Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Skkn một số biện pháp rèn luyện tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ luyện nói môn ngữ văn 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.64 KB, 18 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
 

1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp rèn luyện tính tích cực, chủ động của
học sinh trong giờ luyện nói mơn Ngữ văn 8
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Ngữ văn 8
3. Thời gian áp dụng sáng kiến:
Từ ngày 15 tháng 9 năm 2017 đến  ngày 30 tháng  5 năm 2018
4. Tác giả:
- Họ và tên: Trần Thị Nhung
- Năm sinh: 1992
- Nơi thường trú: TT Cát Thành – huyện Trực Ninh - Tỉnh Nam Định
- Trình độ chun mơn: Cao đẳng sư phạm Văn – Địa
- Chức vụ công tác: Giáo viên
- Nơi làm việc: Trường THCS Xuân Thượng - Huyện Xuân Trường - Tỉnh Nam Định
- Địa chỉ liên hệ: Trường THCS Xuân Thượng - Huyện Xuân Trường - Tỉnh Nam
Định
- Điện thoại: 0912946222
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
- Tên đơn vị: Trường THCS Xuân Thượng - Huyện Xuân Trường - Tỉnh Nam Định
- Địa chỉ: Xã Xuân Thượng - Huyện Xuân Trường - Tỉnh Nam Định
- Điện thoại:
 
 
 

I. Điều kiện hồn cảnh tạo ra sáng kiến:
         W.Warrd từng nói : “ Người thầy trung bình chỉ biết nói, người thầy giỏi biết
giải thích, người thầy xuất chúng biết minh họa, người thầy vĩ đại biết cách truyền
cảm hứng..”. Khơi gợi được cảm hứng cho học sinh chính là mục đích của việc dạy
học chân chính đặc biệt là với mơn Ngữ văn. Bởi dạy văn là cả một quá trình rèn


luyện  tồn diện và người thầy đóng vai trị là một đạo diễn hướng dẫn  cho học sinh
“diễn tả cái gì mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ chính
xác, làm nỗi bật điều mình muốn nói” (Phạm Văn Đồng). Và đương nhiên để làm
được điều đó người thầy phải khơng ngừng đổi mới sang tạo trong phương pháp giảng
dạy để rèn luyện cho học sinh khơng chỉ biết nghe, biết đọc, biết viết mà cịn biết nói –

skkn


một kĩ năng rất quan trọng trong giao tiếp hàng ngày, là yếu tố có tính quyết định lớn
trên con đường lập nghiệp của các em trong tương lai.
Trong dạy và học, nếu người thầy đóng vai trị chủ đạo hướng dẫn học sinh chủ
động khám phá chiếm lĩnh tác phẩm văn chương, thì người học (học sinh) phải tự
mình bộc lộ sự hiểu biết, phải biết phát triển tư duy thành lời- ngôn bản. Muốn cho
người nghe hiểu được thì người nói phải nói cho tốt, có nghĩa là phải mạch lạc, logic,
phải đảm bảo các quy tắc hội thoại, phải chú ý đến nét mặt, cử chỉ, âm lượng…
Nhận thức rõ được điều đó, bản thân những người thầy như chúng tơi ln ln
coi giờ “Luyện nói” là một tiết học vô cùng quan trọng đối với học sinh THCS góp
phần nâng cao hiệu quả việc dạy học môn Ngữ văn . Qua tiết luyện tập, giáo viên
luyện cho học sinh biết vận dụng từ ngữ và các quy tắc ngữ pháp cơ bản đã học để nói
đúng, viết đúng, biết diễn đạt ý tưởng chính xác, rõ ràng, trong sáng. Hơn nữa giáo
viên còn rèn luyện cho học sinh các mặt cụ thể :lời nói (phải rõ nghĩa, rõ ý), giọng nói
(phải vừa nghe, vừa cố gắng truyền cảm) và tư thế nói ((phải mạnh dạn, tự tin giúp
cho lời nói có sức thuyết phục hơn)..Rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh là một việc
khó, nhưng dù khó thế nào, yêu cầu kĩ năng nói cũng phải luôn luôn được coi trọng.
Từ lớp 6,7 học sinh đã được tiếp cận, làm quen với  các tiết luyện nói như
luyện nói kể chuyện, luyện nói miêu tả, biểu cảm…, qua mỗi giờ luyện nói các em
được rèn các kĩ năng dùng từ, đặt câu, cách thể hiện cảm xúc…Song về cơ bản chưa
được rèn luyện nhiều nên còn nhiều em lúng túng rụt rè khi nói trước đám đơng dẫn
đến lặp từ, nói khơng lưu lốt khiến các em ngại học các giờ luyện nói, coi đó là tiết

học của các bạn trưởng nhóm. Vì vậy, việc khơi gợi hứng thú cho học sinh trong các
giờ luyện nói là vơ cùng cần thiết địi hỏi người thầy ngồi kinh nghiệm, kiến thức cần
mạnh dạn trong việc đổi mới phương pháp dạy học.
II. Mô tả giải pháp:
Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
         a. Thuận lợi
            Đúng như đặc thù riêng của bộ môn, nhiều văn bản trong mơn Ngữ văn khơi
gợi được tình cảm, cảm  xúc trong tâm hồn học sinh, giúp các em không chỉ hiểu mà
cịn cảm được thơng điệp cuộc sống truyền tải qua mỗi tác phẩm. Do đó, bên cạnh một
bộ phận học sinh ngại học văn, cịn có rất nhiều em đặc biệt say mê với bộ mơn này,
đó là động lực để mỗi người thầy thắp lên ngọn lửa nhiệt huyết trong sự nghiệp trồng
người. 
            Tiết luyện nói là giờ học thực hành, khác các tiết lý thuyết tập làm văn khô
khan nên học sinh cảm thấy thoải mái hơn, chủ động hứng thú hơn, việc tiếp thu kiến
thức cũng nhẹ nhàng hơn với các em.
        b. Khó khăn
          * Về phía giáo viên:
1.

