Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Skkn một số giải pháp giúp trẻ 3 4 tuổi học tốt tiết khám phá khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.91 KB, 31 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP TRẺ 3 - 4 TUỔI
HỌC TỐT TIẾT KHÁM PHÁ KHOA HỌC

Quảng Bình, tháng 05 năm 2020

skkn


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP TRẺ 3-4 TUỔI
HỌC TỐT TIẾT KHÁM PHÁ KHOA HỌC

Họ tên:
Nguyễn Thị Lệ Ninh
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Hồng Thủy

Quảng Bình, tháng 5 năm 2020

2

skkn



1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Giáo dục Mầm Non là ngành học mở đầu trong hệ thống giáo dục quốc dân,
có nhiệm vụ xây dựng những cơ sở ban đầu, đặt nền móng cho việc hình thành
nhân cách con người. Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai
của mỗi dân tộc, việc bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ là trách nhiệm của nhà 
nước, của toàn xã hội và của mỗi gia đình
      Đây là thời điểm mấu chốt và quan trọng nhất, thời điểm này tất cả mọi việc
đều bắt đầu: bắt đầu ăn, bắt đầu nói, bắt đầu nghe, nhìn và... Chính vì vậy trẻ em
như tờ giấy trắng mà cha mẹ các con rất kỳ vọng vào sự tô vẽ của thầy cô. Bậc
học mầm non là bậc học đầu tiên của trẻ, có thể nói việc hình thành, rèn luyện ở
trẻ những nhân cách ban đầu để trẻ trở thành cơng dân tý hon hồn thiện như: Cơ
thể khỏe mạnh, thơng minh nhanh nhẹn, ngoan ngỗn lễ phép, Có những kỹ năng
cần thiết trong cuộc sống.... đó chính là trách nhiệm của giáo viên mầm non.
          Đối với trẻ nhỏ, mọi sự vật hiện tượng tự nhiên luôn là điều hấp dẫn nhưng
cũng thật lạ lẫm khó hiểu mà trẻ tò mò muốn biết, muốn được khám phá trong
suốt cuộc đời và C.Mác cho rằng “Tự nhiên là nguồn gốc của các tri thức cụ thể
đầu tiên của con người và nó thường để lại cho chúng ta cảm giác sung sướng
được lưu giữ suốt đời”. Chính vì vậy “khám phá khoa học” được coi là một nội
dung cơ bản trong chương trình giáo dục mầm non có ý nghĩa vô cùng quan trọng
và cần thiết  đối với trẻ, hoạt động này góp phần tích cực trong việc giúp trẻ phát
triển toàn diện các lĩnh vực như nhận thức, ngơn ngữ, tình cảm xã hội, thẩm mỹ
và thể lực....Khám phá khoa học giúp trẻ mở rộng vốn hiểu biết về sự vật hiện
tượng tự nhiên, đây là cơ sở để trẻ giải quyết những tình huống trong cuộc sống
sinh hoạt hàng ngày, tham gia vào các hoạt động đa dạng và phong phú khác ở
trường mầm non như hoạt động tạo hình, hoạt động làm quen với tốn..., đồng
thời còn là những kiến thức khoa học sau này ở trường phổ thông. Mặt khác
3


skkn


“khám phá khoa học” còn giúp trẻ phát triển các quá trình nhận thức như cảm
giác, tri giác, các thao tác tư duy, cũng như góp phần hình thành và phát triển các
phẩm chất của trí tuệ góp phần khơng nhỏ vào việc hình thành và phát triển các
kỹ năng nhận thức.
          Đặc biệt đối với trẻ 3- 4 tuổi “Khám phá khoa học” không chỉ giúp trẻ phát
triển các giác quan, kích thích nhu cầu và hứng thú nhận thức, mà cịn thoả mãn
tính ham hiểu biết, tích cực tìm tịi, khám phá trải nghiệm nhằm phát hiện những
cái mới, những cái ẩn dấu bên trong các sự vật hiện tượng, từ đó giúp trẻ hình
thành  những khái niệm sơ đẳng ban đầu.  Do đó, nhiệm vụ của chúng ta là phải
hình thành củng cố mở rộng vốn tri thức của trẻ, đồng thời phải rèn luyện và phát
triển các năng lực và hành vi ứng xử đúng đắn với môi trường tự nhiên.
Góp phần vào việc phát triển nhân cách tồn diện cho trẻ sau này
Vì vậy giáo viên là người đầu tiên tạo môi trường, điều kiện học tập tốt cho
trẻ, chủ động sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động nhằm giúp trẻ húng thú tham gia
vào hoạt động, có như vậy hiệu quả của tiết khám phá khoa học đạt kết quả cao. Trên
thực tiễn cho thấy các tiết học khám phá khoa học cho trẻ 3- 4 tuổi còn nghèo nàn thiếu
sự sáng tạo mới lạ nên trẻ chưa hứng thú vào tiết học.
Với tình hình thực tế tại lớp đang phụ trách tôi nhận thức sâu sắc và xác định rõ
những việc cần làm ngay đối với trẻ để giúp trẻ 3 - 4 tuổi học tốt loại tiết “Khám phá
khoa học” cho trẻ mầm non nói chung và trẻ lớp tơi đang phụ trách nói riêng. Vì vậy tơi
mạnh dạn đưa ra " Một số giải pháp giúp trẻ 3-4 tuổi học tốt tiết khám phá khoa học”
trong lỉnh vực phát triển nhận thức.
*1.2.Điểm mới của sáng kiến :
Sáng kiến kinh nghiệm “Một số giải pháp giúp trẻ 3- 4 tuổi học tốt tiết: Khám
phá khoa học” là sáng kiến mới lần đầu tiên tơi nghiên cứu để tìm ra những giải pháp
thiết thực và có hiệu quả để giúp trẻ 3-4 tuổi học tốt tiết” Khám phá khoa học”. Trong
quá trình thực hiện ngồi những mặt mạnh vẫn cịn bộc lộ một số hạn chế và bất cập

