mời nhiều lần đến để trao đổi, bàn bạc về
việc học tập của con em mình nhưng vẫn khơng đến).
Một số giáo viên tay nghề cịn hạn chế, chưa nhiệt tình trong cơng tác giảng
dạy. Việc vận dụng các phương pháp còn cứng nhắc, chưa hiểu đúng về đổi mới
phương pháp dạy học. Giáo viên chưa tích cực nghiên cứu, học hỏi, tìm tịi để có
những cách dạy hiệu quả đạt chất lượng cao.
Nhiều em điều kiện kinh tế gia đình khó khăn, bố mẹ ít có điều kiện chăm
sóc, quan tâm đến việc học hành của con em. Một số học sinh có bố mẹ đi làm ăn
xa để con ở với ông bà già yếu nên việc phối hợp để giáo dục gặp khó khăn khi mà
các em thiếu thốn cả về tình cảm lẫn điều kiện vật chất. Phần lớn gia đình học sinh
cịn nhiều khó khăn, tỷ lệ học sinh thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo khá cao. Tính tự
quản, tự giác của học sinh trong học tập còn rất nhiều hạn chế, chưa nhận thức
đúng đắn về động cơ và mục đích học tập, các em còn ham chơi, lười học. Việc
học bài ở nhà của học sinh hình như khơng có (nếu có thì cũng chỉ học qua loa cho
xong). Trong một lớp tỉ lệ học sinh yếu chiếm khá đông, dẫn đến tiến trình học tập

chậm. Học sinh chưa tự giác học, chưa có động cơ học tập. Khả năng phân tích
tổng hợp, so sánh cịn hạn chế, chưa mạnh dạn trong học tập do hiểu chưa sâu, nắm
kiến thức chưa chắc. Học sinh lười suy nghĩ, cịn trơng chờ thầy cơ giải giúp; trình
độ tư duy, vốn kiến thức cơ bản còn hạn chế. Khả năng chú ý và tập trung vào bài
giảng của giáo viên không bền. Mỗi em có một khả năng nổi trội riêng nhưng các
em chưa biết phát huy khả năng của mình. Học sinh đọc chậm, viết sai nhiều lỗi
chính tả. Khơng biết làm tính, yếu các kỹ năng tính tốn cơ bản, cần thiết( cộng,
trừ, nhân, chia). Học vẹt, khơng có khả năng vận dụng kiến thức.
Với thực tế trên, vào đầu năm học tơi đã tiến hành tổ chức khảo sát hai mơn
Tốn và Tiếng Việt, sau đây là kết quả:
3

skkn


Bảng thống kê về kết quả khảo sát chất lượng đầu năm 2020-2021 mơn
Tốn và Tiếng Việt.
Mơn

Khối

Số HS

lớp

dự KT

SL

%


SL

%

SL

%

SL

%

1

57

20

35,1

10

17,5

17

29,8

10


17,5

2

56

19

33,9

11

19,6

19

33,9

7

12,5

3

67

17

25,4


13

19,4

17

25,4

10

14,9

4

59

19

32,2

16

27,1

15

25,4

9


15,3

5

58

16

27,6

18

33,0

18

31,0

6

10,3

Tổng

287

91

31,7


68

23,7

86

30,0

42

14,6

Tiếng

1

57

17

29,8

15

26,3

15

26,3


10

17,5

Việt

2

56

14

25,0

13

23,2

19

33,9

10

17,8

3

67


18

26,9

15

22,4

23

34,3

11

16,4

4

59

14

23,7

17

28,8

18


30,5

9

15,3

5

58

13

22,4

19

32,8

19

32,8

7

12,1

Tổng

287


76

26,5

79

27,5

94

32,8

47

16,4

Tốn

9-10

7-8

5-6

Dưới 5

Qua bảng thống kê về kết quả khảo sát chất lượng đầu năm hai mơn Tốn và
Tiếng Việt, ta thấy số lượng học sinh yếu đầu năm học của các khối lớp khá nhiều.
Đây là vấn đề mà người làm quản lí chun mơn như tơi phải trăn trở, tìm giải

pháp để giúp đỡ các em học tập tiến bộ, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục đại trà
của nhà trường. Qua tìm hiểu tơi nhận thấy một số ngun nhân dẫn đến học sinh
học yếu như sau:
Thứ nhất: nguyên nhân học sinh học yếu khơng phải hồn tồn là ở học sinh
mà một phần ảnh hưởng không nhỏ là ở người giáo viên. Thầy hay thì mới có trị
giỏi. Ngày nay, để có thể thực hiện tốt trong cơng tác giảng dạy thì địi hỏi giáo
viên phải khơng ngừng học tập nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ. Tuy
nhiên, ở đây khơng phải giáo viên nào có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp giỏi thì
sẽ giảng dạy tốt mà giáo viên phải biết lựa chọn phương pháp dạy học nào là phù
hợp với từng đối tượng học sinh và từng nội dung kiến thức. Qua quá trình cơng
tác, bản thân nhận thấy vẫn cịn một bộ phận nhỏ giáo viên chưa chú ý quan sát
4

skkn


đến các đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh cịn hạn chế. Chưa tìm tịi nhiều
phương pháp dạy học mới kích thích tính tích cực, chủ động của học sinh. Chưa
thật sự quan tâm tìm hiểu đến hồn cảnh gia đình của từng học sinh.
Hệ thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt chưa logic, chưa phù hợp cho từng đối
tượng; có những tiết giáo viên cịn nói lan man, ngoài lề chưa khắc sâu kiến thức
trọng tâm.
Việc sử dụng đồ dung dạy học trực quan, tranh ảnh, sách giáo khoa còn hạn
chế, chưa khai thác hết tác dụng của đồ dung dạy học.
Chưa xử lí hết các tình huống trong tiết dạy, việc tổ chức các hoạt động cịn
mang tính hình thức, chưa phù hợp.
Phương pháp giảng dạy dạy chưa phù hợp, năng lực tổ chức giờ học theo
nhóm đối tượng cịn hạn chế.
Chưa động viên, tun dương kịp thời khi học sinh có một biểu hiện tích cực
hay sáng tạo dù là rất nhỏ.

