Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Skkn một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 5 học tốt văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.16 KB, 41 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4- 5 học tốt văn
miêu tả
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phân môn Tập làm văn lớp 4- 5
3. Tác giả:
Họ và tên:

Nữ

Ngày tháng/năm sinh:
Trình độ chun mơn: Đại học sư phạm
Chức vụ, đơn vị công tác:
Điện thoại:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
Trường Tiểu học

, xã

, huyê ̣n

, tỉnh Hải Dương

5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu:
Trường Tiểu học, xã, huyê ̣n, tỉnh Hải Dương
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Giáo viên, học sinh...
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2019 - 2020.
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP

( Kí, ghi rõ họ tên)



DỤNG SÁNG KIẾN

skkn


TĨM TẮT SÁNG KIẾN
Trong trường Tiểu học, mơn Tiếng Việt là môn học cơ bản nhất, là tiền đề,
là cơ sở tiếp thu các mơn học khác.
Trong đó, Mơn Tiếng Việt có các phân mơn: Tập đọc, Tập viết, Chính tả,
Luyện từ và câu, Kể chuyện và Tập làm văn. Phân mơn Tập làm văn ở Tiểu học
có vị trí, tầm quan trọng rất lớn, nó góp phần rèn luyện cho học sinh năng lực sử
dụng tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện thuận lợi cho các em giao tiếp trong cuộc sống
hàng ngày và học tốt các môn học khác. Mà trong phân mơn Tập làm văn thì văn
miêu tả là thể loại văn có vai trị quan trọng trong chương trình Tập làm văn ở bậc
Tiểu học. Như chúng ta đã biết trong đời sống, muốn mọi người cùng nhận ra
những điều mình thấy, đã sống…chúng ta phải miêu tả. Trong văn học, các truyện
ngắn, truyện dài, các bài ký, tùy bút…thường được xây dựng trên nhiều đoạn văn
miêu tả. Ngay cả khi viết văn nghị luận, hay viết thư, nhiều lúc người ta cũng đan
chen vào những đoạn miêu tả.
Để phát triển đúng năng lực học văn cho học sinh học văn miêu tả, chúng ta
cần nghiên cứu tìm tịi các biện pháp nhằm giúp các em học tốt văn miêu tả, đặc
biệt là đối với các em học sinh lớp 4-5.

YOPOVN.COM – DIỄN ĐÀN TÀI
LIỆU, GIÁO ÁN, BÀI GIẢNG
skkn


MÔ TẢ SÁNG KIẾN

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI :

1.1 Cơ sở lí luận
Giáo dục – đào tạo là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà cả xã hội đều
quan tâm. Tương lai của mỗi quốc gia cần có những người chủ xứng đáng, để có
những cơng dân tốt thì ngày hơm nay chúng ta phải có trách nhiệm dạy dỗ, hướng
dẫn trẻ em đi đúng hướng.
Trong Cương lĩnh của Đảng ta đã viết: "Con người là trung tâm của chiến
lược phát triển.” Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI ghi rõ:
“Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân
lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức.” Bước sang thế kỷ 21, nền
kinh tế trí thức và phát triển khoa học cơng nghệ như vũ bão thì trình độ dân trí,
trình độ nhân lực là vấn đề sống còn để phát triển của mỗi quốc gia. Ngay cả việc
hội nhập với thế giới hiện nay nếu khơng có trình độ nhân lực thì mục đích hội
nhập cũng có thể sẽ bị đảo ngược.
Trong trường Tiểu học, môn Tiếng Việt là môn học cơ bản nhất, là tiền đề,
là cơ sở tiếp thu các môn học khác. Dạy học Tiếng Việt phải hướng học sinh yêu
Tiếng Việt nhằm hình thành ở các em nhu cầu thưởng thức cái đẹp, khả năng rung
cảm trước cái đẹp, trước những buồn vui, yêu, ghét của con người, hình thành ở
các em thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt góp phần hình
thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tiếng Việt là một mơn
học có vị trí quan trọng trong chương trình Tiểu học. Đây là mơn học vừa có vai
trị trang bị cho học sinh công cụ ngôn ngữ, vừa là môn học thuộc khoa học Xã hội
và Nhân văn có nhiệm vụ trang bị cho học sinh những kiến thức khoa học về
Tiếng Việt, những kĩ năng sử dụng Tiếng Việt để học sinh tự hoàn thiện nhân cách
của mình ở phương diện ngơn ngữ và văn hố. Với nhiệm vụ của môn học cộng
cụ, học sinh cần học tốt mơn học này để có cơ sở học tốt những môn học khác.
1.2. Cơ sở thực tiễn

YOPOVN.COM – DIỄN ĐÀN TÀI

LIỆU, GIÁO ÁN, BÀI GIẢNG
skkn


Trong trường Tiểu học, Mơn Tiếng Việt có các phân mơn: Tập đọc, Tập
viết, Chính tả, Luyện từ và câu, Kể chuyện và Tập làm văn. Phân môn Tập làm
văn ở Tiểu học có vị trí, tầm quan trọng rất lớn, nó góp phần rèn luyện cho học
sinh năng lực sử dụng tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện thuận lợi cho các em giao tiếp
trong cuộc sống hàng ngày và học tốt các môn học khác. Nếu như các phân môn
khác của Tiếng Việt cung cấp cho các em một hệ thống kiến thức kĩ năng thì
phân mơn Tập làm văn tạo điều kiện cho các em thể hiện các kiến thức, rèn luyện
kĩ năng đó một cách linh hoạt thực tế và có hệ thống hơn. Học các tiết Tập làm
văn học sinh có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người, của thiên nhiên qua
các bài văn, đoạn văn điển hình của các nhà văn tên tuổi. Khi phân tích đề Tập
làm văn, học sinh lại có dịp hướng tới cái chân, cái thiện, cái mĩ được định hướng
trong các đề bài. Khi quan sát trong miêu tả, học sinh được rèn luyện cách nhìn
đối tượng trong quan hệ gần gũi giữa người với người, giữa con người với thiên
nhiên...Những cơ hội đó làm cho tình cảm yêu mến, gắn bó với thiên nhiên, với
con người của trẻ nảy nở, tâm hồn tình cảm của trẻ thêm phong phú. Đó là nhân
tố quan trọng góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp trong trẻ.
Trong phân mơn Tập làm văn thì văn miêu tả là thể loại văn có vai trị quan
trọng trong chương trình Tập làm văn ở bậc Tiểu học. Như chúng ta đã biết trong
đời sống, muốn mọi người cùng nhận ra những điều mình thấy, đã sống…chúng ta
phải miêu tả. Trong văn học, các truyện ngắn, truyện dài, các bài ký, tùy bút…
thường được xây dựng trên nhiều đoạn văn miêu tả. Ngay cả khi viết văn nghị
luận, hay viết thư, nhiều lúc người ta cũng đan chen vào những đoạn miêu tả.
Vậy ta có thể khẳng định rằng: “ Thể loại văn miêu tả chiếm một vị trí hết sức
quan trọng trong sáng tác cũng như trong đời sống sinh hoạt của con người”.
Học các tiết Tập làm văn miêu tả học sinh có điều kiện để gần gũi với thiên nhiên
và yêu thiên nhiên hơn từ đó có ý thức bảo vệ thiên nhiên tươi đẹp xung quanh