         - Khơi dậy hứng thú mơn Ngữ văn đối với học sinh đã khó mà phân mơn Tập
làm văn lại càng khó khăn hơn nhiều. Thực tế là phần lớn  các bài  luyện nói đều
rất dài, thời lượng  mỗi tiết học chỉ có 45 phút, nếu giáo viên khơng phân
lượng thời gian cho hợp lý thì sẽ quên đi yêu cầu của việc " luyện nói".

skkn


Từ đó dẫn đến tình trạng giáo viên chỉ tập trung vào những em khá giỏi,
chăm chỉ rồi nhận xét là hết giờ khiến những học sinh yếu trở nên thụ
động, ít tập trung chú ý, coi như đó khơng phải là việc của mình, do đó

hiệu quả giờ luyện tập bị hạn chế đi nhiều.
         - Qua giảng dạy cho thấy nhiều giáo viên đã chưa coi trọng giờ học này. Một
mặt có thể  một số giáo viên cho rằng thi viết chứ có bao giờ thi nói văn đâu, hoặc một
số  giáo viên còn chưa hiểu hết tầm quan trọng của giờ luyện nói. Do đó giờ luyện nói
thường bị bỏ qua hoặc thay vào đó là một giờ đọc bài viết văn mà học sinh đã chuẩn
bị sẵn ở nhà.
             * Về phía học sinh
- Dù đã được rèn luyện từ lớp 6 song nhiều học sinh lớp 8 vẫn rất
ngây ngơ, rụt rè ngại nói. Hơn nữa, đề tài, vấn đề đặt ra trong giờ là do
thầy đặt ra chứ không phải những vấn thường ngày của cuộc sống nên kể
cả những học sinh, ngoài đời vốn ăn nói rất hoạt bát nhưng đứng trước
tập thể, trong các tiết “Luyện nói” vẫn cịn lúng túng, vụng về, thiếu
mạch lạc nên tâm lý chung của các em là rất ngại học giờ luyện nói.
          - Khi trình bày thì tác phong chưa mạnh dạn tự tin, khơng dựa
vào đề cương để nói mà thường là đọc.
          - Học sinh nói nhỏ q, cả lớp khơng nghe được.
Sau đây là bảng số liệu thống kê chất lượng học sinh khối 8 trường THCS Xuân
Thượng trong giờ luyện nói năm học 2016 - 2017:
Tỉ lệ học sinh
giỏi

Tỉ lệ học sinh
khá

Tỉ lệ học sinh
trung bình

Tỉ lệ học sinh
yếu


Tỉ lệ học sinh
kém

12.1%

33,3%

39,4%

12,1%

3,1%

         Bởi vậy, vấn đề đặt ra cho những người thầy như chúng tôi là làm
thế nào để vừa đảm bảo nội dung kiến thức vừa cuốn hút được học sinh
tham gia trong giờ luyện nói? Qua q trình nghiên cứu và ứng dụng
thực tế tại trường THCS Xuân Thượng, tơi   xin mạnh dạn trình bày  Một
số biện pháp rèn luyện tính tích cực, chủ động của học sinh trong giờ
luyện nói mơn Ngữ văn 8.
 
 

2.Mơ tả giải pháp sau khi có sáng kiến: (trọng tâm)
        Trong mục tiêu dạy học mơn Ngữ văn THCS, về kỹ năng, Chương trình môn
Ngữ văn nhấn mạnh trọng tâm của việc rèn luyện kỹ năng Ngữ văn cho học sinh là
làm cho học sinh có kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt khá thành thạo theo các
kiểu văn bản và có kỹ năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bước đầu có năng
lực cảm nhận và bình giá văn học. Chính vì thế, SGK Ngữ văn THCS đã chú trọng
hơn tới việc hình thành và phát triển kỹ năng nói . Đây là một trong những điểm mới


skkn


về quan điểm dạy học của môn học. Cụ thể là bố trí một số giờ luyện nói để học sinh
có cơ hội được luyện tập, ngồi các tiết luyện nói ở lớp 6,7 là cơ bản, chương trình
SGK Ngữ văn 8 cũng bố trí 2 tiết luyện nói để các em được trải nghiệm nhiều hơn.
* Lớp 8 :
       Tiết 45 – Bài 10 : Luyện nói : Kể chuyện theo ngơi kể kết hợp với miêu tả và biểu
cảm.
       Tiết 53 – Bài 14 : Luyện nói : Thuyết minh một thứ đồ dùng.
     
      Với quan điểm dạy học theo phương pháp mới hiện nay đã nhấn mạnh: “ Thầy

chủ đạo, trò chủ động”, “ Học sinh là chủ thể sáng tạo”. Để phát huy tính chủ động,
tích cực của học sinh trong giờ luyện nói thì giáo viên phải làm tốt vai trị của người
nhạc trưởng. Cụ thể, cần làm tốt những việc sau:
XÁC ĐỊNH NGUYÊN TẮC, MỤC TIÊU CỦA TIẾT LUYỆN NÓI.
1. Nguyên tắc chung  :
 Phát huy tối đa tính tích cực của chủ thể học sinh.
 Phát huy thế mạnh của hoạt động nhóm/tổ.
 Ưu tiên hàng đầu cho việc luyện kỹ năng nói nhưng khơng tách rời với các kỹ năng
khác trong bộ tứ NGHE-NÓI-ĐỌC-VIẾT.
 Chú trọng quan tâm cả ba đối tượng học sinh (giỏi, khá – trung bình – yếu, kém ).
 Tạo được khơng khí tự nhiên, thoải mái, nhẹ nhàng và lựa chọn nội dung hấp dẫn
để lơi cuốn các em vào hoạt động luyện nói.
 Thể hiện thái độ khích lệ, động viên, nâng đỡ để tránh cho em cảm giác tự ti, xấu
hổ.
 Đầu tư thật kỹ cho khâu chuẩn bị ở nhà của HS.
    2- Xác định mục tiêu của tiết luyện nói :
1.


       Ngoài mục tiêu chung nêu ra trong sách giáo khoa, giáo viên cần phải cụ thể hóa
mục tiêu chung sao cho phù hợp với đối tượng học sinh. Bởi HS ở mỗi lớp, trường,
vùng, miền lại có những đặc điểm riêng biệt.
       Khơng có loại sách vở nào hay bất cứ ai khác có thể làm thay cho GV đứng lớp
trong việc vạch ra mục tiêu cụ thể. Chỉ có sự nhạy cảm, năng lực sư phạm, tinh thần
trách nhiệm và tình yêu trẻ mới giúp  chúng ta cụ thể hóa mục tiêu chung một cách
sáng tạo, sát hợp .
XÁC ĐỊNH VAI TRÒ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
1. Học sinh :
Trong tiết luyện nói, người hoạt động chủ yếu là học sinh. HS phải là những
chủ nhân thực sự, chiếm lĩnh hầu hết các hoạt động trong tiết học. Các em tựa như
những diễn viên hoàn toàn làm chủ sân khấu với những hình thức phong phú, đa
dạng : độc thoại, đối thoại, diễn trị, đóng vai...