Chưa quan tâm đến hết tất cả học sinh trong lớp, giáo viên chỉ chú trọng vào
các em học sinh khá, giỏi và coi đây là chất lượng chung của lớp.
Tinh thần trách nhiệm chưa cao, thiếu quyết tâm, bệnh thành tích, khơng
đánh giá đúng thực chất của lớp mình giảng dạy.
Cịn lúng túng, chưa mạnh dạn tìm các giải pháp mạnh giải quyết vấn đề
chất lượng học tập của học sinh, còn tâm lí trơng chờ chỉ đạo của cấp trên.
Thứ hai: Học sinh là người học, là người lĩnh hội những tri thức thì ngun
nhân học sinh học cịn hạn chế có thể là do:
Học sinh lười học: Qua quá trình giảng dạy và làm cơng tác quản lí, bản thân
nhận thấy rằng các em học sinh còn hạn chế là những học sinh cá biệt, vào lớp
không chịu chú ý chuyên tâm vào việc học, về nhà thì khơng xem bài, khơng chuẩn
bị bài, cứ đến giờ học thì cắp sách đến trường. Cịn một bộ phận nhỏ thì các em
khơng xác định được mục đích của việc học. Các em chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe
giáo viên giảng bài rồi ghi vào những nội dung đã học sau đó về nhà lấy sách vở ra
“ học vẹt” mà không hiểu được nội dung đó nói lên điều gì.
Học sinh cịn hạn chế do hồn cảnh gia đình: Đó là sự thiếu quan tâm, nhắc
nhở, động viên con em, thiếu về điều kiện vật chất, nhiều học sinh đi học miếng
5

skkn


cơm ăn chưa đủ no, áo mặc chưa đủ ấm nói gì đến sách vở, học cụ cộng với việc
thiếu tình cảm của bố (mẹ) nên phần lớn việc học các em phải tự lo hồn tồn.
Học sinh khơng có thời gian cho việc tự học: Ở một số gia đình nhà nơng thì
ngồi thời gian học trên lớp, khi ở nhà, các em phải phụ giúp gia đình việc đồng
áng, chăn trâu, chăn bò,….
Học sinh bị hổng kiến thức từ lớp dưới: Đây là một điều không thể phủ nhận
với chương trình học tập hiện nay. Nguyên nhân này có thể nói đến một phần lỗi
của giáo viên là chưa đánh giá đúng trình độ của học sinh.

Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh học yếu mà bản
thân nhận thấy trong quá trình cơng tác. Qua việc phân tích những ngun nhân đó,
bản thân đưa ra một số biện pháp để chỉ đạo việc thực hiện giáo dục, giúp đỡ học
sinh còn hạn chế các kĩ năng nhằm đạt mục tiêu giáo dục toàn diện. Trong phạm vi
của bài viết, bản thân chỉ đề cập đến biện pháp giúp đỡ học sinh còn hạn chế ở hai
mơn: Tốn và Tiếng Việt.
2.2. Các biện pháp tiến hành.
2.2.1. Biện pháp 1. Khảo sát chất lượng, phân loại đối tượng học sinh và xây
dựng kế hoạch giúp đỡ học sinh còn hạn chế trên cơ sở đã phân tích nguyên
nhân dẫn đến việc hạn chế các kĩ năng ở học sinh.
Căn cứ kết quả xếp loại học lực cuối năm học qua, so sánh với kết quả khảo
sát chất lượng học sinh đầu năm học này, căn cứ sĩ số học sinh đầu năm học với sĩ
số học sinh từng tháng để tiến hành thống kê số liệu, xác định và phân loại số học
sinh hạn chế ở từng lớp, từng khối lớp.
Căn cứ kế hoạch của Phịng GD&ĐT, căn cứ vào tình hình địa phương, và
kết quả kiểm tra chất lượng đầu năm, từ đó xây dựng kế hoạch chi tiết cụ thể, phát
động phong trào thi đua thực hiện kế hoạch trong năm học và đề ra các giải pháp
chủ yếu trong triển khai thực hiện, thành lập Ban chỉ đạo cấp trường, tổ chức ký
kết giao ước thi đua thực hiện nhiệm vụ.
Chỉ đạo giáo viên xây dựng kế hoạch giúp đỡ học sinhcịn hạn chế, có bảng
theo dõi kết quả rèn luyện của học sinh còn hạn chế qua hàng tháng. Đầu năm giáo
viên chủ nhiệm lập danh sách học sinh còn hạn chế theo mẫu sau:
DANH SÁCH HỌC SINH CÒN HẠN CHẾ LỚP …
6