mình.
Phân mơn Tập làm văn ở chương trình mới có rất nhiều thay đổi nhằm tích cực

YOPOVN.COM – DIỄN ĐÀN TÀI
LIỆU, GIÁO ÁN, BÀI GIẢNG
skkn


hoá hoạt động của học sinh, lấy nguyên tắc giao tiếp làm định hướng cơ bản, tạo
ra một trường giao tiếp có chọn lọc để học sinh tự thực hành và khám phá tri thức.
Hiện nay trong các nhà trường Tiểu học,việc dạy phân mơn Tập làm văn đã có
nhiều tiến bộ, đã có nhiều đổi mới theo hướng tích cực hơn. Song bên cạnh đó
cũng cịn khơng ít tồn tại, thiếu sót. Việc dạy học thụ động, đối phó cịn có tính
chất tràn lan, việc chú trọng tìm ra cách dạy - cách học hợp lý nhằm để phát triển
đúng năng lực học văn cho học sinh là còn q yếu.
Chính từ những lí do ở trên mà tơi đã quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp
giúp học sinh lớp 4 - 5 học tốt văn miêu tả”.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU.

2.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu đề tài, tơi muốn có một cái nhìn tổng quát về sự đổi mới nội dung

và phương pháp dạy học phân môn Tập làm văn cụ thể là thể loại văn miêu tả ở
lớp 4-5. Từ đó định hướng và tìm các biện pháp dạy thể loại văn miêu tả cho học
sinh lớp 4-5 theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh
sao cho phù hợp với từng đối tượng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Tìm hiểu nội dung và phương pháp dạy Tập làm văn thể loại văn miêu tả ở
lớp 4-5 ở một số mặt như: những điểm mới về mục tiêu, nội dung, phương pháp
dạy tập làm văn ở sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 4-5.

+ Tìm hiểu thực trạng học Tập làm văn hiện nay của học sinh lớp 4-5 trong
trường Tiểu học mà tôi đang dạy.
+ Tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng dạy và học Tập làm văn hiện nay trong
trường Tiểu học mà tôi đang dạy.
+ Từ nguyên nhân và thực trạng học Tập làm văn của học sinh lớp 4-5 tơi suy
nghĩ tìm ra những biện pháp khắc phục giúp các em học tốt hơn phân môn Tập
làm văn thể loại văn miêu tả.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

YOPOVN.COM – DIỄN ĐÀN TÀI
LIỆU, GIÁO ÁN, BÀI GIẢNG
skkn


3.1. Nghiên cứu tài liệu:
- Nghiên cứu các văn bản chỉ đạo về thực hiện chương trình dạy học, sách giáo
khoa và đổi mới phương pháp dạy học.
3.2. Điều tra khảo sát
3.3. Thực nghiệm dạy học.

YOPOVN.COM – DIỄN ĐÀN TÀI
LIỆU, GIÁO ÁN, BÀI GIẢNG
skkn


CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG DẠY- HỌC TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ LỚP 4-5
1. THỰC TRẠNG
Kiến thức Tập làm văn ở Tiểu học tập trung nhiều trong chương trình Tiếng
Việt lớp 4, 5 với nhiều kiểu bài như: Viết thư, Trao đổi ý kiến, Tóm tắt tin tức, Kể

chuyện, Miêu tả… Trong đó khó nhất với học sinh là văn miêu tả. Điều này thể
hiện ở chỗ những bài làm văn miêu tả của học sinh còn nhiều hạn chế. Trong thực
tế ta thấy những bài văn của các em thường ngắn ngủn, kém hình ảnh, diễn đạt
yếu… Qua quá trình giảng dạy, kiểm tra đánh giá học sinh tôi nhận thấy trong quá
trình học tập, năng lực viết văn của các em cịn có rất nhiều hạn chế, cụ thể :
+ Bài làm của các em quá khô khan, lời văn hết sức thô, việc liên kết các từ
ngữ thành câu; câu thành đoạn còn quá vụng về và lủng củng.
+ Một số em có bài văn viết có vẻ trơi chảy, nhưng kiểm tra kĩ thì những bài
văn đó hầu như các em vay mượn, sao chép gần như hoàn tồn từ cơ sở của các
bài văn mẫu…
+ Có nhiều bài viết của học sinh không thể chấp nhận được khi thấy các em
sử dụng vốn từ hết sức thiếu chính xác, nghèo nàn về vốn từ.
Viết một bài văn của thể loại văn miêu tả mà nội dung hết sức sáo rỗng, câu
từ hết sức đơn sơ không được trau chuốt. Q trình làm bài các em khơng biết
dùng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, liên tưởng.... để làm nổi bật đối tượng nên bài
văn khô khan, miêu tả sự vật cịn mang tính liệt kê, cách viết ít sáng tạo. Học sinh
chưa biết chọn đặc điểm cốt lõi của sự vật để làm nổi bật sự vật đó… Chúng ta
cùng đọc một số lỗi trong văn miêu tả của học sinh:
+ Lỗi câu không đủ thành phần: Trên dịng sơng q hương.
+ Lỗi câu thừa thành phần, lặp lại thành phần không cần thiết: Cặp sách đối
với em là người bạn thân thiết của em.

