Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Skkn một số biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.7 KB, 15 trang )

skkn


A. PHẦN MỞ ĐẦU
            Đổi mới phương pháp dạy học có thể hiểu đó là tìm con đường ngắn
nhất để đạt chất lượng và hiệu quả cao hơn. Con đường này khơng có sẵn,
khơng bằng phẳng mà đầy chơng gai, khúc khuỷu, gập ghềnh với sự đan xen
giữa cái chung và cái riêng, cái cũ và cái mới. Vì vậy, đổi mới phương pháp dạy
học (PPDH) bao gồm cả hai mặt: Phải đưa vào các PPDH mới đồng thời tích
cực phát huy những ưu điểm của PPDH truyền thống. Lý luận dạy học đã khẳng
định khơng có phương pháp vạn năng, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, yếu tố
kinh nghiệm và sự kế thừa thể hiện khá đậm nét (Thuyết trình, vấn đáp là những
phương pháp rất xưa cũ nhưng hiện tại vẫn được sử dụng trong các tiết dạy với
các mức độ đậm nhạt khác nhau). Đổi mới PPDH là sự kết hợp nhuần nhuyễn,
sáng tạo giữa kinh nghiệm của giáo viên với những yếu tố mới của PPDH hiện
đại. Với cách nhìn từ phương pháp mới, giáo viên có thể thực hiện việc cải tiến
PPDH nói chung và mơn Tiếng Việt lớp 5 nói riêng nhằm gây hứng thú học tập,
tạo niềm tin, niềm vui bằng sự hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng
sử dụng Tiếng Việt: nghe, đọc, nói, viết để học sinh giao tiếp. Thơng qua việc
dạy Tiếng Việt góp phần rèn luyện thao tác tư duy.
            Tiếng Việt là tiếng ghi âm, nghĩa là viết như thế nào thì đọc như thế ấy,
có đọc được thì mới hiểu được nội dung. Vì thế phân mơn Tập đọc có vị  trí đặc
biệt trong chương trình Tiểu học. Nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển
cho học sinh kĩ năng đọc, một kĩ năng quan trọng hàng đầu của học sinh Tiểu
học đồng thời làm cơ sở, nền móng cho mọi sự phát triển.  Đọc trở thành nhiệm
vụ cấp thiết của mỗi người đi học. Biết đọc con người đã nhân khả năng giao
tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây họ biết tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận thức
các mối quan hệ tự nhiên - xã hội.
            Nhờ đọc mà con người bày tỏ ý kiến của mình. Từ đó con người có điều
kiện tự học và hiểu biết các mơn học khác. Như vậy, có thể khẳng định rằng đọc
là cầu nối của mọi tri thức, của mọi môn học. Đọc chính là học, học nữa, học


mãi, đọc để tự học, học cả đời. Bởi vậy dạy cho học sinh biết đọc, đọc đúng và
đọc hiểu và đọc diễn cảm là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng.
            Trong thực tế hiện nay, ở trường Tiểu học việc dạy đọc, bên cạnh những
thành công cũng còn nhiều hạn chế. Học sinh chưa đọc được như mong muốn,
kết quả đọc của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kĩ năng
đọc. Các giờ Tập đọc thì hầu như học sinh chỉ mới biết đọc đúng, đọc trơn, số
lượng học sinh đọc diễn cảm còn rất hữu hạn, giáo viên Tiểu học còn lúng túng
khi dạy Tập đọc đồng thời những phương pháp cụ thể hướng dẫn còn đọc diễn
cảm cho học sinh Tiểu học cũng rất ít được quan tâm.
             Để giúp học sinh đọc đúng, cảm thụ được bài văn đòi hỏi người giáo
viên phải đổi mới phương pháp dạy học và mọi học sinh đều phải tích cực tham
gia vào hoạt động học tập.

skkn


            Do đó, với mong muốn làm thế nào để chất lượng đọc đúng, đọc diễn
cảm của học sinh lớp 5 ngày càng nâng cao, tôi đã chọn đề tài "Một số biện
pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5".
B. PHẦN NỘI DUNG
1. Vị trí của dạy Tập đọc ở trường Tiểu học
1.1 Đọc là gì?
Mơn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động
ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh được thể
hiện trong 4 dạng hoạt động tương ứng với 4 kĩ năng (nghe, đọc, nói, viết), đọc
là một dạng ngơn ngữ được chuyển từ chữ viết sang lời nói có âm thanh và hiểu
nó ứng với hình thức đọc thành tiếng. Cịn q trình chuyển trực tiếp từ hình
thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa khơng có âm thanh ứng với đọc thầm. Đọc
không chỉ là giải một bộ mã gồm hai phần chữ viết và âm thanh nghĩa là nó
khơng chỉ(đánh vần) nên thành tiếng theo đúng như các kí hiệu chữ viết mà cịn