skkn


TT


Họ tên HS

Hạn chế

Hạn chế

Hạn chế

Hạn chế cả

Nguyên

về kĩ năng

về kĩ

về mơn

hai mơn

nhân yếu

đọc

năng

tốn

viết


Giáo viên cần xem xét, phân loại những học sinh còn hạn chế đúng với
những đặc điểm vốn có của các em để lựa chọn biện pháp giúp đỡ phù hợp với đặc
điểm chung và riêng của từng em. Một số khả năng thường hay gặp ở các em là:
Sức khoẻ kém, khả năng tiếp thu bài, lười học, thiếu tự tin, nhút nhát…
2.2.2. Biện pháp 2. Tìm hiểu ngun nhân học sinh cịn hạn chế các kĩ
năng(hạn chế các kĩ năng do lười học, không chuyên cần hoặc chưa nhận thức
được nhiệm vụ học tập) để có phương pháp dạy học phù hợp.
Ngay từ đầu năm học tơi chỉ đạo giáo viên phải tìm hiểu ngun nhân dẫn
đến học sinh còn hạn chế như: do lười học, đi học không chuyên cần, chưa nhận
thức được nhiệm vụ học tập …để từ đó có biện pháp giúp đỡ phù hợp, kịp thời.
Những học sinh rơi vào tình trạng trên là do: không học bài, không làm bài,
thường xuyên để quên sách vở ở nhà, vừa học vừa chơi, khơng tập trung…Để các
em có hứng thú học tập, giáo viên phải nắm vững và phối hợp nhịp nhàng các
phương pháp dạy học, thay đổi bằng hình thức tổ chức dạy học, sử dụng phong
phú đồ dùng học tập … Giúp các em hiểu bài, tự bản thân mình giải quyết các bài
tập của cơ giáo. Ngồi ra, giáo viên động viên các bạn trong tổ nhắc nhở và giúp
đỡ lẫn nhau mỗi khi các em vấp phải những lỗi trên. Chúng ta phải hiểu, một học
sinh còn hạn chế khơng địi hỏi các em phải giỏi ngay được. Mà điều chúng ta
mong muốn sự tiến bộ từng bước ở các em so với thời gian trước. Ngoài ra, giáo
viên phải trao đổi trực tiếp đến từng đối tượng học sinh bằng lời nói, cử chỉ, mệnh
lệnh thật thuyết phục đến các em. Chính những tác động trực tiếp thường tạo ra
dấu ấn tức thì về sự chuyển biến tâm lí như thái độ, hành vi, tình cảm…học sinh sẽ
dần tiến bộ.
Trong thực tế người ta nhận thấy có bao nhiêu cá thể thì sẽ có chừng ấy
phong cách nhận thức. Vì vậy, hiểu biết về phong cách nhận thức là để hiểu sự đa
7

skkn



dạng của các chức năng trí tuệ giúp cho việc tổ chức các hoạt động sư phạm thông
qua đặc trưng này.
Trong quá trình thiết kế bài học, giáo viên cần cân nhắc các mục tiêu đề ra
nhằm tạo điều kiện cho các em học sinh còn hạn chế được củng cố và luyện tập
phù hợp. Ví dụ khi học bài: Giải toán về tỉ số phần trăm (Toán - lớp 5 ), đối với các
em học sinh hạn chế thì các em chỉ cần nắm mục tiêu thứ nhất: “Biết cách tìm tỉ số
phần trăm của hai số”  là đạt yêu cầu rồi.
Trong dạy học cần phân hóa đối tượng học tập trong từng hoạt động, dành
cho đối tượng này những câu hỏi dễ, những bài tập đơn giản để tạo điều kiện cho
các em được tham gia trình bày trước lớp, từng bước giúp các em tìm được vị trí
đích thực của mình trong tập thể. u cầu luyện tập của một tiết là 4 bài tập, các
em này có thể hồn thành 1, 2 hoặc 3 bài tùy theo khả năng của các em.
Ngồi ra, giáo viên có thể tổ chức phụ đạo cho những học sinh còn hạn chế
khi các biện pháp giúp đỡ trên lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Có thể tổ chức phụ
đạo từ 1 đến 2 buổi trong một tuần. Tuy nhiên, việc tổ chức phụ đạo phải kết hợp
với hình thức vui chơi nhằm lôi cuốn các em đến lớp đều đặn và tránh sự quá tải,
nặng nề.
2.2.3. Biện pháp 3. Tìm hiểu hồn cảnh gia đình học sinh.
Gia đình là mơi trường giáo dục có ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ. Trước tiên là
ảnh hưởng của cha mẹ rất sâu sắc. Vì vậy, giáo dục gia đình là một “điểm mạnh”,
là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp giáo dục trẻ. Song mỗi gia đình có
những điểm riêng của nó nên giáo viên phải biết phối hợp như thế nào để đảm bảo
được tính thống nhất, tồn vẹn trong quá trình giáo dục. Đồng thời phát huy ảnh
hưởng cùng nhà trường giáo dục học sinh đạt hiệu quả. Ngay từ đầu năm học tơi
chỉ đạo giáo viên phải tìm hiểu hồn cảnh gia đình của từng học sinh để nắm bắt
hoàn cảnh cụ thể của từng học sinh để từ đó có biện pháp giúp đỡ phù hợp, kịp
thời.
Trước những nguyên nhân xuất phát từ gia đình giáo viên cần:
Tạo cơ hội để trao đổi trực tiếp với phụ huynh học sinh, nắm bắt cụ thể
hướng phấn đấu của các em vì mục tiêu, kế hoạch chung của lớp, của trường…