YOPOVN.COM – DIỄN ĐÀN TÀI
LIỆU, GIÁO ÁN, BÀI GIẢNG
skkn


+ Lỗi câu có nội dung trùng lặp với câu khác trong văn bản: Mèo con ln
rình bắt chuột nên các chú chuột khơng dán bén mảng đến bao thóc. Em rất u
mèo con vì chú ln rình bắt chuột cho nhà em.

+ Lỗi câu không phân định được thành phần: Em phải giữ gìn chiếc bút chì
đặt vào hộp.
+ Lỗi câu sai nghĩa: Mẹ đẹp huy hoàng ai cũng thích.
+ Lỗi khơng dùng dấu câu( trong từng câu hoặc cả bài viết của học sinh
khơng có dấu chấm, dấu phấy.)
+ Lỗi dùng từ khơng phù hợp: Món q tuy nhỏ nhen nhưng em rất quý.
+ Lỗi sai lạc chủ đề.
Như vậy, ta thấy, khi viết bài văn học sinh tiểu học thường mắc rất nhiều
lỗi( chỉ có học sinh giỏi mới có khả năng hạn chế những lỗi trên). Đọc bài văn
miêu tả của các em, ta còn thấy sự khô khan nghèo cảm xúc, bài văn như một
bảng liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả, đôi khi bịa đặt không căn cứ.
2. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG TRÊN :

Qua quá trình nhìn nhận thực trạng trên với trách nhiệm của những người giáo
viên trực tiếp đứng trên bục giảng, tôi không tránh khỏi những băn khoăn và lo
lắng. Chính vì vậy mà nhiều câu hỏi và tình huống đặt ra cho tơi là làm thế nào để
giúp các em học tốt môn tập làm văn nói chung và phần Tập làm văn miêu tả nói
riêng?
Từ nhận thức đó tơi thấy hướng giải quyết là cần phải tìm hiểu kĩ nguyên
nhân dẫn đến thực trạng trên, sau đó cùng nhau xây dựng biện pháp khắc phục và
sau một thời gian tìm hiểu tơi đã tìm ra được một số nguyên nhân chính dẫn đến
việc học chậm mơn Tập làm văn nói chung và phần Tập làm văn miêu tả nói riêng
của học sinh đó là:
2.1.Về học sinh :
* Nguyên nhân thứ nhất:
Các em chưa hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả, chưa phân biệt được sự

YOPOVN.COM – DIỄN ĐÀN TÀI
LIỆU, GIÁO ÁN, BÀI GIẢNG
skkn



khác biệt giữa văn miêu tả với các kiểu bài văn khác, đơi khi các em cịn nhầm
sang kể lại những gì mà các em thấy xung quanh mình.
* Nguyên nhân thứ hai:
Khả năng quan sát và lựa chọn hình ảnh để quan sát và miêu tả của các em
chưa tinh tế. Các em chưa biết cách quan sát, chưa biết cách lựa chọn các chi tiết
để quan sát. Đứng trước một đối tượng cần miêu tả, các em chỉ biết liệt kê các chi
tiết mà các em thấy chứ chưa có sự lựa chọn những chi tiết nổi bật để viết.
* Nguyên nhân thứ ba:
Nhìn chung các em chưa có phương pháp làm bài, việc nhận diện từng thể
loại tập làm văn chưa cụ thể. Cấu trúc bài viết của mỗi thể loại các em nắm chưa
vững, còn mập mờ dẫn đến các em làm bài chưa hay.
* Nguyên nhân thứ tư:
Trong q trình tìm hiểu tơi nhận thấy rằng vốn từ ngữ của đại đa số học
sinh còn nghèo so với yêu cầu cần đạt của từng khối lớp mà các em đang theo học.
Chính vì vậy mà các em thiếu hẳn đi một yếu tố quan trọng nhất khi làm Tập làm
văn: đó là dùng từ đặt câu. Kĩ năng lựa chọn từ ngữ, dùng từ đặt câu, viết đoạn, kĩ
năng diễn đạt...còn rất hạn chế. Các em chưa biết cách sắp xếp ý khi viết bài, bố
cục thiếu rõ ràng. Từ đó chúng ta thấy ngay việc học tập các môn học và đặc biệt
là các phân môn trong môn Tiếng Việt chưa được các em chú trọng ( Chứng tỏ
các em đã thiếu hụt trầm trọng về kiến thức của phân mơn chính tả, luyện từ và
câu, tập đọc…)
* Nguyên nhân thứ năm:
Học sinh không có thói quen sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ
thuật so sánh, nhân hoá.... Khả năng giao cảm với đối tượng miêu tả còn hạn chế,
cảm xúc tình cảm khơng tự nhiên cịn gượng ép.
* Ngun nhân thứ sáu:
Trong tiết trả bài, học sinh chưa tự sửa lỗi và sửa lỗi chưa kĩ càng.
* Nguyên nhân thứ bẩy :