là một q trình nhận thức để có khả năng thơng hiểu những gì được đọc trên
thực tế nhiều khi người ta chỉ nói đến đọc như nói đến sử dụng bộ mã chữ nối
cịn việc chuyển từ âm sang nghĩa đã không được chú ý đúng mức.
1.2 Ý nghĩa của việc đọc diễn cảm:
Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa học, tư tưởng
tình cảm của các thế hệ trước và của những người đương thời, phần lớn đã ghi
lại bằng chữ viết. Nếu khơng biết đọc thì con người khơng thể tiếp thu được nền
văn minh lồi người. Biết đọc con người có khả năng tiếp nhận lên nhiều lần.
Từ đây ta mới tìm hiểu và đánh giá được cuộc sống, nhận thức được các mối
quan hệ tự nhiên, xã hội, tư duy. Biết đọc con người có khả năng chế ngự một
phương tiện văn hoá cơ bản giúp họ giao tiếp được từ thế giới bên trong của
người khác, thơng hiểu tư tưởng tình cảm của người khác. Đặc biệt khi đọc các
tác phẩm văn chương như được bồi dưỡng tâm hồn, khơng biết đọc con người
khơng có điều kiện hưởng thụ sự giáo dục mà xã hội dành cho, họ khơng thể
hình thành một nhân cách tồn diện. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ thơng tin
thì biết đọc ngày càng quan trọng, đọc chính là học, học nữa, học mãi, đọc để tự
học học cả đời.
             Vì những lẽ trên dạy Tập đọc có một ý nghĩa to lớn ở Tiểu học...đầu
tiên phải học đọc sau đó trẻ đọc để học, nó tạo điều kiện để cho học sinh có khả
năng tự học và tinh thần tự học cả đời. Việc dạy đọc giúp cho các em hiểu biết
hơn lòng yêu cái thiện, cái đẹp cũng như biết tư duy hình ảnh. Như vậy, đọc có
ý nghĩa to lớn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển.
2. Những nhiệm vụ của dạy Tập đọc ở Tiểu học:
- Những điều cần nêu trên khẳng định sự cần thiết của sự hình thành và phát
triển một cách có hệ thống và có kế hoạch năng lực đọc cho học sinh, tập đọc

skkn


với tư cách là một phần môn TiếngViệt ở Tiểu học có nhiệm vụ đáp ứng yêu

cầu.
- Tập đọc là một phân môn thực hành năng lực đọc được tạo nên 4 kĩ năng là 4
yêu cầu của chất lượng, đọc đúng đọc có ý thức và đọc diễn cảm chúng được
rèn luyện đồng thời hỗ trợ cho nhau. Sự hồn thiện một trong 4 kĩ năng này sẽ
có tác động tích cực đến kĩ năng khác.
Dạy đọc là giáo dục lòng ham muốn đọc sách làm việc với sách văn bản cho
học sinh. Nói cách khác thơng qua dạy Tập đọc làm cho học sinh thích đọc đó là
con đường đặc biệt tạo cho mình một trí tuệ đầy đủ và phát triển.
3. Cơ sở tâm sinh lí, đặc điểm tâm lí học sinh Tiểu học.
Học sinh Tiểu học - con ngưòi với cấu tạo đầy đủ các bộ phận của một con
người đang phát triển. Trong đó, cơ quan phát âm, ngôn ngữ phát triển mạnh,
phù hợp với sự tiếp nhận và thực hiện dễ dàng các hoạt động mới, theo chức
năng của chúng, chức năng phát âm - Tập đọc.
Khả năng nhận thức, tư duy, tưởng tượng, tình cảm trí nhớ và nhân cách học
sinh đang được hình thành, tiềm tàng khả năng phát triển và đang phát triển.
            Học sinh Tiểu học hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng, hiếu động, tị mị,
thích hoạt động, khám phá, tự lực làm việc theo hứng thú của mình.
Thầy cơ là hình tượng mẫu mực nhất được trẻ tơn sùng nhất, mọi điều trẻ đều
nhất nhất nghe theo, sự phát triển nhân cách của học sinh Tiểu học phụ thuộc
phần lớn vào quá trình dạy học và giáo dục của thầy cô trong nhà trường Tiểu
học.
Dạy Tập đọc cho học sinh Tiểu học bước đầu đem đến sự vận động khoa học
cho não bộ và cơ quan phát âm, ngôn ngữ, đem đến những tinh hoa văn hoá,
văn học nghệ thuật trong tâm hồn trẻ, rèn kĩ năng đọc, hiểu, cảm thụ văn học,
rèn luyện tình cảm đạo đức, ý chí, ý thức, hành động đúng cho trẻ, phát triển
khả năng học tập các môn khác, là điều kiện phát triển toàn diện cho học sinh
Tiểu học. Nhân cách học sinh Tiểu học phát triển đúng đắn hay lệch lạc phụ
thuộc vào quá trình giáo dục của người thầy mà trong đó phương tiện là nghe
nói.
Đọc, viết có được nhờ học Tập đọc. Dạy Tập đọc đặc biệt là dạy đọc diễn cảm