2.

Giáo viên :
- Đối với tiết luyện nói, giáo viên nên tránh hai khuynh hướng sau :
2.

skkn


+ Cho rằng giờ luyện nói là của học sinh, dành cho học sinh thực hành là
chính; từ đó giáo viên khơng làm gì cả, khốn trắng, phó mặc cho học sinh muốn nói
thế nào cũng được; tất cả đổ cho năng lực của học sinh; dẫn đến tiết học đơn điệu,
buồn tẻ, mất tác dụng.
+ Quá lo sợ rằng học sinh khơng nói được, khơng trình bày được vấn đề trước
tập thể nên làm thay, nói hộ hết cho học sinh; hoặc tiến hành tiết dạy một cách qua

loa, chiếu lệ cho xong.
- Trong tiết luyện nói, giáp viên chỉ đóng vai trị là đạo diễn hướng dẫn chỉ đạo học
sinh,  trao quyền ưu tiên cho học sinh hoạt động với thời lượng tối đa có thể được;
thậm chí hầu như giáo viên khơng làm gì cả. Nhưng ở đây, khơng làm gì cả khơng có
nghĩa là khốn trắng, phó mặc học sinh kiểu như đã nói ở trên; mà giáo viên vẫn là
người bao quát, chỉ đạo linh hoạt để đảm bảo cho hoạt động của học sinh đúng hướng
và đạt hiệu quả cao.
 - Dạy tiết luyện nói phải kết hợp lí thuyết và thực hành, coi trọng thực hành về nói.
Muốn cho học sinh nói được nhiều, giáo viên phải chuẩn bị từ khi ra đề, hướng dẫn
học sinh chuẩn bị ở nhà. Dạy luyện nói phải gây hứng thú học tập của học sinh, phát
huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Giờ luyện nói là giờ thể hiện cá tính,
là giờ học sinh được làm chủ mình hơn cả, giáo viên đừng gị bó các em, đừng vội
vàng phê phán các biểu hiện chưa tốt của các em, mỗi giáo viên cần phải có “ nghệ
thuật khen ngợi”, và phải tạo những điều kiện cần và đủ để khuyến khích các em nói,
phát huy tính chủ động sang tạo của bản thân.
- Dạy luyện nói phải kết hợp việc rèn luyện kĩ năng với việc giáo dục tư tưởng, tình
cảm, tư duy cho học sinh, giáo dục lịng yêu mến tự hào về tiếng Việt, tự hào về dân
tộc ta. Dạy luyện nói khơng chỉ dạy lời nói, dáng điệu nói….mà phải dạy chiều sâu
của tâm hồn, tư tưởng của học sinh mà cụ thể hơn là dạy nếp sống có văn hóa, nói
năng tốt, chống lại nói năng xấu đang có nguy cơ lan tràn trong học sinh hiện nay như
nói tục, nói trống khơng, nói tiếng lóng,..
III. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài trước ở nhà:
- Muốn một giờ luyện nói đạt kết quả tốt, ngồi việc hướng dẫn học sinh đi đúng yêu
cầu của một giờ luyện tập trên lớp thì việc cho các em chuẩn bị bài ở nhà cũng rất
quan trọng. Muốn các em chuẩn bị bài tốt, có chất lượng thì sự chuẩn bị, hướng dẫn
của giáo viên cũng phải chu đáo. Giáo viên nên gợi ý học sinh nên chọn đề nào cho
phù hợp, để có hiệu quả cao. Khi đã chọn được đề phù hợp rồi, giáo viên phải phân
việc cụ thể cho từng đối tượng học sinh (có thể phân theo dãy bàn, theo tổ, theo nhóm)
để học sinh chuẩn bị kĩ lưỡng, tránh đối phó qua loa, đại khái.

Ví dụ: Trong tiết luyện nói về văn thuyết minh ở lớp 8 có đề bài: Thuyết minh về chiếc
bút bi
Với đề bài này ta thấy có ba ý chính:
             + Đặc điểm cấu tạo
            + Công dụng của chiếc bút bi

skkn


            + Cách bảo quản bút
Giáo viên phải phân cho học sinh như sau:
            + Nhóm 1 chuẩn bị phần đặc điểm cấu tạo
            + Nhóm 2 chuẩn bị phần cơng dụng của bút bi
            + Nhóm 3 chuẩn bị phần cách bảo quản bút.
- Tới lớp, trước khi tiến hành tiết luyện nói, lớp phó học tập kiểm tra việc soạn bài của
cá nhân của nhóm, sau đó báo cáo cho giáo viên. Giáo viên nên kiểm tra lại khoảng từ
năm đến mười em.
2. Hướng dẫn học sinh nắm vững yêu cầu tiết học
       " Luyện nói" tức là học sinh phải được nói, đồng thời giáo
viên hướng cho học sinh đi đúng u cầu: Nói chứ khơng phải là đọc. Đã
nói thì phải vận dụng đúng ngơn ngữ nói thể hiện rõ nhất là ngữ điệu
trong sử dụng lời văn. Ngồi ra, các em cịn biết thể hiện qua cử chỉ, nét
mặt sắc thái tình cảm, thái độ khi trình bày.
3. Tổ chức các hình thức hoạt động để nhiều học sinh có cơ hội được nói
       - Làm thế nào để cả lớp đều tham gia luyện nói theo đúng nghĩa của nó? Đó là
yêu cầu quan trọng của tiết dạy. Thường thì những giờ luyện nói như thế này giáo
viên khơng khéo léo điều khiển thì một số em lơ là, không tham gia luyện tập . Do đó,
giáo viên cần linh hoạt, khéo léo trong việc lựa chọn các hình thức hoạt động trong
giờ luyện nói. 
         Có rất nhiều hình thức hoạt động tích cực như:

+ Hái hoa tìm ý:  Hình thức này đặc biệt phù hợp đối với lớp dạy có nhiều HS yếu
kém, chưa thành thạo kĩ năng tạo lập kiểu văn bản đang học, chưa quen nói trước tập
thể; lại ít có ( hay khơng có ) nhân tố tích cực ( HS khá, giỏi, lanh lợi, hoạt bát) làm
nịng cốt.
 +Trị chơi thơng thái: Hình thức này dành cho đối tượng HS nhút nhát, tuy có khả
năng viết bài nhưng chưa mạnh dạn, tự tin nói trước tập thể. Khi mục tiêu cụ thể của
tiết dạy không đặt năng kỹ năng làm bài (tạo lập văn bản ) mà cần luyện kỹ năng ứng
đáp mau lẹ, nói năng rõ ràng, mạch lạc cho HS thì hình thức Trị chơi thơng thái sẽ
phát huy tác dụng.
+Dàn hợp xướng:  Đây là một hình thức có thể giúp cho các đối tượng HS cùng bổ trợ
cho nhau trong quá trình thực hành kỹ năng nói về một vấn đề nào đó.
            Tạo cho HS khả năng làm việc tập thể, biết phối hợp nhịp nhàng, ăn ý, biết

đoàn kết, hợp tác để hoàn thành nhiệm vụ.
             Hoạt động diễn ra chủ yếu dựa trên cơ sở đơn vị nhóm. Nhóm trưởng giữ vai
trò đặc biệt quan trọng ( tựa như người nhạc trưởng một dàn nhạc) trong việc điều
hành nhóm.
* Lưu ý :

skkn


Hình thức Dàn hợp xướng có tác dụng rất tốt nhưng khó thực hiện vì nếu chuẩn
bị khơng kỹ hoặc Nhạc trưởng kém năng lực thì chương trình của nhóm dễ bị rời rạc,
thậm chí thất bại. Do đó, khâu chuẩn bị phải được đầu tư chu đáo.
          Nếu HS đã chuẩn bị kỹ nhưng khi thực hành vẫn gặp khó khăn thì GV nên nhẹ
nhàng gỡ bí và dẫn dắt, giúp các em hồn thành chương trình của nhóm.
          Mặt khác cũng khơng nên yêu cầu quá cao , nhất là khi thực hiện hình thức này
lần đầu.
+Thi nói hay ( Thi hùng biện, thi kể chuyện,…)

          Hoạt động thực hành này vẫn dựa trên cơ sở gợi ý của SGV. Nghĩa là HS luyện
nói ở tổ, nhóm; sau đó nói trước lớp trên cơ sở đã chuẩn bị dàn ý và tập nói ở nhà.
           Nhưng có thể thay đổi ở chỗ là cơ cấu việc luyện nói ấy thành một cuộc thi để
tạo khơng khí sơi nổi,  lơi cuốn HS.
           Nên tổ chức hình thức Thi nói hay  đối với những lớp khá, HS mạnh dạn, hoạt
bát. Mục tiêu cụ thể của tiết dạy khi dùng hình thức này là luyện cho HS khả năng nói
đúng, nói hay, nói truyền cảm trước tập thể về một vấn đề.
+ Đóng vai nhập cuộc: Hình thức hoạt động này chủ yếu dựa trên cơ cở của dàn hợp
xướng nhưng có yêu cầu cao hơn và hiệu quả mang lại vơ cùng lớn . HS cần có khả
năng sáng tạo, dàn dựng “kịch bản” và tham gia “diễn xuất” .
 GV cần định hướng cho HS khâu dựng “kịch bản” và  đóng vai trị “đạo diễn”
cho sự “diễn xuất” của các em.
Nếu tổ chức tốt thì đây là hình thức rất hấp dẫn, lơi cuốn HS.
Tuy nhiên, hình thức này khó thực hiện với học sinh lớp 6, 7 mà chủ yếu phù
hợp với học sinh lớp 8,9 .
Ví dụ: Khi dạy bài Luyện nói thuyết minh về một thứ đồ dùng ( Ngữ văn 8) giáo viên
chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm chuẩn bị trước một đề ( kịch bản, phân vai, nội
dung…):
          Nhóm 1 - ĐỀ 1 : Thuyết minh về kính đeo mắt

            Nhóm 2 - ĐỀ 2 : Thuyết minh về cây bút bi.
            Nhóm 3 - ĐỀ 3 : Giới thiệu đơi dép lốp trong kháng chiến .
            Nhóm 4 - ĐỀ 4 : Giới thiệu về chiếc áo dài Việt Nam.
Đến giờ thực hành trên lớp giáo viên lần lượt mời các nhóm trình bày theo hoạt
động đóng vai nhập cuộc.
           Với hình thức đóng vai này, học sinh rất hào hứng tham gia. Dù lần đầu được
trải nghiệm nhưng các em rất sáng tạo trong cách dàn dựng chương trình, khéo léo
trong phân vai, linh hoạt trong ngơn ngữ sử dụng…giờ luyện nói rất sơi nổi.

skkn



           -Riêng đối với những học sinh chưa được nói vì thời gian khơng đủ thì giáo
viên phải chủ động lơi kéo các em tham gia vào bài nói của bạn bằng cách cho các em
tự nhận xét, đánh giá, thử cho điểm bạn.
Ví dụ: Khi dạy bài Luyện nói : Kể chuyện theo ngôi kể kết hợp với miêu tả và biểu
cảm, sau mỗi phần trình bày của học sinh giáo viên gọi một số học sinh ở dưới nhận
xét:
          + Bạn trình bày nội dung đã được chưa? (Đã đủ chưa, có chỗ nào lệch lạc? Theo
em, em sẽ trình bày như thế nào?)
            + Hình thức trình bày của bạn đã đúng yêu cầu của bài nói chưa ? (Bạn đọc
hay nói?)
            + Cử chỉ, thái độ, giọng điệu của bạn trình bày đã phù hợp chưa? (Cử chỉ, thái
độ, giọng điệu biểu hiện như thế nào?)
          + Với phần trình bày như vậy nếu chấm điểm em sẽ cho bạn  mấy điểm?
Có làm như vậy các em mới thực sự chú ý đến việc trình bày của bạn và
suy nghĩ để  đánh giá ưu nhược điểm của bạn mà rút ra bài học cho bản
thân.
4. Rèn luyện nội dung, hình thức và tác phong nói.
+ Rèn luyện nội dung nói:
-Học sinh nói phải có nội dung, nói có suy nghĩ, điều chỉnh kịp thời nội dung để đáp
ứng yêu cầu người nghe
-Nói theo nội dung đã chuẩn bị.
-Nói tập trung vào vấn đề, chọn dẫn chứng tiêu biểu
-Điều chỉnh nội dung nói:nhấn lại điều người nghe chưa hiểu, lướt những điều người
nghe đã rõ.
-Kết hợp đúng mực nội dung và ngữ điệu, không để cho ngữ điệu lấn át nội dung.
            + Rèn luyện hình thức và tác phong nói:
-Nắm vững đề tài cần nói, huy động nhanh vốn từ đúng, từ hay, đặt câu đúng và hay,
cách dựng đoạn.