YOPOVN.COM – DIỄN ĐÀN TÀI
LIỆU, GIÁO ÁN, BÀI GIẢNG
skkn


Với đối tượng học sinh của trường tôi hầu hết tồn bộ là con em nơng thơn,
việc tiếp xúc với thế giới xung quanh tuy nhiều nhưng việc quan sát và cách quan
sát thực tế về các sự vật, hiện tượng cần miêu tả chưa được chú trọng, nếu có thì
các em cũng chưa biết quan sát. Thực tế qua một số bài viết đã phản ánh rất rõ,
các em quan sát chưa có trọng tâm, có chủ đích mà còn tràn lan, các em chưa biết
chọn nét tiêu biểu, nổi bật để quan sát, miêu tả. Mặt khác do điều kiện kinh tế gia
đình cịn gặp nhiều khó khăn, các điều kiện phục vụ cho công tác học tập của các
em cịn q thiếu thốn vì vậy mà ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của các
em.
2.2. Về giáo viên :
Nhìn chung với vai trị là người giáo viên cũng như do nhu cầu đòi hỏi của
sự phát triển chung của ngành, của xã hội nhiều đồng chí giáo viên đã hết sức lo
lắng, có trách nhiệm, tâm huyết với nghề nghiệp. Họ luôn không ngừng tự học, tự
bồi dưỡng, ln tìm hiểu đổi mới phương pháp và hình thức dạy học để đưa chất
lượng dạy học ngày một được nâng cao. Song bên cạnh đó cũng khơng ít giáo viên
cịn chưa chun tâm với cơng việc, giảng dạy cịn hời hợt vì vậy hiệu quả chưa
cao.
Đặc biệt cịn có một số giáo viên do trình độ chun mơn cũng như nghiệp
vụ sư phạm có hạn nên cũng chưa tìm ra hướng dạy - học thích hợp để nâng cao
hiệu quả dạy học Tập làm văn, cụ thể là phần Tập làm văn miêu tả mà tôi đề cập
trong phần viết này.
Với cách nhìn nhận đó tơi thấy rằng những nguyên nhân tồn tại của hầu hết
các giáo viên khi dạy dạng bài Tập làm văn miêu tả là :
* Nguyên nhân thứ nhất :

+ Quá trình soạn giảng và lên lớp chưa được chú trọng đầu tư thích đáng.
Cách xây dựng thiết kế bài dạy của giáo viên hết sức đơn điệu, khô khan chưa mở
rộng, đào sâu kiến thức, chưa đa dạng trong cách viết đoạn mở bài, thân bài hay
kết luận.

YOPOVN.COM – DIỄN ĐÀN TÀI
LIỆU, GIÁO ÁN, BÀI GIẢNG
skkn


+ Giảng dạy rập khuôn theo hướng dẫn, thiết kế mẫu có sẵn, cho dù những
nội dung chưa phù hợp với đối tượng học sinh và với từng vùng miền.
+ Giáo viên dạy học sinh theo lối học tủ, thuộc từng câu, từng đoạn, một bài
mẫu nào đó với cách học máy móc, học vẹt…
+ Cách nhìn nhận về từng tiết dạy như : viết đoạn mở bài - thân bài - kết
bài , lập dàn ý, làm viết hay tiết trả bài của giáo viên chưa rõ ràng, còn qua loa đại
khái cho xong nhiệm vụ, chứ chưa được đầu tư một cách thực sự, chưa được
nghiên cứu một cách cụ thể chi tiết để cung cấp cho học sinh một cách đúng mực.
* Nguyên nhân thứ hai :
Vẫn biết rằng các môn học khác cũng như các phân mơn như :Tập đọc; Luyện
từ và câu; Chính tả… trong môn Tiếng Việt là cơ sở, là nền tảng cho việc học tốt
cho môn Tập làm văn thế nhưng hầu hết các giáo viên chưa chú ý đến điều này
dẫn đến q trình làm bài của học sinh khơng có vốn từ, cơ sở lý luận trong cách
viết dẫn đến bài viết sáo rỗng, khô khan.
* Nguyên nhân thứ ba :
Tơi nhận thấy q trình dạy học tập làm văn nói chung và phần văn miêu tả
nói riêng thì tiết trả bài cũng hết sức quan trọng, bởi qua tiết trả bài người giáo
viên có thể giúp học sinh hồn chỉnh bài viết của mình một cách tốt nhất. Vì trong
tiết trả bài các em được chữa các lỗi mắc phải như : lỗi chính tả, dùng từ đặt câu,
liên kết câu, đoạn …Được nghe và cảm nhận cách viết qua bài viết tiêu biểu của

các bạn. Tuy vậy giáo viên vẫn chủ quan về tiết trả bài, không chú trọng, chữa bài
qua loa và sơ sài.
2.3. Về phía phụ huynh học sinh :
Nhìn chung phong trào khuyến học đã khơi dậy được phong trào học tập hết
sức lớn rộng trong cộng đồng dân cư. Song bên cạnh đó cón có rất nhiều phụ
huynh nhận thức cịn q kém, mơ hồ trong việc học tập của con em mình. Chính
vì thế mà chưa có sự đầu tư rõ ràng, cụ thể. Nhiều phụ huynh cịn phó mặc con cái
của mình cho nhà trường như hình thức khốn trắng.

YOPOVN.COM – DIỄN ĐÀN TÀI
LIỆU, GIÁO ÁN, BÀI GIẢNG
skkn


CHƯƠNG II
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY – HỌC
TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ Ở LỚP 4 -5
Đứng trước thực trạng và một kết quả đáng lo ngại đó, cũng từ những
nguyên nhân cơ bản đã nêu ở trên, với quan điểm nhất quán tôi theo phương châm
dạy học đúng theo câu nói của cổ nhân xưa “ Trong bụng chưa có ba vạn quyển
sách, trong mắt chưa có núi sơng kì lạ của thiên hạ thì chưa học được văn”, mặt
khác qua q trình dạy tơi đã xây dựng biện pháp nâng cao chất lượng việc dạy học Tập làm văn phần văn miêu tả ở lớp 4 - 5 cụ thể như sau:
I. CÁC BIỆN PHÁP DẠY – HỌC TẬP LÀM VĂN MIÊU TẢ Ở LỚP 4 -5
1. BIỆN PHÁP THỨ NHẤT: Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn

miêu tả.
1.1. Khái niệm: Giáo viên cần giúp học sinh hiểu: Miêu tả là một thể loại văn
bản mà trong đó người viết dùng ngơn ngữ có tính chất nghệ thuật của mình để tái
hiện, sao chụp lại hình ảnh chân dung của đối tượng miêu tả với những đặc điểm
nổi bật cả về hình thức bên ngoài lẫn những phẩm chất bên trong nhằm giúp người