cho học sinh Tiểu học đòi hỏi người thầy phải có phương pháp dạy học phù hợp
với đặc điểm tâm, sinh lí của học sinh Tiểu học, phù hợp với sự phát triển tiến
bộ của khoa học, xã hội, đáp ứng nhu cầu ham hiểu biết của học sinh Tiểu học
và tăng cường giáo dục đạo đức nhân cách cho trẻ.
4. Cơ sở ngôn ngữ và văn học của việc dạy học Tập đọc
Ngôn ngữ học đã chỉ rõ những nội dung cụ thể về các vấn đề của ngơn ngữ chữ
viết, chính âm, chính tả nghĩa của từ, câu, đoạn, văn bản, ngữ điệu, nhịp điệu,

skkn


tình cảm ngơn ngữ. Đó là những vấn đề gắn bó với việc dạy và học Tập đọc của
thầy và trò bậc Tiểu học.
Văn học nghệ thuật, là tinh hoa của ngơn ngữ, là tình cảm đạo đức, lí tưởng tình
u nó có được nhờ cảm xúc của tâm hồn, nó làm cho tâm hồn con người thêm
phong phú và sâu sắc.
Dạy Tập đọc cho học sinh Tiểu học là dạy cho học sinh biết đọc đúng tiếng, từ,
câu, chữ, hiểu nội dung rồi đọc đúng ngữ điệu, nhịp điệu, diễn cảm, cảm nhận
được ý nghĩa tình cảm, có cảm xúc, biết tư duy, tưởng tượng, hình thành ý thức
tốt đẹp trong tâm hồn và có hành động đẹp nghĩa là học sinh biết chuẩn ngôn
ngữ và hiểu biết cảm thụ văn học. Đây là một nghệ thuật, nghệ thuật trong lao
động dạy học sáng tạo của người thầy Tiểu học. Dạy học Tập đọc sẽ càng tinh
tế, càng sáng tạo, càng hiệu quả khi ta nghiên cứu vận dụng tốt những thành tựu
của ngôn ngữ văn học.
5. Cơ sở giáo dục và phát triển:
Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng của nó là hình thành
năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đó có thể hiện ở 4 yêu cầu: Đọc đúng, đọc
nhanh, đọc có ý thức (đọc hiểu) và đọc hay (đọc diễn cảm). Cần phải hiểu kĩ
năng đọc có nhiều mức độ, nhiều tầng bậc khác nhau.
Đầu tiên là giải mã chữ - âm một cách sơ bộ, tiếp theo đọc là phải hiểu được

nghĩa của từ, tìm được các từ, câu "chìa khố" (chốt, trọng yếu) trong bài, biết
tóm tắt nội dung của đoạn. Với những bài văn biết phát hiện ra yếu tố "văn" và
đánh giá được giá trị của chúng trong việc biểu đạt nội dung. Như vậy, biết đọc
đồng nghĩa với kĩ năng làm việc với văn bản, chiếm lĩnh được văn bản ở các
tầng bậc khác nhau.
CHƯƠNG I. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY ĐỌC DIỄN CẢM CHO
HỌC SINH LỚP 5
1- Thực trạng của việc dạy phân môn Tập đọc nói chung:
Phân mơn Tập đọc có một nhiệm vụ rất quan trọng đối với học sinh Tiểu học.
Do đó vấn đề dạy học phân mơn Tập đọc hiện nay rất được chú trọng. Có nhiều
chuyên đề, phương pháp đặt ra nhằm đưa chất lượng đọc của các em  nâng lên.
Nhưng nhìn chung chủ yếu chỉ tập trung đến các lớp đầu cấp để làm sao các em
đọc đúng, đọc trơi chảy là được. Cịn ở các lớp cuối cấp, giáo viên chỉ tập trung
nhận xét cách đọc đúng, đọc trơn chứ chưa có biện pháp cụ thể để dành cho việc
đọc diễn cảm.
2. Thực trạng của việc dạy Tập đọc (đọc diễn cảm) cho học sinh lớp 5 ở
trường Tiểu học tôi công tác
Qua thực tế giảng dạy và nghiên cứu khảo sát chất lượng phân môn Tập đọc của
học sinh lớp 5, bản thân tôi đã nhận thấy: một số học sinh mới chỉ ở mức độ đọc

skkn


đúng, đọc trơn. Có em chẳng cần quan tâm mình có đọc diễn cảm bài thơ, bài
văn đó khơng mà chỉ đọc to, đọc nhanh là được.
Qua tìm hiểu tơi rút ra một số nguyên nhân sau đây:
- Do cách phát âm theo phương ngữ, tiếng dân tộc thường phát âm lệch chuẩn
viết, cụ thể các em thường mắc lỗi sau:
+ Các lỗi về thanh: Các em đọc còn nhầm lẫn giữa thanh ngã và thanh sắc. Ví
dụ: suy nghĩ/ suy nghỉ; nghĩ kĩ/ nghỉ kỉ...