-Bài nói phải rõ ràng, mạch lạc, phát âm chuẩn, tránh dùng từ ngữ địa phương
-Vận dụng nét mặt, cử chỉ, dáng điệu phù hợp với nội dung nói
-Có thái độ khiêm tốn, chân tình với người nghe, quán xuyến theo dõi thái độ người
nghe.
5. Hỗ trợ tâm lý cho học sinh
-  Tạo cho các em có nhu cầu muốn nói, muốn được bộc lộ.
           Ngay từ đầu năm học, khi tiếp xúc với các em lần đầu tiên, giáo viên cần thiết
lập tốt mối quan hệ, giúp học sinh thấy được sự gần gũi, thân tình nơi giáo viên điều

skkn


này là cơ sở giúp học sinh dễ dàng bộc lộ với giáo viên hơn trong những giờ học sau.
Giáo viên có thể làm quen với các em bằng cách giới thiệu về mình cũng là cơ sở để
các em theo đó mà tự giới thiệu bản thân về những điều đơn giản như họ, tên, tuổi, sở
thích,…Từ đó hình thành cho các em tâm lý tự tin, mạnh dạn khi nói bất cứ vấn đề gì
trước tập thể.


Phát huy kĩ năng nói trong các giờ học, kết hợp với việc rèn luyện các kĩ năng

 khác:
           Trong các tiết học, giáo viên nên chú trọng kĩ năng nói cho học sinh thơng qua
những lần phát biểu đóng góp xây dựng bài. Đặt những câu hỏi kích thích tư duy và
sự phản xạ của học sinh. Câu hỏi nên đi từ đơn giản đến phức tạp để tập cho các em
biết suy nghĩ trước khi nói, nói đúng vấn đề cần trao đổi, khi nói cần bình tĩnh, tự
tin,..Giáo viên cần khuyến khích, động viên học sinh phát biểu suy nghĩ trong khi phát
biểu và cả trong khi thảo luận, ngay cả khi ý kiến đó là sai hoặc chưa hồn tồn chính
xác. Bên cạnh đánh giá việc trình bày của học sinh, giáo viên cũng nên lưu ý cho học
sinh những lỗi cần tránh trong nói tiếng Việt về chính âm, chính tả và hướng dẫn các

em nói diễn cảm, ngắn gọn, súc tích, hấp dẫn cho người nghe. Do đó giáo viên phải
giúp học sinh chuẩn bị tốt nội dung bài nói, bao gồm các vấn đề:
            +Nói cái gì? (Xác định đề tài)
            +Nói với ai? (Xác định giao tiếp)
            +Nói trong hồn cảnh nào? (Xác định hồn cảnh giao tiếp)
            +Nói như thế nào? (Cách thức giao tiếp để thuyết phục người nghe)
            Có lời chào khi bắt đầu nói, giới thiệu đề tài sắp nói, tránh đọc lại hoặc thuộc
lòng để đọc lại bài văn chi tiết đã chuẩn bị.
            Giọng nói rõ ràng, cao độ vừa phải, đúng chuẩn ngữ âm, truyền cảm và thuyết
phục người nghe (thể hiện cảm xúc chân thành, tự nhiên, khơng gị bó, áp đặt). Tác
phong tự nhiên, phản xạ ngơn ngữ nhanh nhạy, mắt nhìn thẳng mọi người.Khơng nói
ra ngồi những gì mà đề bài u cầu. Có lời chào khi kết thúc bài nói.


 Tạo cho học sinh hồn cảnh giao tiếp thuận lợi trong giờ luyện nói:

Trước mỗi giờ luyện nói, giáo viên cần cho học sinh chuẩn bị đề tài trước
khoảng hai tuần hoặc một tuần. Có thể giao cho các em cùng một đề tài hay chia lớp
từ 3 đến 4 nhóm, mỗi nhóm một đề tài (nếu tiết học có đề tài nhiều)
            Vào giờ học, giáo viên cần cho thời gian để các em có thể chuẩn bị tư thế
trước khi lên nói. Có thể là cá nhân tự chuẩn bị, có thể là cho nhóm thảo luận để chọn
đại diện lên nói, nên hướng cho học sinh có thái độ cùng nhau hợp tác, thời gian thảo
luận là năm phút.
            Trọng tâm của những giờ học này là luyện nói, giáo viên nên dành nhiều thời
gian cho học sinh lên nói (30 phút) và số lượng học sinh lên trình bày phải từ 8 đến 10
học sinh, số cịn lại sẽ được nói ở những tiết sau. Tuyệt đối tránh tình trạng chỉ em khá
giỏi mới được nói, cịn các em yếu kém chỉ ngồi khơng “ dự giờ” bởi nó sẽ khiến các
em kém thêm chán nản, ngại học giờ luyện nói.

skkn



             Khơng khí của giờ luyện nói nên tạo được sự hào hứng cho lớp học, cho từng
em học sinh, làm cho các em phấn khởi, mong muốn được lên trình bày bài nói của
mình. Để kích thích học sinh sau khi các em nói xong, giáo viên nên đánh giá khen
ngợi, khuyến khích bằng cách cho điểm, tặng những tràng pháo tay động viên khiến
các em thêm tự tin, tích cực, chủ động khi học.
6. Tích hợp với hoạt động ngoại khóa để khơi gợi hứng thú khi luyện nói.
               Ngồi các tiết luyện nói trên lớp, giáo viên cần cho các em rèn giũa luyện tập
nhiều để rèn sự tự tin, chủ động, hứng thú khi giao tiếp trong các hoạt động tập thể
của trường lớp vào các ngày lễ lớn như 20/11, 22/12, 30/4….:
- Tổ chức ngâm thơ, kể chuyện, dựng kịch vừa giúp các em có kĩ năng cảm thụ thơ
văn, kĩ năng kể chuyện theo vai đặc biệt là kĩ năng tự tin trước đám đông.
- Tổ chức thi đọc diễn cảm, đọc sách báo,nghe chung nhằm rèn ngữ điệu
và cách phát âm chuẩn cho học sinh.
- Tổ chức cho học sinh nói chuyện trước lớp, trước tổ, trước trường. Có
thể cho các em kể chuyện vui, chuyện cười hoặc các tác phẩm văn học.
- Tổ chức và hướng dẫn cho các em nghe và học cách nói, cách đọc qua  
băng đĩa hoặc trên truyền hình.