đọc có những hiểu biết và rung cảm, cảm nhận về đối tượng đó như được trực tiếp
tiếp xúc với đối tượng thơng qua các giác quan của mình. Tả là dùng ngôn ngữ để
ghi lại một cảnh, một người, một sự vật, sự việc.....làm cho người đọc như trông
thấy cảnh ấy, người ấy, vật ấy, sự việc ấy được tái hiện lại, nhằm giúp người đọc,
người nghe hình dung những đặc điểm, tính chất nổi bật của một sự vật, sự việc,
con người. Việc miêu tả rất giống với công việc của người hoạ sĩ. Nhưng người
hoạ sĩ dùng đường nét và màu sắc để làm cơng cụ thì người viết văn miêu tả phải
dùng ngôn ngữ để diễn tả.
1.2. Đặc điểm của văn miêu tả: Bài văn miêu tả được xây dựng trên những cơ
sở những hình ảnh, những ấn tượng về đối tượng mà người viết thu lượm, cảm
nhận được thông qua các giác quan trực tiếp của mình. Bài văn miêu tả là thể loại
văn bản mang tính chất nghệ thuật cao, mang tính sáng tạo, tính cá thể của người

YOPOVN.COM – DIỄN ĐÀN TÀI
LIỆU, GIÁO ÁN, BÀI GIẢNG
skkn


viết. Ngôn ngữ trong văn miêu tả là thứ ngôn ngữ nghệ thuật giàu sức gợi tả, gợi
cảm và là thứ ngôn ngữ của những biện pháp tu từ. Tả là mơ phỏng, là tơ vẽ, là so
sánh ví von, nhân hố bằng hình ảnh... chứ khơng phải là kể lể.
+ Với học sinh tiểu học, mỗi bài tập làm văn là sản phẩm của từng cá nhân các
em trước một đề tài. Sản phẩm này ít nhiều mang dấu ấn riêng của từng em trong
cách suy nghĩ, cách tả, cách diễn đạt... Thái độ đúng đắn của giáo viên là tôn trọng
sự độc lập, sự suy nghĩ sáng tạo đó nếu nó khơng biểu lộ những lệch lạc. Nhà văn
Phạm Hổ nói nói “ Cái riêng, cái mới trong văn miêu tả phải gắn với cái chân
thật”. Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản sự sáng tạo của
người viết nhưng như vậy khơng có nghĩa là cho phép người viết “bịa” một cách
tuỳ ý. Để tả đúng, tả hay thì phải tả chân thật, giáo viên cần uốn nắn để học sinh
tránh thái độ giả tạo, giả dối, bệnh công thức sáo rỗng.

2. BIỆN PHÁP THỨ HAI: Làm giàu vốn từ và bổ trợ kiến thức tập làm

văn cho học sinh qua các môn học.
Xây dựng kế hoạch dạy học cụ thể, chi tiết cho các môn học đặc biệt các
phân môn trong môn học Tiếng Việt, tích hợp kiến thức theo mục tiêu yêu cầu cần
đạt của môn học đồng thời theo hướng bổ trợ kiến thức cho phân môn Tập làm
văn đặc biệt là phần Tập làm văn miêu tả. Tập trung cụ thể hố nội dung từng tiết
dạy của các mơn học theo hướng đảm bảo tốt các yêu cầu cần đạt cho học sinh
theo đúng khối lớp mình phụ trách. Trên cơ sở đó tơi xác định rõ những nội dung
nào của mơn học nào góp phần bổ trợ đắc lực cho phân mơn Tập làm văn để có
hướng tích hợp yêu cầu học sinh nắm rõ những nội dung cần thiết đó. Theo ý chủ
quan của tơi thì phân mơn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu góp phần thiết
thực nhất cho học sinh khi vận dụng vào làm văn.
2.1. Phân mơn Tập đọc
Phân mơn Tập đọc có tác dụng lớn trong việc dạy Tập làm văn miêu tả.
Khi đọc và cảm nhận một bài tập đọc hay đặc biệt bài tập đọc lại là một bài văn
miêu tả, các em sẽ biết rung cảm trước vẻ đẹp của ngôn từ được sử dụng trong bài.

YOPOVN.COM – DIỄN ĐÀN TÀI
LIỆU, GIÁO ÁN, BÀI GIẢNG
skkn


Hơn nữa, trong q trình phân tích tìm hiểu bài, các em nắm được nghệ thuật miêu
tả, cách dùng từ đặt câu của tác giả. Để từ đó các em vận dụng vào khi viết văn.
Khi dạy tập đọc là một bài văn miêu tả, tôi thường yêu cầu các em tự chia đoạn
sau đó tìm nội dung chính của từng đoạn để từ đó hướng các em tới cách viết đoạn
của một bài văn cụ thể mà các em chọn. Khi đọc bài, tôi yêu cầu học sinh đọc diễn
cảm để cảm nhận tình cảm mà tác giả gửi gắm trong bài là gì? Từ đó tơi hướng
cho các em: viết hay chưa đủ, viết phải có cảm xúc, có tình cảm gắn với đối tượng

được tả. Nếu bài văn tơ vẽ đẹp nhưng cảm xúc nghèo nàn thì khơng khác gì đứng
trước một cảnh đẹp khơng có hồn. Ngồi ra, trong phần tìm hiểu bài ngồi các câu
hỏi trong sách giáo, tôi thường đặt thêm câu hỏi:
+Bài văn tác giả đã sử dụng nghệ thuật miêu tả nào?
+Nghệ thuật miêu tả ấy có tác dụng gì trong bài văn?
+ Bài văn được miêu tả theo trình tự nào?
+ Em thích tiết nào nhất trong bài văn?
+ Tác giả quan sát sự vật bằng các giác quan nào?
Ví dụ 1: Khi dạy bài tập đọc “Quang cảnh làng mạc ngày mùa’, tôi
hướng dẫn học sinh học tập cách sử dụng từ ngữ miêu tả màu sắc của tác giả
(dùng từ đồng nghĩa); học cách quan sát cảnh vật thiên nhiên bằng tất cả các giác
quan; tả cảnh theo trình tự khơng gian...
Ví dụ 2: Khi dạy bài tập đọc “ Mùa thảo quả”, tôi không chỉ dừng lại ở
việc dạy tập đọc, mà cái cao hơn ở đây là phải hướng học sinh tìm ra được bài văn
trên được viết theo thể loại nào ? Trình tự miêu tả là gì ? Nhận ra được nét đặc
sắc trong cách miêu tả của tác giả ( Ví dụ : Cách dùng từ thơm được lặp lại nhiều
lần của tác giả chẳng hạn… ). Bài văn đã được vận dụng vốn sống thực tế nào của
người viết? Bài viết nhìn nhận sự vật, hiện tượng bằng những giác quan nào? Từ
đó có thể hỏi học sinh “Em đã học được những gì trong cách miêu tả của tác giả ?”
2.2 Phân mơn Kể chuyện
Trong chương trình Tiểu học mới, phân mơn kể chuyện được chia làm 3 dạng bài:

YOPOVN.COM – DIỄN ĐÀN TÀI
LIỆU, GIÁO ÁN, BÀI GIẢNG
skkn


Kể chuyện theo tranh; Kể chuyện đã nghe, đã đọc; Kể chuyện được chứng kiến
hoặc tham gia. Dạng nào cũng yêu cầu học sinh phải diễn đạt trôi chảy ngôn từ mà
các em đã có, đặt biệt là dạng bài Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia. Mục

đích dạy Kể chuyện là rèn kĩ năng nói cho học sinh mà để có được văn bản để nói
thì học sinh phải chuẩn bị, phải viết được ra những điều mình đã thấy, đã chứng
kiến. Việc kể chuyện đòi hỏi học sinh phải diễn đạt gẫy gọn, thành câu, dùng từ
chính xác. Nhất là dạng bài kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia lại địi hỏi
các em phải có sự quan sát, ghi nhớ các sự kiện xảy ra để viết thành bài sau đó kể
lại. Việc làm này rất có ích khi các em vận dụng nó vào việc làm văn của mình.
Kể chuyện cũng như làm văn phải biết lựa chọn chi tiết đặc sắc, chi tiết đắt giá,
lựa chọn câu từ hình ảnh phù hợp; phải biết lựa chọn các biện pháp nghệ thuật so
sánh, nhân hoá đúng lúc, đúng chỗ; phải biết gắn tình cảm của mình vào trong câu
chuyện được kể thì câu chuyện mới hấp dẫn người nghe;
Ví dụ: Khi dạy tiết Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia, tôi
hướng dẫn học sinh: đọc kĩ đề bài, gạch chân các từ ngữ quan trọng ở đề bài, xây
dựng dàn ý, cách dùng từ đặt câu, lựa chọn hình ảnh phù hợp với từng đề bài.
2.3. Phân môn Luyện từ và câu.
Phân môn Luyện từ và câu đóng góp phần khơng nhỏ vào q trình học Tập
làm văn của học sinh. Ở phân mơn này học sinh được cung cấp và làm giàu vốn từ
của mình.Qua các bài học ở sách giáo khoa các em hiểu biết về loại từ, từ loại, về
từ đồng nghĩa, trái nghĩa....Từ đó, rất đơn giản các em hiểu khi nào thì đặt câu với
từ" bát ngát", khi nào thì sử dụng từ " thênh thang" trong viết văn.Trong các bài
học về Luyện từ và câu phần hệ thống hóa và mở rộng vốn từ ở các chủ đề, khi
hiểu nghĩa của các từ ngữ, học sinh cần phải học thuộc và nắm vững các từ thuộc
từng chủ đề để sau này vận dụng các từ ngữ đó vào viết tập làm văn ( đây là dạng
bài cung cấp và làm giàu vốn từ nhất cho học sinh )
Ví dụ 1: Khi dạy bài Mở rộng vốn từ: "Thiên nhiên" sau khi cung cấp vốn
từ cho học sinh, tôi yêu cầu học sinh nhớ và thuộc các từ miêu tả không gian, sông

YOPOVN.COM – DIỄN ĐÀN TÀI
LIỆU, GIÁO ÁN, BÀI GIẢNG
skkn



nước....để các em vận dụng vào viết văn miêu tả cảnh thiên nhiên nơi em ở.
Ví dụ 2: Hay khi dạy bài Luyện từ và câu Liên kết các câu trong bài bằng
cách lặp từ ngữ, thay thế từ ngữ, tôi lưu ý học sinh khi viết đoạn văn cần sử dụng
linh hoạt các cách liên kết câu khi nào dùng cách lặp từ ngữ, khi nào dùng thay
thế từ ngữ để đoạn văn hay hơn. Hay khi làm bài văn miêu tả tránh lặp lại từ thì
dùng các từ ngữ thay thế cho phù hợp.
- Mặt khác dạng bài tập dùng từ đặt câu, viết đoạn theo chủ đề cần được chú
trọng trong từng tiết luyện từ và câu, bởi đây chính là cơ sở để hình thành cách
viết văn cho học sinh sau này.
Ví dụ: Khi dạy bài Luyện tập về từ đồng nghĩa có bài tập: “ Dựa theo ý
một khổ thơ trong bài Sắc màu em yêu, hãy viết một đoạn văn miêu tả màu sắc
đẹp của những sự vật mà em u thích. Trong đó chú ý sử dụng từ đồng nghĩa”. Ở
bài tập này tôi hướng dẫn học sinh cách viết đoạn văn, cách dùng từ đặt câu. Đoạn
văn ở đây có thể là viết về cánh đồng với nhiều màu vàng khác nhau, có thể là
cảnh trời mùa thu với sắc xanh ngắt của trời, xanh tươi của cây cối…Từ đó học
sinh vận dụng cách viết vào tiết Tập làm văn tả cảnh.
- Ngoài ra các dạng bài tập điền từ vào chỗ chấm; tìm từ lạc trong nhóm từ;
sửa từ chưa chính xác trong các câu; sửa lỗi liên kết câu; tìm từ giàu hình ảnh, sinh
động để biểu đạt các sự vật, hiện tượng (đối tượng miêu tả) học sinh cần đề cập tới
trong bài…Các dạng bài tập này tôi thường cho HS làm vào một số tiết học tăng
buổi.
*Lưu ý : Việc làm giàu vốn từ cho học sinh bằng các hoạt động dạy học nói trên
thì giáo viên khơng chỉ yêu cầu sáo rỗng với học sinh là các em cần học thuộc vốn
từ đã học mà cần giúp học sinh biết sử dụng "sổ tay vốn từ", hình thành thói quen
khi gặp “ từ hay ” là ghi ngay vào sổ và thường xuyên đọc sách, báo thiếu nhi,
sách những bài văn chọn lọc dành cho học sinh Tiểu học…Đồng thời có kế hoạch
kiểm tra hàng tháng, biểu dương những học sinh có sổ tay tích lũy được nhiều từ
mới.