thông qua các buổi họp phụ huynh học sinh.
8

skkn


Hợp tác giữa giáo viên và phụ huynh là điều cần thiết để học sinh học tập và
rèn luyện. Qua đó, giáo viên sẽ thơng tin kịp thời đến phụ huynh về kết quả học
tập, hạnh kiểm, các mặt tham gia hoạt động…của con em mình thơng qua sổ liên
lạc.
Giáo viên và phụ huynh cần phải có sự liên kết hai chiều nhằm có biện pháp
tác động phù hợp.
Động viên khuyến khích khi các em tiến bộ, nhắc nhở kịp thời khi các em có
biểu hiện cần uốn nắn.
Tổ chức họp mặt Hội Cha mẹ học sinh 4 lần trong năm học và động viên gia
đình vượt khó để con em đi học, đối với số học sinh yếu kém phải hướng dẫn gia
đình cách tổ chức và kiểm tra con em tự học, làm bài ở nhà… Giáo viên tạo điều
kiện tốt nhất về thời gian để học sinh có thể hoàn thành bài học ngay lại lớp.
2.2.4. Biện pháp 4. Bù lấp chỗ hổng kiến thức cho học sinh, có phương
pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh.
Kiến thức ln cần có sự xun suốt. Do mất căn bản, học sinh khó mà có
nền tảng vững chắc để tiếp thu kiến thức mới. Để khắc phục tình trạng này, giáo
viên cần:
Hệ thống kiến thức theo chương trình. Đưa ra nội dung bài tập phù hợp với kiến
thức để học sinh có thể luyện tập kiến thức mới và ôn lại kiến thức đã học.
Phân hóa đối tượng học sinh; quan sát và theo dõi từng hoạt động của các em,
bằng nhiều hình thức tổ chức (thi đua cá nhân, thi đua tổ nhóm, đố vui, giải trí,…).
Kết hợp kiểm tra thường xuyên việc học của các em mỗi ngày nhằm rèn thói quen
học bài và làm bài, kích thích hoạt động trí tuệ cho các em.
Động viên, khích lệ, tuyên dương kịp thời với tác dụng: xác nhận sự tiến bộ ở

học sinh; kích thích sự say mê, hứng thú học tập của học sinh; thúc đẩy hành động
theo chuẩn mực; giúp học sinh tự tin là mình học được, mình có thể giỏi như các
bạn; sửa chữa hành vi sai lệch của học sinh; kiềm chế sự bột phát, tập thói quen
chu đáo và cẩn thận.
2.2.4.1. Về mơn Tốn:
Đối với những học sinh khơng biết tính tốn thì giáo viên cần có phương
pháp dạy học phù hợp:
9

skkn


Hướng dẫn để các em hiểu, cộng có nghĩa là thêm vào, trừ là bớt đi. Khi
thực hiện các phép tính cộng, trừ, giáo viên nên sử dụng nhiều hình ảnh trực quan
cho các em cầm, nắm, sờ vào và thực hành đếm. Được thực hành nhiều lần, dần
dần các em sẽ nhớ và biết cách tính. Đối với những em khơng thuộc bảng nhân,
chia thì giáo viên gọi lên kiểm tra thường xuyên vào sinh hoạt 15 phút đầu giờ,
giáo viên có thể lấy nhiều ví dụ minh họa trong cuộc sống, tạo thành các tình
huống liên quan đến các phép tính nhân, chia cho học sinh thực hiện.
Ơn lại các hàng, lớp và cách đặt tính số tự nhiên. Giáo viên cho học sinh làm
các bài tập từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Ban đầu, cho học sinh đặt tính
các số có các chữ số thuộc cùng một hàng.
Ví dụ: 125 +217
Sau đó, cho học sinh đặt tính các số có các chữ số lệch hàng.
Ví dụ: 56 +1024
Để biết đặt tính thì các em phải thuộc tất cả các hàng theo thứ tự từ nhỏ đến
lớn hoặc từ lớn đến nhỏ. Tương tự như số tự nhiên thì khi dạy số thập phân, giáo
viên cũng phải yêu cầu các em thuộc các hàng trong số thập phân, nắm được dấu
phẩy ngăn cách giữa phần ngun và phần thập phân thì mới tính tốn chính xác
được.

Bên cạnh những học sinh khơng biết tính thì có những em tính cịn chậm.
Ngun nhân các em tính chậm có thể là do: khả năng tính nhẩm kém do cộng, trừ,
nhân, chia trong bảng chưa thuần thục dẫn đến tính tốn chậm, thiếu chính xác khi
thực hiện các phép tính cộng, trừ có nhớ và nhân, chia ngồi bảng.
Chưa có kỹ năng làm bài tập dạng trắc nghiệm, lười tính và thường chọn kết
quả theo cảm tính hoặc xem bài của bạn. Mặt khác, các em chưa biết cách suy luận
khi giải toán. Các em rất sợ các bài tập về giải tốn vì ảnh hưởng bởi khả năng đọc
hiểu và khơng biết tính hoặc tính thiếu chính xác.
Chú trọng vào việc giúp các em thành thạo 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia
mức độ đơn giản.
Khi giải tốn, giáo viên có thể u cầu các bạn khá, giỏi phân tích đề bài,
tóm tắt và trình bày bài giải. Sau đó, ra một bài tập tương tự như vậy chỉ cần thay
đổi một vài con số và yêu cầu các em học còn hạn chế làm lại. Các em có thể làm
10