+ Các lỗi về vần: Các em đọc còn nhầm lẫn giữa vần ân/anh; ach/êch. Ví dụ:
chân chất/chanh chếch.
+ Do các em chưa nắm vững cách ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điệu chưa biết nhấn
giọng, lên giọng, hạ giọng những từ cần thiết.
+ Do các em lười đọc sách khơng chịu khó rèn đọc.
Qua điều tra đầu năm học 2020 - 2021 của học sinh lớp 5A
của trường TH số 2 Phong Thủy, kết quả học sinh đọc diễn cảm
đạt như sau:
Tổng số
học sinh

19

Số em đọc chưa Số em đọc đạt Số em đọc
Số em đọc
đạt yêu cầu
trung bình
đúng, rõ ràng diễn cảm tốt
SL

%

SL

%

SL

%


SL

%

5

26,4

5

26,4

6

31,6

3

15,6

Qua việc điều tra trên cho thấy tỉ lệ học sinh đọc chưa đạt yêu cầu và học sinh
đọc trung bình chiếm hơn 50%. Tỉ lệ học sinh đọc diễn cảm còn thấp. Từ lí do
trên tơi quyết định nghiên cứu đề tài "Rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5”.
CHƯƠNG II. CÁC BIỆN PHÁP RÈN ĐỌC DIỄN CẢM CHO HỌC
SINH LỚP 5.
1. Hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng một cách linh hoạt, khéo léo:
Như chúng ta đã biết đọc diễn cảm chỉ thị thực hiện được trên cơ sở học sinh đã
đọc đúng và đọc lưu loát. Đọc đúng khơng thừa, khơng sót tiếng. Đọc đúng phải
thể hiện được hệ thống ngôn ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Bởi vậy
việc rèn cho học sinh luyện đọc đúng là khâu đầu tiên của việc rèn đọc diễn cảm

và đã thực hiện ở các lớp 1, 2, 3. Đối với học sinh lớp 5 thì việc rèn luyện đọc
đúng được rèn luyện như sau:
a) Luyện đọc đúng:

skkn


- Trước khi tiến hành luyện đọc, chia văn bản thành các đoạn đọc (đơn vị tạm
thời, không phải bao giờ cũng đồng nhất với cách chia đoạn theo bố cục của văn
bản) mà giáo viên căn cứ vào trình độ đọc của học sinh trong lớp để chia văn
bản thành các đoạn, sao cho các đoạn không quá dài hoặc quá chênh lệch nhau
về chữ số, cách ngắt đoạn khơng q chi li, gây khó khăn cho học sinh theo dõi
và đọc nối tiếp.
- Dựa vào số đoạn giáo viên chỉ định trước số học sinh tham gia đọc nối tiếp ở
mỗi vịng đọc. Học sinh có thể đứng hoặc ngồi tại chỗ với tâm thế sẵn sàng đọc
nối tiếp.
- Để củng cố kĩ năng đọc trơn đã được rèn ở các lớp dưới, giáo viên nên hướng
dẫn học sinh đọc nối tiếp qua 3 vòng:
+ Vòng 1: Qua những học sinh đọc nối tiếp, giáo viên nghe và phát hiện những
hạn chế về cách ngắt âm, ngắt nghỉ, ngữ điệu câu, từ đó có biện pháp hướng dẫn
đối với cá nhân hoặc nhắc nhở chung đối với cả lớp để học sinh đạt yêu cầu đọc
đúng và đọc rành mạch.
+ Vòng 2: Học sinh đọc nối tiếp kết hợp nắm nghĩa của từ được chú giải trong
SGK, nó có tác dụng góp phần nâng cao kĩ năng đọc hiểu (việc tìm hiểu nghĩa
từ có thể xen kẽ trong quá trình đọc nối tiếp hoặc sau khi đọc hết bài). Nếu học
sinh đọc sai giáo viên vẫn tiếp tục hướng dẫn, sửa chữa.
+ Vòng 3: Học sinh đọc nối tiếp để giáo viên đánh giá sự tiến bộ, tiếp tục hướng
dẫn hoặc nhắc nhở. Việc luyện đọc từng đoạn nối tiếp tạo điều kiện cho nhiều
học sinh được thực hành đọc. Qua thực hành mà học sinh được giáo viên hướng
dẫn, uốn nắn hay động viên, khích lệ để đạt được vững chắc kĩ năng đọc, chuẩn