YOPOVN.COM – DIỄN ĐÀN TÀI
LIỆU, GIÁO ÁN, BÀI GIẢNG
skkn


Việc hình thành thói quen đọc sách, báo cho học sinh tôi tiến hành vào các
buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ bằng phương pháp thi đua giữa các nhóm, tổ học
tập. Tổ chức vào một số tiết học tăng buổi với các dạng bài tập làm quen và sử
dụng từ để đặt câu.
3. BIỆN PHÁP THỨ BA: Hướng dẫn học sinh phân tích đề

Phân tích đề bài là một việc làm quan trọng khi làm văn miêu tả. Có tìm hiểu đề
bài kĩ, các em mới xác định đúng thể loại văn, xác định đúng yêu cầu của đề bài từ
đó làm bài tốt hơn. Khi phân tích đề bài, tôi thường hỏi các em: " Bài viết theo thể
loại gì? Viết để làm gì? Viết cái gì? Viết cho ai? Thái độ cần được bộc lộ qua bài
viết như thế nào?". Trên thực tế, học sinh rất hay bị lệch khi xác định yêu cầu của
đề. Ví dụ với đề bài: "Một buổi sớm đến trường, em bỗng nghe tiếng ve kêu râm
ran hoặc nhìn thấy những chùm hoa phượng đỏ. Em hãy tả lại cảnh đó và nêu
lên cảm xúc của em khi nhìn thấy mùa hè". Khi gặp đề bài này hầu như các em
khi chưa xác định được yêu cầu của đề đều chỉ tả cây hoa phượng như vậy các em
lạc sang văn tả cây cối mà không hiểu đây là bài văn tả cảnh. Hoặc khi làm đúng
thể loại văn tả cảnh nhưng các em lại không bộc lộ được cảm xúc của mình khi
viết. Vì vậy, hướng dần học sinh phân tích yêu cầu của đề là việc làm đầu tiên khi
các em tìm ý cho bài văn của mình.
Để kích thích học sinh có hứng thú với viết văn và viết có cảm xúc, hình ảnh,
tơi thường chọn những đề Tập làm văn được diễn đạt giàu hình ảnh. Ví dụ các đề
bài sau được diễn đạt giàu hình ảnh và cảm xúc hơn đề bài gốc:
" Hãy viết bài văn tả cảnh đẹp quê hương".
Đề 1:
" Quê hương là đường đi học

Con về rợp bướm vàng bay.
Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng.
Quê hương là con đò nhỏ

YOPOVN.COM – DIỄN ĐÀN TÀI
LIỆU, GIÁO ÁN, BÀI GIẢNG
skkn


Êm đềm khua nước ven sông".
(Quê hương - Đỗ Trung Quân)
Dựa vào những hình ảnh trong đoạn thơ trên, em hãy chọn để tả một trong
các cảnh đẹp sau:
+ Cánh đồng quê vào một buổi chiều hè với những cánh diều biếc lơ lửng trên
nền trời trong xanh.
+ Dịng sơng hiền hồ với những con đị khua nước êm trơi.
+ Con đường rợp bóng hàng cây với những cánh bướm rập rờn theo bước chân
em tới trường.
Đề 2: Tuổi thơ em gắn liền với những cảnh đẹp quê hương. Dòng sông với những
cánh buồm nâu rập rờn trong nắng sớm. Cánh đồng xanh mướt thẳng cánh cò bay.
Cánh đồng lúa chín như một biển vàng nhấp nhơ gợn sóng. Con đường làng thân
thuộc in dấu chân quen. Đêm trăng đẹp với những điệu hò......Em hãy tả lại một
trong những cảnh đẹp đó.
Đề bài:" Cảnh buổi sáng khi mặt trời mới mọc ở đâu cũng đẹp. Đó là khi mặt
trời cịn bẽn lén núp sau sườn núi, những tia nắng dịu dàng đã bắt đầu xuyên thủng
màn sương bao phủ núi đồi. Đó là những buổi hừng đơng với những tia nắng hồng
nhảy nhót trên mặt biển. Đó là tầng tầng lớp lớp bụi hồng ánh sáng đã tràn lan
khắp phố phường....Và gần gũi thân thiết hơn là cảnh buổi sáng bắt đầu ở nơi em
ở. Hãy tả lại buổi sáng trên quê hương em". Diễn đạt giàu cảm xúc và hình ảnh

hơn đề: " Hãy tả một buổi sáng trên quê hương em".
Kinh nghiệm cho thấy, khi tôi lựa chọn những đề Tập làm văn giàu hình ảnh và
giàu cảm xúc như trên, học sinh rất hứng thú và có em cịn lựa chọn đề bài cho
chính phần mở bài của bài văn.
4. BIỆN PHÁP THỨ TƯ: Luyện cho học sinh kĩ năng quan sát, tìm ý của

sự vật, hiện tượng nhằm bồi dưỡng vốn sống thực tế cho các em.
Hiện nay trong trường học, chúng ta dạy Tập làm văn thường thiên về dạy
kĩ thuật làm bài mà không cung cấp các chất liệu sống, tạo nên nội dung viết.