skkn


vào giờ rèn luyện thêm vào buổi chiều. Khi các em làm bài, giáo viên theo dõi, sửa
sai (nếu có) kịp thời. Bước đầu, tạo cho các em sự tự tin, hứng thú khi làm đúng
những bài toán cơ bản.
Động viên, giúp đỡ các em hoàn thành các bài tập cơ bản ngay tại lớp. Nâng dần
mức độ luyện tập theo khả năng từng em.
Trên lớp, bạn học hoặc giáo viên cần giúp đỡ kịp thời để tránh những khó khăn
thường gặp, dần dần giúp các em tự kiểm tra, biết nhờ bạn, thầy giúp đỡ khi cần.
Khuyến khích các em tự rèn vào vở bài tập đối với các dạng bài thường sai, xem
trước bài mới.
2.2.4.2. Về môn tiếng Việt:
Hạn chế của học sinh khi học môn Tiếng Việt.
Tập đọc: Nguyên nhân đọc hạn chế ở các em là ngắt nghỉ hơi chưa đúng dấu

câu, cụm từ, không phân biệt được các dấu câu, đọc sai do lỗi phương ngữ, chưa
đạt được tốc độ đọc theo chuẩn kiến thức kĩ năng, với những từ có vần khó thì phải
đánh vần thật lâu, tùy tiện lược bớt hoặc thêm từ vào khi đọc. Bên cạnh đó, khả
năng đọc trơi chảy, đọc hiểu và cảm thụ một tác phẩm, một văn bản cịn hạn chế.
Chính tả: Đọc đúng là cơ sở, nền tảng của viết đúng. Vì vậy, các em đọc yếu
thường cũng viết yếu. Nguyên nhân các em viết yếu là do không hiểu và nắm
nghĩa của từ, không nắm vững âm, vần, dấu thanh và cách ghép, một số mắc lỗi do
phát âm chưa đúng nên dẫn đến viết sai.
Luyện từ và câu: Vốn từ vựng ít, thường mắc lỗi về ngữ pháp khi viết câu.
Tập làm văn: Khả năng đọc, viết hạn chế ảnh hưởng nhiều khi diễn đạt bằng
lời, diễn đạt khi viết. Hơn nữa, hoàn cảnh sống làm hạn chế khả năng hiểu biết của
các em. Vì vậy, các em gặp khó khăn khi cần mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo
các chủ điểm đã học thơng qua các kỹ năng như: phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết
đoạn.
 Đối với học sinh học hạn chế mơn tiếng Việt, giáo viên cần có phương pháp
dạy học phù hợp.
Tập đọc:
Đối với những học sinh đọc còn hạn chế thì giáo viên cần:
11

skkn


Tạo điều kiện cho học sinh được đọc nhiều trong giờ tập đọc như: thường
xuyên gọi các em đọc bài, luyện phát âm đúng, sửa sai kịp thời cho các em và cho
các em luyện đọc lại từ sai nhiều lần.
Dặn các em về nhà đọc lại bài, có thể đọc tham khảo thêm một văn bản, một
bài tập đọc khác có nội dung phù hợp và quan trọng là giáo viên phải kiểm tra và
nhận xét đánh giá việc đọc ở nhà của các em để động viên khuyến khích kịp thời.
Giáo viên động viên học sinh xuống thư viện mượn truyện thiếu nhi, truyện cổ tích

đọc vào giờ nghỉ giải lao. Giáo viên nên dành thời gian để các em thể hiện giọng
đọc của mình, đọc câu chuyện trước lớp cho các bạn nghe, cho các bạn nhận xét,
đánh giá về sự tiến bộ của các em sau mỗi tuần. Làm được điều này, ta sẽ tạo được
niềm tin nơi các em rất nhiều, là động lực thúc đẩy các em say mê rèn đọc.
Khi các em đã đọc đúng thì giáo viên tổ chức cho các em luyện  đọc trơi
chảy thơng qua các hình thức đọc trước lớp, đọc trong nhóm. Giúp học sinh mở
rộng vốn từ và hiểu nghĩa từ qua việc đọc chú giải và nghe bạn trình bày nghĩa một
số từ trong bài đọc, từ đó giúp các em hiểu nội dung bài đọc.
Chính tả:
Đối với những học sinh viết cịn hạn chế thì giáo viên cần:
Tổ chức cho các em ôn lại âm, vần đã học. Giáo viên yêu cầu học sinh mỗi
ngày viết khoảng một trang vở gồm cả âm, vần, tiếng, từ. Sau đó, giáo viên đọc
cho học sinh viết một đoạn văn mà sử dụng nhiều các âm, vần vừa viết. Các em sẽ
có một vở riêng để luyện viết và giáo viên phải thường xuyên kiểm tra, nhận xét
đánh giá kịp thời.
Khi các em đã nắm được các âm, vần thì đối với bài chính tả trong sách giáo
khoa, giáo viên cần cho học sinh nêu từ khó và luyện viết từ khó nhiều lần, nhiều
từ. Có thể cho các em có chọn từ để luyện viết thêm.
Đối với chính tả nhớ viết, các em này thường nhớ rất ít so với yêu cầu nên
có thể chấp nhận em viết đến hết phần nhớ được nhưng khuyến khích viết đúng
chính tả.
Luyện từ và câu:
Sửa lỗi ngữ pháp trong câu cụ thể, trong giao tiếp hàng ngày.
12

skkn


Hướng dẫn các em tra từ điển, tạo cơ hội cho các em được tra nhiều từ nhằm
giúp các em hiểu nghĩa gốc của từ, tạo sự ham thích tìm hiểu.