bị luyện tập kĩ năng mới: Đọc diễn cảm.
b) Luyện đọc hay (đọc diễn cảm)
- Đối với loại hình văn bản nghệ thuật: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc diễn
cảm thông qua việc dẫn dắt, gợi mở giúp học sinh hiểu biết thể hiện tình cảm,
thái độ thơng qua giọng đọc phù hợp với sự việc, hình ảnh cảm xúc, tính cách
nhân vật trong bài...(Bước đầu biết làm chủ được giọng đọc về ngữ điệu, về tốc
độ, trường độ và âm sắc, diễn tả đúng nội dung). Tuy nhiên học sinh đọc diễn
cảm như thế nào còn phụ thuộc vào sự cảm nhận riêng của từng em, giáo viên
không nên áp đặt học sinh một cách theo khuôn mẫu.
- Đối với loại hình văn bản phi nghệ thuật: Giáo viên hướng dẫn học sinh xác
định ngữ điệu đọc sao cho phù hợp với mục đích thơng báo (làm rõ những
thơng tin cơ bản, giúp người nghe tiếp nhận được những vấn đề quan trọng hay
nổi bật trong văn bản) khắc phục những cách đọc thiên về hình thức "diễn cảm"
của học sinh Tiểu học.
c) Các hình thức luyện đọc:

skkn


Để hướng dẫn học sinh luyện đọc thành tiếng, giáo viên có thể tổ chức cho học
sinh hoạt động theo các hình thức sau:
- Đọc các nhân (đọc riêng lẻ hoặc nối tiếp từng đoạn, đọc trước lớp hoặc đọc
theo cặp, theo nhóm).
- Đọc đồng thanh (theo nhóm hoặc tổ, lớp) khi cần: Ví dụ: Đọc đồng thanh để
khắc sâu ấn tượng về nhịp điệu của đoạn văn, bài thơ; giúp học sinh dễ dàng ghi
nhớ đoạn, bài cần thuộc lịng, thay đổi hoạt động, tạo khơng khí hào hứng cho
lớp học.
- Đọc theo phân vai (nhiều học sinh hợp tác đọc theo lời nhân vật mình đóng
vai, tham gia các trò chơi luyện đọc).
2. Khai thác giọng đọc của học sinh thơng qua việc tìm hiểu nội dung bài:

- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài nhằm trao đổi kĩ năng đọc - hiểu, góp phần
nâng cao năng lực cảm thụ văn học và tạo cơ sở cho luyện đọc diễn cảm. Nắm
được nội dung chính của bài sẽ giúp các em xác định giọng đọc chung của đoạn,
của bài. Ví dụ: Bài đọc với giọng nhẹ nhàng, tha thiết, vui tươi, mạnh mẽ...
- Giáo viên nêu câu hỏi để định hướng cho học sinh đọc thầm (đoạn, bài) và trả
lời đúng nội dung. Có thể kết hợp cho học sinh đọc thành tiếng, những học sinh
khác đọc thầm thảo luận vấn đề do giáo viên đưa ra. Ví dụ: Giáo viên yêu cầu
học sinh đọc thầm khổ thơ 3 trong bài thơ "Tiếng vọng" (TV5 – Tr.108) để trả
lời câu hỏi: Những hình ảnh nào đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí tác giả?
- Tuỳ theo trình độ học sinh trong lớp, giáo viên có thể đưa ra nguyên văn câu
hỏi, bài tập trong SGK hoặc chia câu hỏi thành các ý nhỏ để học sinh dễ thực
hiện hoặc bổ sung câu hỏi phụ có tác dụng dẫn dắt học sinh trả lời câu hỏi.
Ví dụ: Câu hỏi 1 trong bài "Chuỗi ngọc lam" (TV5 – Tr.134) nên tách thành 3 ý
nhỏ để học sinh dễ trả lời.
+ Cô bé mua chuỗi ngọc lam để tặng ai?
+ Em có đủ tiền mua chuỗi ngọc đó khơng?
+ Chi tiết nào cho biết điều đó?
- Bằng nhiều hình thức khác nhau (làm việc cá nhân, theo cặp hoặc theo
nhóm..), giáo viên tạo điều kiện cho học sinh luyện tập một cách tích cực. Trong
q trình tìm hiểu bài, giáo viên cần rèn luyện cho học sinh cách trả lời câu hỏi,
trao đổi ý kiến.
Muốn đọc diễn cảm một văn bản, phải lựa chọn được giọng điệu, ngữ điệu phù
hợp với tình huống miêu tả, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc điểm của nhân
vật hay tình cảm, thái độ của tác giả đối với nhân vật và nội dung, ý nghĩa bài
đọc. Giáo viên yêu cầu học sinh đọc thật tốt một đoạn văn nhằm "thăm dò" khả
năng thể hiện sự cảm nhận nội dung bằng giọng đọc của học sinh. Qua kết quả