YOPOVN.COM – DIỄN ĐÀN TÀI
LIỆU, GIÁO ÁN, BÀI GIẢNG
skkn


Thường giáo viên ra một đề bài và hướng dẫn kĩ thuật làm bài. Cịn học sinh thì
gắng đọc thật nhiều bài văn mẫu, xào xáo lại, thậm chí có em còn bê nguyên bài
văn của người khác vào bài của mình.. Em nào khéo xào xáo thì được xem là viết
văn khá. Khi thấy một học sinh ngồi trước một đề văn hàng 15 - 20 phút chưa viết
được ta thường cho rằng em đó khơng có nội dung, khơng có gì để nói, khơng có
gì để viết. Ngun nhân của tình trạng học sinh khơng có gì để viết là do học sinh
thiếu hụt vốn sống, vốn cảm xúc. Cũng vì vậy, có rất nhiều bài tập tiếng Việt học
sinh khơng làm được vì thiếu vốn sống, chưa có kĩ năng quan sát thực tế xung
quanh.Chính vì vậy phải đặt vấn đề hướng dẫn học sinh kĩ năng quan sát, tìm ý để
bồi dưỡng vốn sống thực tế cho học sinh.
Khi dạy học về Tập làm văn miêu tả thì chúng ta cần coi trọng việc tổ chức
cho các em quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả. Đây là một công việc thuộc về
nguyên tắc. Tất nhiên chúng ta hướng dẫn học sinh quan sát thực tế nhưng khơng
cản trở trí tưởng tượng phong phú của các em. Nhưng trí tưởng tượng của các em
dù bay bổng đến đâu vẫn phải có cơ sở, bắt nguồn từ thực tế đời sống. Một em học

sinh vùng núi xa xơi chưa từng thấy chiếc cặp bao giờ thì khơng thể tả đúng chiếc
cặp và có cảm xúc với nó; cũng khơng thể tả “cây chuối đang có buồng", “cây
bàng đang thay lá" khi chưa hề thấy chúng lần nào.Các em cũng không thể gây
xúc động cho ai khi phải tả “con lợn nhà em" trong khi nhà chưa nuôi lợn bao giờ.
Chính vì vậy cần tổ chức tốt q trình quan sát, tham quan thực tế cho học sinh.
Chỉ trên cơ sở có sự thu nhận trực tiếp các nhận xét, ấn tượng, cảm xúc của mình
các em mới bắt tay vào làm bài.
Có thể nói đây là một trong những quan điểm quan trọng nhất của phương
pháp dạy - học văn miêu tả. Để thực hiện yêu cầu trên, chúng ta phải bảo đảm dạy
tốt các tiết luyện tập quan sát, bảo đảm ra các đề nói đến các đối tượng miêu tả các
em có khả năng tiếp xúc trực tiếp, giúp các em có điều kiện, cơ hội chuẩn bị quan
sát tốt trước khi làm bài. Đồng thời chúng ta phải chú ý rèn luyện cho các em có
được các kĩ năng quan sát cần thiết. Khi quan sát để miêu tả giáo viên cần lưu ý

YOPOVN.COM – DIỄN ĐÀN TÀI
LIỆU, GIÁO ÁN, BÀI GIẢNG
skkn


các em nên sử dụng các giác quan khác nhau để quan sát như: thị giác, thính giác,
xúc giác, vị giác,khứu giác.
Muốn như vậy, các tiết dạy phải thực sự là các tiết thực hành. Trong các
tiết đó các em phải được tập quan sát thực sự, quan sát nhiều lần và bằng nhiều
giác quan khác nhau.
Ví dụ1 : Với đề bài Tả cây bóng mát trên sân trường em. Ở tiết quan sát
và tìm ý, tơi cho học sinh ra sân trường quan sát cây mình sẽ tả. Muốn học sinh
quan sát tốt, tôi hướng dẫn các em cụ thể: Phải đứng dưới gốc cây, sờ tay vào lớp
vỏ để có cảm giác về độ xù xì của cây ( sử dụng xúc giác); vịng tây ơm lấy thân
cây để thấy độ rộng của thân, ngửa đầu để ước lượng chiều cao của cây, ngắm rễ,
ngắm cành, ngắm hoa... ( sử dụng thị giác); ngửi mùi hăng của vỏ cây, của hương

hoa, của lá ( sử dụng khứu giác); lắng tai nghe tiếng gió thổi xào xạc trong lá cây,
nghe tiếng chim hót ( sử dụng thích giác). Và hơn nữa tôi gợi cho các em nhớ lại
những lúc ngồi dưới gốc cây ôn bài, đọc truyện, chơi đùa....Nhờ sử dụng các giác
quan khi quan sát, nhờ gợi nhớ, liên tưởng...học sinh sẽ có nhiều chi tiết, nhiều ý
hay cho bài văn.
Ví dụ 2: Tả em bé đang tuổi tập nói tập đi. Tơi hướng dẫn học sinh phải
quan sát và ghi chép như thế nào để không nhầm lẫn em bé ở độ tuổi này với em
bé ở độ tuổi khác. Tôi đưa chi tiết : "Khi em cười hở ra hai cái răng sún", “Em bé
chạy sà vào lịng mẹ". Tơi hỏi học sinh ở lứa tuổi tập nói tập đi, em bé đã có răng
sún chưa? Em bé khoảng bao nhiêu tháng tuổi? Em bé đã chạy được chưa? Từ đó
học sinh có hướng quan sát đúng về em bé lứa tuổi tập nói, tập đi.
Để học sinh có thể quan sát tốt, điều cần lưu ý trong khi hướng dẫn các em
tập quan sát là các thầy giáo, cô giáo khéo léo khêu gợi để các em huy động vốn
sống, khả năng tưởng tượng và cảm xúc giúp cho việc quan sát được tốt hơn.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách quan sát. Các em cần phải tìm được
chi tiết trọng tâm, nét nổi bật, phù hợp của sự vật, phải tìm ra được nét riêng của

YOPOVN.COM – DIỄN ĐÀN TÀI
LIỆU, GIÁO ÁN, BÀI GIẢNG
skkn



×