                
                  Tục ngữ có câu “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. Khơng ngẫu nhiên mà
“học nói” được xếp vào vị trí thứ hai của câu nói. Điều đó nhấn mạnh một lần nữa vai
trị quan trọng của tiết luyện nói trong mơn Ngữ văn 8 nói riêng cũng như trong
chương trình Ngữ Văn THCS nói chung sẽ góp phần đào tạo nên những thế hệ học
sinh năng động, tích cực, sáng tạo khơng chỉ biết suy nghĩ, sáng tạo ý tưởng mà cịn
phải biết nói ra mạch lạc những điều mình nghĩ , biết truyền đạt chính xác thơng tin,
biết thuyết phục hiệu quả … để năng động nắm bắt mọi cơ hội thành công cho bản
thân, cho đất nước.
                 Trên cơ sở nghiên cứu đề tài, tơi đã mạnh dạn áp dụng vào q trình giảng

dạy  môn Ngữ văn 8 trường THCS Xuân Thượng năm học 2017 -2018 :
 

NGỮ VĂN 8                       CHỦ ĐỀ: VĂN THUYẾT MINH
TIẾT 53: LUYỆN NÓI THUYẾT MINH VỀ MỘT THỨ ĐỒ DÙNG
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
    1. Kiến thức 

         - Cách tìm hiểu , quan sát và nắm được đặc điểm cấu tạo , công dụng … của
những vật dụng gần gũi với bản thân .
         - Cách xây dựng trình tự  các nội dung cần  trình bày bằng ngơn ngữ nói về một
thứ đồ dùng trước lớp .
    2. Kĩ năng 

skkn


        -  Tạo lập văn bản thuyết minh .
        -  Sử dụng ngơn ngữ  dạng nói trình bày chủ động  một thứ đồ dùng trước tập thể
lớp .
    3. Thái độ : Có thái độ nghiêm túc khi luyện nói .

    4. Năng lực HS : Giải quyết vấn đề, tự học, sáng tạo, giao tiếp, sử dụng ngôn ngữ.
B. CHUẨN BỊ
       - GV : Soạn giáo án, phân công nhiệm vụ cho học sinh theo 3 nhóm, gợi ý hình
thức hoạt động cho HS : DÀN HỢP XƯỚNG, ĐÓNG VAI NHẬP CUỘC
       - HS : + Cả lớp soạn bài : Lập dàn ý theo sự gợi ý của giáo viên

                 Nội dung chuẩn bị :   Thuyết minh về cái phích nước (bình thủy ) .
+ Nhóm : Nhóm trưởng lên chương trình, phân cơng nhiệm vụ cho các thành

viên, chuẩn bị đồ vật minh họa.
C.  PHƯƠNG PHÁP: Vấn đáp, thuyết trình, đàm thoại, đóng vai
D.  TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
HOẠT ĐỘNG 1: KHỞI ĐỘNG, TẠO TÌNH HUỐNG XUẤT PHÁT 
Giáo viên kiểm tra bài cũ ôn lại kiến thức cơ bản từ đó dẫn sang bài mới
       Câu hỏi 1: Để làm bài văn thuyết minh ta cần phải làm gì? Phương pháp thuyết
minh phải như thế nào?(3đ)
         - Để làm bài văn TM ta cần tìm hiểu kĩ đối tượng TM.
         - Xác định phạm vi tri thức về đối tượng.
         - Sử dụng phương pháp TM phù hợp, ngôn ngữ chính xác , dễ hiểu .
    Câu hỏi 2: Bố cục của bài văn thuyết minh gồm mấy phần? Nội dung từng phần?
(5đ)
         - Bài văn TM gồm 3 phần:
           + Mở bài: Giời thiệu được đối tượng thuyết minh.
           + Thân bài : Trình bày chính xác, dễ hiểu những tri thức khách quan về đối
tượng như cấu tạo, đặc điểm, lợi ích…bằng các phương pháp TM phù hợp.
           + Kết bài : Bày tỏ thái độ đối với đối tượng.
HOẠT ĐỘNG 2 : HÌNH THÀNH KIẾN THỨC
       HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS

        NỘI DUNG BÀI DẠY
I. Chuẩn bị

-GV kiểm tra việc chuẩn bị bài của học sinh theo sự
phân công từ tiết trước

skkn

  Đề : Thuyết minh về cái phích



Yêu cầu học sinh đọc lại đề bài.

nước (bình thủy ) .

? Xác định yêu cầu đề bài ?
? Để làm được đề bài này em sẽ vận dụng những kiến
thức nào ?

1. Yêu cầu : Nêu được cơng dụng,
cấu tạo, ngun lí giữ nhiệt và cách
bảo quản.
 2. Quan sát và tìm hiểu.

-GV gọi 1-2 học sinh trình bày dàn ý chuẩn bị

       - Quan sát thực tế.

-GV nhận xét chung : Dàn bài hs chuẩn bị đạt những
gì , chưa đạt những gì ?

       - Đọc tài liệu : SGK, từ điển.
 3. Lập dàn ý :

-GV treo bảng phụ dàn ý mẫu để học sinh đối chiếu
a. Mở bài : Định nghĩa về cái phích
nước : một cơng cụ đựng nước có thể
giữ nhiệt độ lâu.
 b. Thân bài :
 - Cấu tạo :

     + Chất liệu vỏ : sắt , nhựa …
     + Màu sắt : trắng , xanh , đỏ …
     + Ruột : Hai lớp thủy tinh có lớp
chân khơng ở giữa, phía trong lớp
thủy tinh có tráng bạc …
     + Nút phích : thường bằng bấc
hoặc bằng nhựa.
     + Nắp phích , tay cầm thường làm
bằng nhơm hoặc bằng nhựa.
- Vai trị ,cơng dụng của phích nước
trong gia đình : giữ nhiệt, dùng cho
sinh họat và đời sống .
- Sử dụng : phích nước mới mua về
không nên đổ nước sôi vào ngay. Ta
nên chế nước ấm,rồi sau đó mới chế
nước nóng vào.
   - Bảo quản :
     + Ta khơng nên rót đầy nước, hãy
để một khoảng cách giữa nước sơi và
nút phích .

skkn


    + Phải để chỗ an toàn, tránh va
đập.
    + Cách rữa ruột phích khi bị đóng
can-xi ở đáy phích: cho một ít giấm
ăn vào  và xúc sạch, sau đó tráng
bằng nước sạch.

  c. Kết bài : Khẳng định sự tiện lợi
của phích nước.