skkn



đọc của học sinh, giáo viên dẫn dắt, gợi ý để học sinh phát huy những ưu điểm,
khắc phục những hạn chế và tìm ra cách đọc hợp lí. Ví dụ: Đoạn vừa rồi đọc với
giọng như thế nào? Để nêu đặc điểm của nhân vật, em cần chú ý nhấn giọng ở
những từ ngữ nào?
Hoặc: Qua nội dung bài, em hãy xác định giọng đọc chung của toàn bài?
Học sinh thảo luận và trả lời - sau đó giáo viên rút ra kết luận chung.
3. Giáo viên đọc mẫu diễn cảm.
Đọc mẫu diễn cảm là sử dụng ngữ điệu để phơ diễn cảm xúc của bài đọc. Phải
hồ nhập tâm hồn với nội dung bài đọc, với văn cảnh thì mới có cảm xúc, mới
tìm thấy ngữ điệu  phù hợp.
Đọc mẫu đòi hỏi giáo viên phải đọc đúng, rõ ràng, ngữ điệu đọc phù hợp. Đó là
việc thể hiện giọng đọc, ngắt giọng biểu cảm, thể hiện tốc độ, cường độ, cao độ
để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả gửi gắm trong bài đọc, đồng
thời thể hiện sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm.
- Giáo viên đọc mẫu nhằm minh hoạ, gợi ý hoặc "tạo tình huống" cho học sinh
nhận xét, giải thích, tự tìm ra cách đọc. Ví dụ: Nghe và phát hiện cách đọc của
cô; ngừng nghỉ, ngắt nhịp ở chỗ nào, nhấn giọng hay cao giọng, kéo dài giọng ở
từ ngữ nào?...Mỗi cá nhân có cảm thụ riêng, từ đó có cách đọc diễn cảm bộc lộ
sự sáng tạo của mình.
Muốn học sinh đọc hay, đọc đúng, đọc diễn cảm thì trước hết ngưịi giáo viên
phải đọc tốt để thâm nhập, lây truyền tới học sinh nhằm gây hứng thú cho học
sinh trong tiết học. Để đọc tốt thì người giáo viên ln coi trọng việc đọc mẫu
để từ đó thường xuyên rèn luyện giọng đọc của mình, có ý thức tự điều chỉnh
mình đọc đúng hơn và phải có lịng ham muốn đọc hay.
4. Luyện tập thực hành đọc diễn cảm văn bản.
Tạo điều kiện cho từng học sinh được thực hàn luyện đọc diễn cảm (theo nhóm,
theo cặp) để rút kinh nghiệm.
- Luyện đọc diễn cảm các câu tiêu biểu trong bài: Cách luyện đọc này tạo điều
kiện cho tất cả các học sinh đều được đọc. Theo các bước sau:
+ Giáo viên đưa ra câu cần luyện đọc đã ghi ở bảng phụ.

+ Học sinh tìm hiểu nghĩa của câu văn đó.
+ Học sinh xác định giọng đọc của câu văn.
+ Học sinh đọc mẫu (giáo viên đọc mẫu)
Học sinh thảo luận, nhận xét về giọng đọc của cơ, của bạn mà mình u thích.
+ Học sinh luyện đọc theo nhóm, tổ, cá nhân.

skkn


- Luyện đọc diễn cảm đoạn văn hoặc khổ thơ.
Giáo viên cho học sinh nhắc lại cách thể hiện giọng đọc, cách ngắt giọng, nhấn
giọng ở những từ ngữ biểu cảm trong đoạn hoặc khổ thơ đó rồi cho học sinh
luyện đọc theo trình tự sau:
+ Giáo viên đọc mẫu- học sinh thảo luận, nhận xét về giọng đọc.
+ Học sinh luyện đọc theo cặp.
+ Tổ chức cho học sinh thi đọc diễn cảm trước lớp để các em học tập lẫn nhau
và được giáo viên động viên hay uốn nắn.
- Học sinh luyện đọc diễn cảm cả bài.
+ Giáo viên tiến hành các bước như trên.
+ Học sinh đọc cá nhân, giáo viên nhận xét đánh giá.
* Đối với những văn bản có từ hai nhân vạt trở lên, tổ chức cho học sinh thể
hiện giọng đọc theo nhân vật của văn bản hoặc cho học sinh đọc phân vai. Rèn
cho các em biết thay đổi giọng đọc khi nhập vai các nhân vật trong bài đọc.
- Cụ thể các em phải đọc phân biệt được lời của tác giả và lời của nhân vật;
phân biệt được lời của nhân vật khác. Giáo viên hướng dẫn như sau:
- Cho học sinh đọc bài và tìm trong bài có mấy nhân vật.
- Giáo viên giúp học sinh chỉ ra tính cách của từng nhân vật và xác định giọng
đọc phù hợp với từng nhân vật.
- Giáo viên thực hiện đọc mẫu lời các nhân vật bằng gịong đọc của mình (hoặc
có thể học sinh có năng lực đọc tốt thể hiện).