Tập làm văn:
Nhận dạng thể loại, sửa phần tìm ý, viết đoạn.
Giáo viên chỉ ra lỗi cụ thể trên bài làm của học sinh. Học sinh tự viết lại.
Cần tạo điều kiện  để các em nhận xét bài của bạn, ghi chép lại ý hay nếu
thích. Khuyến khích các em trình bày bài viết trước lớp.
Gợi mở, tạo hứng thú cho các em bằng cách thay đổi những đề bài tập làm
văn thành những tình huống, nhằm tạo ra cho các em một hồn cảnh giao tiếp. Nhờ
có hồn cảnh giao tiếp, các em dễ bày tỏ suy nghĩ của mình hơn.
2.2.5. Biện pháp 5. Xây dựng mơi trường học tập thân thiện.
Giúp đỡ học sinh còn hạn chế được gắn với cuộc vận động “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” và “Mỗi thầy cơ giáo là một tấm
gương đạo đức, tự học và sáng tạo”. Thực hiện nghiêm túc cuộc vận động “Hai
không” với 4 nội dung do Bộ GD-ĐT phát động, cương quyết ngăn chặn, xử lý
nghiêm các hiện tượng tiêu cực trong các lần tổ chức kiểm tra.
Sự thân thiện của giáo viên là điều kiện cần để những biện pháp đạt hiệu quả
cao. Thơng qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười… giáo viên tạo sự gần gũi, cảm
giác an toàn nơi học sinh để các em bày tỏ những khó khăn trong học tập, trong
cuộc sống của bản thân mình. Trong năm học qua, trường chúng tôi đã đưa ra sáng
kiến tổ chức cho cán bộ, giáo viên, nhân viên mỗi người nhận bảo trợ cho một học
sinh có hồn cảnh đặc biệt khó khăn để giúp các em xóa đi mặc cảm, tự tin hơn
trong cuộc sống và tiến bộ hơn trong học tập.
Giáo viên luôn tạo cho bầu không khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, khơng
đánh mắng hoặc dùng lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm
thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương u và tơn trọng mình. Bên
cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực. Ví
dụ như giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, giáo viên tìm những việc làm
mà em hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Hoặc có thể dùng
các phiếu thưởng có in các lời khen phù hợp với từng việc làm của các em như:
“Biết giúp đỡ người khác”, “ Thái độ nhiệt tình và tích cực”…
13


skkn


Tổ chức Đồn Đội của nhà trường làm nịng cốt của các phong trào thi đua
Học tốt, tổ chức phát động phong trào thi đua “Học nhiều điểm tốt”, “Giúp bạn
vượt khó học tập”, “Đơi bạn cùng tiến”, “Nhóm bạn học tập ở trường và ở
nhà”.v.v…
Tổ chức các hoạt động giáo dục đạo đức, giáo dục tinh thần “ tương thân
tương ái” tặng vở, sách giáo khoa cũ, tặng áo cho bạn nghèo, phân công học sinh
khá giỏi kèm cặp, giúp đỡ học sinh còn hạn chế, gần gủi, động viên và chia sẻ kịp
thời với những học sinh có hồn cảnh gia đình khó khăn.
2.2.6. Biện pháp 6. Tăng cường vai trị của tổ chun mơn, giáo viên chủ
nhiệm trong cơng tác giúp đỡ học sinh cịn hạn chế.
Ưu tiên phân cơng các giáo viên có năng lực tay nghề vững vàng, có đạo
đức, tâm huyết và có kinh nghiệm để phụ đạo giúp đỡ học sinh còn hạn chế các kĩ
năng. Dạy phụ đạo học sinh hạn chế bằng tâm lý sư phạm, kiên trì và dài lâu, dùng
các biện pháp kích thích động viên các em là chính, khơi dậy trong học sinh lịng
tự tin, hứng thú học tập và vượt khó để tiến bộ.
Giáo viên phải nắm hết các điểm yếu, hổng kiến thức của từng học sinh còn
hạn chế để tập trung bù đắp, bổ sung kiến thức.
Đẩy mạnh công tác giáo viên chủ nhiệm lớp, thực hiện tốt các giờ sinh hoạt
lớp, tổ chức kiểm tra việc chuẩn bị bài của học sinh ở nhà, tổ chức ôn bài, sửa bài
tập đầu buổi học, phân công cán sự lớp, cán sự bộ môn của lớp hướng dẫn giải bài
tập, tổ chức học tổ, học nhóm học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên chủ
nhiệm.
Tổ chức sinh hoạt chuyên đề “Giúp đỡ học sinh cịn hạn chế”, báo cáo sáng
kiến kinh nghiệm điển hình về công tác chủ nhiệm lớp, kinh nghiệm về giảng dạy
phụ đạo học sinh cịn hạn chế, duy trì sĩ số học sinh. Hướng dẫn tổ chức tiết hoạt
động tập thể để phát huy tính chủ động, tự quản và thi đua học tập của lớp, tổng

kết tình hình học tập, biểu dương, khen ngợi kịp thời các học sinh yếu kém có
nhiều cố gắng…đồng thời qua tiết sinh hoạt tập thể lớp, giáo viên chủ nhiệm còn
nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, hồn cảnh từng học sinh để có biện pháp giúp đỡ
kịp thời, thiết thực.
14