HOẠT ĐỘNG 3 : THỰC HÀNH
? Một em nhắc lại yêu cầu tiết luyện nói ?
-GV điều khiển các nhóm thực hiện hoạt động luyện
nói

II. Luyện  nói trên lớp

Các nhóm lên trình bày bài nói của
mình.

NHĨM 1 : Trưng vật mẫu : cái phích lên trước lớp cho
Nhóm 1
cả lớp cùng quan sát ( sử dụng hình thức dàn hợp
xướng, các thành viên trong nhóm xen kẽ nhau lên trình
bày)
+ HS 1 trình bày :


Chào hỏi, giới thiệu



Trình bày phần mở bài



Trình bày phần đặc điểm cấu tạo của phích

(miệng nói đến bộ phận nào tay chỉ vào từng
bộ phận y)

Vớ d:Phích có cấu tạo rất đơn giản: vỏ phích
có thể làm bằng nhựa, sắtvới đủ các màu:
xanh, đỏ, trắng; ruột phích đợc làm bằng thủy
tinh chia làm 2 lớp, ở giữa là lớp chân không.Phía
trong lớp thủy tinh có tráng bạc nhằm hắt nhiệt trở
lại để giữ nhiệt, đây là bộ phận quan trọng nhất
của phích, lớp chân không làm mất khả năng
truyền nhiệt ra ngoài. Miệng phích nhỏ làm
giảm khả năng thoát nhiệt nên có thể giữ nớc nãng
tõ 100->70 ®é C trong 6 tiÕng.
+ HS 2 trình bày vai trị, cơng dụng và cách sử dụng
phích
+ HS 3 trình bày cách bảo quản, kết bài và chào cảm
ơn. :
Ví dụ : [RIGHT]Trích từ:
www.VanMau.Com[/RIGHTBình mới mua về, sau khi

skkn


rửa sạch, để ráo nước mới châm nước nóng vào, khi
châm lần [RIGHT]Trích từ:
www.VanMau.Com[/RIGHTđầu hay với một bình đã
lâu khơng sử dụng phải châm từ từ, tốt nhất là chỉ châm
một ít, [RIGHT]Trích từ:
www.VanMau.Com[/RIGHT]đậy nắp lại, vài phút sau
mới châm tiếp.

[RIGHT]Trích từ:
www.VanMau.Com[/RIGHTSáng sáng, đổ hết nước cũ
ra, tráng qua cho sạch hết cặn cịn đọng lại trong lịng
phích rồi [RIGHT]Trích từ:
www.VanMau.Com[/RIGHTmới rót nước sơi vào, đậy
nắp thật chặt. Hay ta có thể đổ vào trong phích một ít
giấm [RIGHT]Trích từ:
www.VanMau.Com[/RIGHT]nóng, đậy chặt nắp lại,
lắc nhẹ rồi để khoảng 30 phút, sau đó dùng nước lạnh
rửa sạch thì [RIGHT]Trích từ:
Nhóm 2
www.VanMau.Com[/RIGHTchất cáu bẩn sẽ được tẩy
hết.
 [RIGHT]Trích từ:
www.VanMau.Com[/RIGHT Sau thời gian sử dụng, vỏ
kim loại bị mục, giảm khả năng bảo vệ bình thì cần
thay vỏ mới [RIGHT]Trích từ:
www.VanMau.Com[/RIGHT]để an tồn cho người sử
dụng.[RIGHT]Trích từ: www.VanMau.Com[/RIGHT]
NHĨM 2 : Sử dụng vật mẫu của nhóm 1, trình bày
theo hình thức đóng vai nhập cuộc
  5 thành viên cùng thực hiện chương trình :

MUA SẮM  ĐỒ GIA DỤNG
(3 học sinh đóng vai người tiêu dùng đi mua phích tại
cửa hàng đồ gia dụng , 2 học sinh đóng vai người bán
hàng giới thiệu về chiếc phích nước).
Ví dụ
+ Người bán hàng 1: Phích nước là một đồ vật thơng
dụng dùng để đựng nước nóng. Phích có nhiều loại và

nhiều kích cỡ khác nhau. Loại nhỏ chứa được khoảng
nửa lít, loại lớn chứa được hai lít hoặc hai lít rưỡi.
Phích có thể giữ nước ở nhiệt độ từ 80o đến 90o trong
khoảng một ngày…
+ Người bán hàng 2: [RIGHT]Trích từ:

skkn


www.VanMau.Com[/RIGHTNên để phích xa tầm tay
trẻ nhỏ để tránh gây nguy hiểm.
[RIGHT]Trích từ:
www.VanMau.Com[/RIGHTMuốn phích giữ được
nước sơi lâu hơn, ta khơng nên rót đầy, chừa một
khoảng trống giữa [RIGHT]Trích từ:
www.VanMau.Com[/RIGHTnước sơi và nút phích để
cách nhiệt vì hệ số truyện nhiệt của nước lớn hơn
khơng khí gần 4 [RIGHT]Trích từ:
www.VanMau.Com[/RIGHT]lần. Cho nên nếu rót đầy
nước sơi, nhiệt dễ truyền ra vỏ phích nước nhờ mơi giới
của nước. [RIGHT]Trích từ:
www.VanMau.Com[/RIGHTNếu có một khoảng trống
khơng khí sẽ làm cho nhiệt truyền chậm hơn.
NHĨM 3: Cũng sử dụng hình thức đóng vai nhập
cuộc nhưng với kịch bản khác:
TỪ NHÀ SẢN XUẤT ĐẾN NGƯỜI TIÊU DÙNG
(1 học sinh đóng vai  phóng viên của một tờ báo kinh tế
đến phỏng vấn ở xưởng sản xuất phích nước Rạng
Đơng và một số hộ gia đình sử dụng phích( 5 học sinh) 
để phỏng vấn lấy tư liệu về phích nước ).