- Học sinh luyện tập nhiều lần theo hướng dẫn của giáo viên.
5. Xây dựng khơng khí hào hứng, say mê học tập cho học sinh bằng cách tổ
chức trò chơi học tập trong giờ học.
Để kích thích hứng thú luyện đọc của học sinh, giáo viên có thể tổ chức các trị
chơi học tập cho học sinh. Thơng qua các trị chơi kích thích hứng thú đọc; rèn
tư duy linh hoạt; luyện tác phong nhanh nhẹn, tháo vát, tự tin; giáo dục tư tưởng
tình cảm tốt đẹp. Trị chơi học tập thường được tổ chức khi luyện đọc hoặc đọc
diễn cảm (HTL). Tuỳ thời gian và điều kiện cho phép, giáo viên lựa chọn trị
chơi học tập thích hợp để tổ chức cho học sinh tham gia. Ví dụ: Thi đọc nối tiếp
từng đoạn (theo nhóm, tổ), đọc "truyền điện" thi tìm nhanh- đọc đúng; nhìn một
từ đọc cả câu (hoặc nhìn một câu đọc cả đoạn), nghe đọc đoạn - đoán tên bài; thi
đọc truyện theo vai, thả thơ....
Dưới đây tơi xin giới thiệu một số trị chơi luyện đọc như sau:
a) Thi đọc tiếp sức:

skkn


* Chuẩn bị: 1 đồng hồ, SGK, giáo viên dự kiến số nhóm tham gia chơi.
* Tiến hành:
- Giáo viên yêu cầu, hướng dẫn cách chơi.
- Giáo viên quy định các nhóm có số lượng học sinh bằng nhau.
- Từng nhóm lên bảng đứng thành hàng ngang mỗi em cầm một cuốn sách giáo
khoa, đã mở sẵn trong đó có bài văn sẽ thi đọc.
+ Giáo viên hô lệnh: "Bắt đầu, em số 1 (đầu hàng bên phải hoặc bên trái) đọc
câu thứ nhất của bài, dứt tiếng cuối cùng câu thứ nhất, em số 2 (cạnh số 1) mới
được đọc tiếp câu số 2.. Cứ như vậy cho đến em cuối cùng của nhóm. Nếu chưa
hết bài, câu tiếp theo lại đến lượt em số 1, em số 2 đọc... cho đến hết bài văn thì
dừng lại - Giáo viên tính và ghi bảng thời gian đọc của mỗi nhóm.
- Học sinh sẽ bị trừ điểm nếu đọc sai, lẫn hay thừa thiếu tiếng trong câu hoặc

đọc câu sau khi người trước chưa đọc sau, đọc vượt quá một câu theo quy định.
- Giáo viên cho từng nhóm thi đọc, tính thời gian của mỗi nhóm cho điểm nhóm
"đọc tiếp sức" mỗi câu văn đọc đúng cho 1 điểm, không cho điểm các trường
hợp vi phạm.
Giáo viên cùng cả lớp nhận xét, chọn và tuyên dương nhóm đọc tiếp sức hay
nhất.
* Lưu ý: ở tiết tập đọc 1 bài thơ, giáo viên nên cho học sinh đọc 2 dòng hoặc 1
câu lục bát, nếu là tiết Tập đọc - Học thuộc lòng, giáo viên cho thi tiếp sức theo
cách trên nhưng học sinh khơng nhìn sách giáo khoa.
b) Thả thơ:
* Chuẩn bị: Giáo viên viết vào phiếu câu thơ đầu (hoặc giữa) ở mỗi khổ thơ
hoặc 1 - 2 từ đầu của mỗi câu thơ. Ví dụ bài: Hạt gạo làng ta. Giáo viên làm các
phiếu như sau:
                        Phiếu 1: Hạt gạo làng ta ………. ngọt bùi đắng cay
                        Phiếu 2: Hạt gạo làng ta ……….. mẹ em xuống cấy
                        Phiếu 3: Hạt gạo làng ta ………. thơm hào giao thông
                        Phiếu 4: Hạt gạo làng ta ………... quang trành quết đất.
* Tiến hành: Giáo viên hướng dẫn cách chơi và nêu yêu cầu.
- Mỗi lượt chơi gồm 2 nhóm và số người bằng số phiếu mỗi nhóm cử nhóm
trưởng, 2 nhóm trưởng bốc thăm để giành quyền "thả thơ" trước.
- Mỗi em trong nhóm cầm một tờ phiếu (giữ kín). Giáo viên hơ "bắt đầu" nhóm
được thả thơ trước cử 1 người thả thơ ra một tờ phiếu cho 1 bạn nhóm kia. Bạn

skkn


nhận được tờ phiếu phải đọc thuộc cả khổ thơ, hoặc cả câu thơ lục bát có câu, từ
ghi trên phiếu. Nếu đọc đúng được tính 1 điểm.
- Giáo viên tính số điểm của nhóm đọc thuộc thơ, đổi nhóm chơi tương tự trên,
giáo viên tính điểm nhóm thứ hai.