skkn


Nhà trường tăng cường công tác quản lý và theo dõi quá trình học tập của
từng học sinh, kiểm tra tỷ lệ chuyên cần của học sinh, kiểm tra chất lượng giảng
dạy của giáo viên phụ đạo. Chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm, phối hợp đồng bộ, kịp
thời với các giáo viên bộ mơn, với các tổ chức đồn thể và sự hỗ trợ giáo dục của
cha mẹ học sinh, tổ chức thơng báo kết quả và tình hình học tập cụ thể của từng
học sinh theo học kỳ, theo tháng, sau các đợt tổ chức thi lại nếu học sinh thi chưa
đạt.
2.2.7. Biện pháp 7. Phối hợp các nguồn lực ngoài nhà trường.
Qua những năm trực tiếp giảng dạy và làm cơng tác quản lí, bản thân cũng
nắm bắt và thấu hiểu được tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu học. Nếu các em được sống
trong sự yêu thương, chăm sóc, quan tâm của gia đình, thầy cơ và có một mơi
trường học tập tốt thì các em sẽ ham thích, say mê và nỗ lực trong học tập. Điều
này có tác động rất lớn đến các em là học sinh còn hạn chế, giúp các em tự tin hơn
trong việc học của mình. Việc phụ đạo học sinh cịn hạn chế hay nói khác hơn, để
nâng cao chất lượng giáo dục không chỉ là trách nhiệm của nhà trường, gia đình
mà là của tồn xã hội. Vì vậy, đây là động lực để những ai đang làm công việc
“trồng người” ln cố gắng tìm ra được những tồn tại và nguyên nhân làm cho chất
lượng giúp đỡ học sinh còn hạn chế chưa đạt hiệu quả cao để từ đó sẽ có những
biện pháp khắc phục phù hợp, rút ra kết luận và những kinh nghiệm để giải quyết
một số khó khăn (nếu có) nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
Phát huy tối đa vai trò, chức năng nhiệm vụ của chính quyền, các đồn thể

địa phương và Ban đại diện Cha mẹ học sinh của địa phương. Tích cực huy động
sự tham gia phối hợp, cộng đồng trách nhiệm của chính quyền, lực lượng đồn thể
xã hội, các nhà hảo tâm…góp cơng, góp của cùng tham gia thực hiện phong trào
giúp đỡ học sinh khó khăn, yếu kém. Đặc biệt là vai trị của gia đình học sinh
trong cơng tác phối hợp với nhà trường.
Bảo đảm duy trì tốt sĩ số học sinh, không để học sinh bỏ học do hồn cảnh
khó khăn, giáo viên chủ nhiệm phải sớm phát hiện ngăn chặn kịp thời học sinh có
dấu hiệu bỏ học, chán học, học lực sa sút, xác định nguyên nhân học sinh bỏ học,
thành lập tổ công tác đến gia đình để vận động học sinh trở lại trường.
15

skkn


Chủ động đề xuất với Ban đại diện Cha mẹ học sinh, Hội Khuyến học, Hội
Cựu giáo chức và các nhà hảo tâm của địa phương để quyên góp, giúp đỡ học sinh
nghèo, học sinh khó khăn về vật chất, tinh thần, tặng quần áo hoặc cấp học bổng
cho các em yên tâm học tốt.
Tăng cường phối hợp với cha mẹ học sinh trong việc quản lý giờ giấc, nền
nếp sinh hoạt và học tập của học sinh ở trường và ở nhà, đặc biệt là giáo dục tốt
cho học sinh thái độ, động cơ học tập đúng đắn.
Giáo viên chủ nhiệm đề xuất với nhà trường, với chính quyền, đoàn thể xã
hội trong việc giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho học sinh có hồn cảnh
khó khăn, học sinh gia đình nghèo được đến trường, đi học chuyên cần.
2.3. Kết quả.
Kết quả ứng dụng của sáng kiến kinh nghiệm.
Sự đổi mới công tác dạy và học những năm gần đây ở bậc tiểu học đã tạo
điều kiện cho chúng tôi phát huy sở trường trong dạy học, mạnh dạn trong việc đề
ra những giải pháp trong giảng dạy, giáo dục học sinh phù hợp với từng đối tượng.
Từ đó giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc phát huy ưu điểm và khắc phục, sửa

chữa những hạn chế của bản thân. Vì vậy, chúng ta cần nhận thức đúng đắn, đầy
đủ về quan điểm đổi mới để vận dụng vào thực tiễn.
Đối chiếu bảng số liệu khảo sát đầu năm với kết quả đạt được cuối năm của
học sinh trong trường, ta sẽ thấy sự tiến bộ vượt bậc của các em:
Bảng thống kê kết quả khảo sát cuối năm học 2020-2021
Mơn