Ví dụ:
+ Nhà sản xuất:   [RIGHT]Trích từ:
www.VanMau.Com[/RIGHT][RIGHT]Trích từ:
www.VanMau.Com[/RIGHTPhích nước (hay bình
thuỷ) được phát minh bởi nhà bác học Duwur. Ông đã
cải tiến chiếc máy dùng để đo nhiệt lượng của một vật
nên được gọi là nhiệt lượng kế, vì chiếc máy của
Newton cồng kềnh, nhiều bộ phận nên bảo quản và làm
vệ sinh khó khăn trong điều kiện phịng thí nghiệm. Để
thực nghiệm chính xác, u cầu của nhiệt lượng kế là
cách ly tối đa giữa nhiệt độ bên trong bình và mơi
trường bên ngồi. Từ đó, người ta chế tạo thành loại
bình có khả năng cách ly nhiệt, dùng cho giữ nước
nóng hay nước đá (kem).
[RIGHT]Trích từ:
www.VanMau.Com[/RIGHT]Cấu tạo ngồi gồm: Vỏ,
quai xách, nắp, thân và đáy. Vỏ phích thường được làm
bằng nhơm, nhựa hoặc sắt tráng men in hoa hay hình
chim, hình thú rất đẹp. Lớp vỏ cịn tiện ích như đáy
bằng giúp đặt vững vàng, có quai bằng nhơm hay nhựa

skkn

Nhóm 3


giúp cầm và xách khi di chuyển. [RIGHT]Trích từ:
www.VanMau.Com[/RIGHT]Nắp phích bằng nhơm,
nhựa, nút đậy ruột phích bằng gỗ xốp để chống mất
nhiệt do đối lưu.

[RIGHT]Trích từ:
www.VanMau.Com[/RIGHT]Cấu tạo trong gồm: Ruột
phích được cấu tạo bởi hai lớp thuỷ tinh, ở giữa là
khoảng chân khơng. Ngồi ra, bên thành trong của hai
lớp này còn được tráng bạc để phản chiếu bức xạ nhiệt,
giúp ngăn sự truyền nhiệt ra bên ngoài (tráng ở thành
trong để không bị trầy lúc co xát cũng như không làm
ảnh hưởng nước đựng bên trong). Vì là thủy tinh nên
rất mỏng và dễ bể, chính vì vậy mà ta cần tới lớp vỏ để
bảo vệ.
[RIGHT]Trích từ: www.VanMau.Com[/RIGHT]Ruột
phích là phần quan trọng nhất nên khi mua phích cần
lựa chọn thật kĩ. Mang ra chỗ sáng, mở nắp phích ra,
nhìn từ trên miệng xuống đáy thấy có điểm màu sẫm ở
chỗ van hút khí. Điểm đó càng nhỏ thì van hút khí càng
tốt, sẽ giữ được nhiệt độ lâu hơn. Áp miệng phích vào
tai nghe có tiếng “O… o…” là tốt.
+ --Hộ gia ỡnh: Cái phích dùng để chứa nớc sôi
pha trà cho ngời lớn, pha sữa cho trẻ nhỏ
Giá một cái phích không đắt, giao động từ
70.000
->80.000đ, phù hợp với túi tiền của ngời lao động,
nhất là ngời nông dân, nên từ lâu phích nớc đà trở
thành vật dụng quen thuộc trong nhiều gia đình
ngời dân VN.
- GV:Sau mi phn trỡnh bày của các nhóm giáo viên
đều khen ngợi sự  chuẩn bị chu đáo và tinh thần hăng
hái tích cực tham gia của các thành viên nói riêng và cả
nhóm nói chung bằng những tràng pháo tay .
- GV cho các nhóm tự nhận xét cho điểm nhau.

- GV nhận xét: phân tích ưu nhược điểm của từng
nhóm, động viên khen thưởng kịp thời  học sinh làm
tốt, nhóm làm tốt.

  
HOẠT ĐỘNG 4 : VẬN DỤNG

skkn


? Lập dàn ý, xây dựng ý tưởng trình bày với các đề cịn lại? ( Mỗi nhóm 1 đề)

      +  Tìm hiểu , quan sát, ghi chép
      + Nội dung : Cấu tạo, màu sắc , công dụng
 HOẠT ĐỘNG 5: MỞ RỘNG, BỔ SUNG


Cho HS xem một số video về tiết luyện nói để HS tham khảo



Sưu tầm và đọc nhiều bài viết theo kiểu thuyết minh.

           -    Về nhà học bài, làm bài tập vào VBT.

           -    Chuẩn bị: “ Viết bài tập làm văn số 3”
 
 
 
 

 
 
 
 
 

III. Hiệu quả do sáng kiến đem lại:
1. Hiệu quả kinh tế: Khơng có
2. Hiệu quả về mặt xã hội
                 Qua nghiên cứu đề tài, tôi đã mạnh dạn áp dụng đề tài vào thực tế giảng dạy
và nhận thấy chất lượng các giờ luyện nói đã nâng cao rõ rêt. Cụ thể :


Các em khơng cịn rụt rè, e ngại, thiếu tự tin khi đứng trước đám đơng để luyện

nói mà theo vào đó là sự tự tin, thái độ cởi mở hơn.


Khơng khí lớp học có sự hào hứng, sơi nổi, các em thích được học những tiết

luyện nói hơn.


Bài nói do có sự chuẩn bị chu đáo nên khi trình bày các em khơng có sự ngập

ngừng, ấp úng, nội dung cũng trọn vẹn, đầy đủ hơn. Do đó, đa số bài nói đều  hồn
chỉnh hơn lúc trước.


Kĩ năng nói của các em đã có sự tiến bộ, các em biết chào khi mở đầu và khi kết


thúc, biết giới thiệu đề tài, cách nói cũng trơi chảy, gãy gọn, đúng chính âm, kết hợp
cử chỉ, nét mặt, thái độ,…
         Sau đây là bảng số liệu thống kê chất lượng học sinh khối 8 trường THCS Xuân
Thượng trong giờ luyện nói năm học 2017 - 2018:

skkn


Tỉ lệ học sinh
giỏi

Tỉ lệ học sinh
khá

Tỉ lệ học sinh
trung bình

Tỉ lệ học sinh
yếu

Tỉ lệ học sinh
kém

21,2 %

42,4%

30,3%


6,1%

%

 

IV.Cam kết khơng sao chép hoặc vi phạm bản quyền.
Tôi xin cam kết không sao chép sáng kiến hay vi phạm bản quyền, nếu sai tơi
 xin chịu hồn tồn trách nhiệm.
 

skkn



×