- Kết thúc trị chơi giáo viên tun dương nhóm đọc tốt, điểm cao.
c) Đọc thơ "truyền điện"
* Chuẩn bị: thời điểm chơi cuối tiết Tập đọc - HTL hoặc tiết ôn tập HTL. Học
sinh 2 nhóm ngồi quay mặt vào nhau.
* Tiến hành:
- Giáo viên nêu tên bài thơ sẽ đọc truyền điện, nêu cách chơi.
- 2 nhóm bắt thăm (hoặc oản tù tì) để giành quyền đọc trước.
+ Đại diện nhóm đọc trước là "A" đọc khổ thơ đầu tiên của bài thơ rồi chỉ định
thật nhanh "truyền điện" 1 bạn bất kì (B). Bạn được chỉ định đọc tiếp khổ thơ
thứ hai của bài. Nếu đọc thuộc được thì chỉ định của 1 bạn nhóm (S) đọc tiếp
khổ thơ thứ 3...Cứ như vậy cho đến hết bài.
Ví dụ: Bài Sắc màu em yêu
Học sinh A1: Em yêu màu đỏ …… khăn quàng đội viên
Học sinh B1: Em yêu màu vàng ….. nắng trời rực rỡ
Học sinh A2: Em yêu màu trắng ….. mái tóc của bà
Học sinh B2: Em yêu màu đen ……… màn đêm yên tĩnh
Học sinh A3 : Em yêu màu xanh ……. bầu trời cao vợi
Học sinh B3: Em yêu màu tím ……. nét mực chữ em …..
Tiếp tục như vậy cho hết bài. Trường hợp học sinh được "truyền điện" chưa
thuộc, các bạn nhóm đối diện sẽ hô từ 1 đến 5, nếu không đọc được phải đứng
yên tại chỗ bị "điện giật", lúc đó học sinh A1 chỉ tiếp học sinh B2...
Nhóm nào có nhiều người phải đứng bị "điện giật" là nhóm thua cuộc.
Như vậy, ta thấy tổ chức trò chơi học tập luôn luôn làm cho học sinh hào hứng
say mê tích cực trong học tập, làm cho học sinh ham mê học hơn.

C: KẾT LUẬN
I. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:

       Tuy thời gian không dài, với cách tổ chức dạy học theo các biện pháp nêu
trên, hiệu quả giờ dạy được nâng lên rõ rệt. Học sinh hứng thú học tập, hoạt


skkn


động tích cực hơn, và các em mạnh dạn tự tin hơn khi đọc bài. Số em đọc chưa
đạt yêu cầu đã giảm đi. Số em đọc đúng, đọc diễn cảm được nâng lên rõ rệt.
- Điểm kiểm tra giữa học kì II mơn Tiếng Việt của lớp tơi
đạt chất lượng khá cao với kết quả như sau:
* 17/19 HS đạt Khá Giỏi .Tỉ lệ 89,5 %; 2/19 HS đạt Trung bình .Tỉ
lệ 10,5 %; Khơng có học sinh Yếu.
Kết quả:
Tổng số
học sinh

19

Số em đọc chưa Số em đọc đạt Số em đọc
Số em đọc
đạt yêu cầu
trung bình
đúng, rõ ràng diễn cảm tốt
SL

%

SL

%

SL


%

SL

%

/

/

2

10,5

9

47,4

8

42,1

    Như vậy với một thời gian ngắn nhưng tôi nhận thấy những biện pháp mà tôi
đưa ra đã thu được những kết quả thật khả quan. Thiết nghĩ nếu giáo viên áp
dụng các biện pháp này một cách thường xuyên ở lớp thì chắc chắn chất lượng
đọc diễn cảm của các em được nâng lên.
II. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT:
Trên thực tế thực nghiệm dạy học ở trường Tiểu học tơi cơng tác, tơi có một số
đề xuất sau:

- Tạo điều kiện cho giáo viên được giao lưu học tập, tập huấn về đổi mới
phương pháp dạy học, bố trí nhiều tiết dạy mẫu ... để giáo viên vận dụng một
cách linh hoạt trong việc giảng dạy với từng đối tượng học sinh.
- Các cấp quản lý giáo dục cần tạo cơ hội và động viên kịp thời khi giáo viên
thực hiện đổi mới phương pháp dạy học dù là nhỏ nhất.
Xin chân thành cảm ơn!
 
 
 
 
 
 

skkn


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

skkn


 

skkn



×