Tốn

Tiếng

Khối

Số HS

9-10

7-8

lớp

dự KT

SL

%

SL

%


SL

%

SL

%

1

57

24

42,1

11

19,3

22

38,6

0

0

2


56

19

33,9

16

28,6

21

37,5

0

0

3

67

27

40,4

17

25,4


23

34,3

0

0

4

59

19

32,2

20

34,0

19

32,2

0

0

5


58

16

27,6

28

48,3

13

22,4

1

1,7

Tổng

287

105

36,6

92

32,5


98

34,1

1

0,3

1

57

22

38,6

18

31,6

17

29,8

0

0

2


56

19

33,9

18

32,1

19

33,9

0

0

16

skkn

5-6

Dưới 5


Việt
3


67

23

34,3

20

29,9

24

35,8

0

0

4

59

18

30,5

21

35,6


20

33,9

0

0

5

58

28

48,3

20

34,5

19

32,8

1

1,7

Tổng


287

110

38,3

97

33,8

99

34,5

1

0,3

Qua bảng thống kê kết quả khảo sát cuối năm học 2020-2021, ta thấy số
lượng học sinh chưa hoàn thành mơn Tốn (1 em, tỉ lệ 0,3%) và mơn tiếng Việt( 1
em, tỉ lệ 0,3%). So với đầu năm học, số lượng học sinh yếu hai mơn Tốn và Tiếng
Việt cuối năm học giảm đi rõ rệt. Điều đó chứng tỏ các giải pháp chỉ đạo giúp đỡ
học sinh còn hạn chế mà tơi đưa ra đã có hiệu quả. Giáo viên trong trường đã nắm
bắt được các giải pháp giúp đỡ học sinh cịn hạn chế và rất tích cực trong việc giúp
đỡ học sinh còn hạn chế các kĩ năng học tập tiến bộ.
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa.
Là người làm cơng tác quản lí, phụ trách chun môn, bản thân thiết nghĩ,
muốn giúp đỡ đối tượng học sinh yếu, mỗi giáo viên cần:

1. Phải nhiệt tình, năng nổ, phải luôn tự bồi dưỡng nâng cao tay nghề để cải
tiến phương pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh học tập tích cực.
2. Giáo viên phải phân tích nắm rõ nguyên nhân dẫn đến học sinh học còn hạn
chế những kĩ năng nào để xây dựng kế hoạch thật cụ thể cho từng đối tượng, cho
từng phân môn dạy học.
3. Phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các đồn thể trong nhà
trường, với chính quyền địa phương, tạo môi trường giáo dục tốt nhất cho các em.
4. Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp thông qua
các phong trào, tạo động cơ ham học. Trong việc uốn nắn học sinh, giáo viên chủ
nhiệm phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, khơng nóng vội, khơng dùng lời lẽ nặng nề
với các em, xem học sinh là con em của mình, chia sẻ vui buồn, cùng lắng nghe ý
kiến của các em để từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp.
Một số kinh nghiệm bản thân ghi ra ở đây với hy vọng rằng:  Đây sẽ là một tài
liệu nhỏ để các quý đồng nghiệp có thể tham khảo, vận dụng trong những tình
17

skkn


huống sư phạm thích hợp. Hơn thế nữa, giúp đỡ học sinh còn hạn chế là nghĩa vụ,
trách nhiệm của người thầy. Hãy làm hết trách nhiệm bằng cái tâm của người thầy
và hãy nhận lấy trách nhiệm về mình. Ngồi ra, để chất lượng học tập của học sinh
được nâng cao đòi hỏi người giáo viên phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng,
tâm huyết và thực sự yêu thương học sinh.
Tóm lại, nếu giáo viên chủ nhiệm tạo được sự mật thiết giữa thầy với trò,
giữa học sinh với học sinh, thầy trò tạo được sự vui vẻ, thoải mái và nhẹ nhàng
trong học tập thì chắc chắn rằng các em là học sinh yếu sẽ mạnh dạn và tự tin hơn
rất nhiều để phát huy khả năng tự học của mình. Cùng với lịng nhiệt thành của
người thầy và sự cố gắng, nỗ lực của chính bản thân các em thì chúng ta tin tưởng
vào kết quả học tập tốt nhất sẽ đến với các em.

3.2. Kiến nghị, đề xuất.
3.2.1. Đối với phụ huynh
Cần quan tâm hơn nữa đến việc học tập của con mình, thường xuyên tương
tác với giáo viên, nhà trường, bạn bè của con để nắm bắt kịp thời các thông tin cần
thiết về khả năng học tập của con từ đó có kế hoạch phối hợp với nhà trường hiệu
quả hơn.
3.2.2. Đối với giáo viên
Hỗ trợ học sinh còn hạn chế các kĩ năng để giúp các em tiến bộ là một q
trình địi hỏi giáo viên phải có tính kiên trì, nổ lực, yêu thương học sinh như con
của mình. Đồng thời giáo viên phải luôn tạo được động lực, luôn là niềm tin để học
sinh tự tin, mạnh dạn chia sẻ.
3.2.3. Đối với nhà trường
Để đạt được hiệu quả cao trong công tác chất lượng, nhà trường cần có kế
hoạch cụ thể cho việc khảo sát, phụ đạo học sinh còn hạn chế ngay từ đầu năm
học. Theo dõi, hỗ trợ, động viên, khuyến khích kịp thời những giáo viên phụ đạo
có hiệu quả, học sinh tiến bộ trong quá trình phụ đạo. Đầu tư cơ sở vật chất
Để việc giúp đỡ học sinh cịn hạn chế được thực hiện có hiệu quả, tnhà
trường tăng cường chỉ đạo việc Đổi mới Phương pháp dạy học, thường xuyên tổ
chức các chuyên đề Đổi mới PPDH để giáo viên được tham gia học tập. Đề xuất
các cấp đầu tư nhiều hơn nữa cho giáo dục về các phương tiện dạy học hiện đại để
18

skkn


đáp ứng với yêu cầu của việc dạy và học có chất lượng. Có như vậy việc giúp đỡ
học sinh còn hạn chế được thực hiện thường xuyên và ngày càng có hiệu quả.

19


skkn



×