trong việc cho trẻ khám phá khoa học trong độ tuổi 3- 4 tuổi. Chính vì vậy cần tiếp tục
4

skkn


đi sâu vào việc nghiên cứu các giải pháp mới có tính hệ thống để giúp trẻ học tốt tiết
khám phá khoa học. Trong đó tập trung vào các nội dung:
- Tìm hiểu đặc điểm nhận thức của trẻ.
- Tạo điều kiện cho trẻ tìm tịi, khám phá, trải nghiệm, học hỏi.
- Tổ chức hoạt động nhận thức về khám phá khoa học thông qua tiết học.
- Làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt động.
- Làm tốt công tác phối kết hợp với phụ huynh và cộng đồng
- Tăng cường trò chuyện với những trẻ còn rụt rè, thiếu mạnh dạn nhằm giúp trẻ
tự tin hơn trong giao tiếp với mọi người xung quanh.
Đây là những vấn đề trọng tâm mà bản thân tôi muốn tiếp tục đi sâu nghiên cứu.
1.3. Phạm vi áp dụng đề tài:
Phạm vi mà đề tài đề cập đến là độ tuổi 3-4 tuổi ở trường Mầm non tôi đang
công tác giảng dạy.
Đề tài này đã được ban giáo hiệu nhân rộng cho toàn trường thực hiện năm học
2019 - 2020 và sẽ thực hiện cho các năm học kế tiếp.
Đề tài nêu ra những giải pháp giúp trẻ 3-4 tuổi học tốt tiết "Khám phá khoa học".
2. PHẦN NỘI DUNG:
2.1. Thực trạng trước khi nghiên cứu các biện pháp.
Thực tế trong quá trình chăm sóc các cháu hằng ngày với độ tuổi 3 - 4 tuổi bản
thân tơi ngồi việc nắm vững những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, xác định những
mục tiêu và nội dung chương trình về chương trình giáo dục mầm non làm cơ sở, tơi
cịn phải hiểu được tình hình thực tiễn của địa phương, của trường và lớp mình đang
cơng tác, để khai thác những cái hay, cái đẹp nhằm giáo dục tinh thần cho các cháu.
Khi được khám phá khoa học, giúp trẻ say mê khám phá, phát triển tính sáng tạo và mở

rộng kiến thức cho trẻ, phát triển tư duy, ngôn ngữ, củng cố các kĩ năng nhận thức, rèn
khả năng tri giác, phân tích, so sánh, tổng hợp, hình thành những xúc cảm, tình cảm tích
cực cũng như cung cấp kĩ năng sống cần thiết phù hợp với lứa tuổi cho trẻ. Từ đó ngơn
ngữ của trẻ phát triển trẻ nói năng mạch lạc hơn, vốn từ của trẻ phong phú và đa dạng
hơn, trẻ biết sử dụng từ chính xác, biết mạnh dạn hơn, nhằm phát triển ở trẻ tình cảm kỷ
5

skkn


năng xã hội và kỷ năng giao tiếp tốt hơn. Hình thành cho trẻ hành vi văn minh trong
cuộc sống, trong quan hệ với mọi người. Vì vậy, giáo viên là người đóng vai trị chủ
đạo, người tổ chức, hướng lái dẫn dắt trẻ khám phá khoa học một cách chủ động, sáng
tạo. Đồng thời giáo viên cũng cần hòa nhập với trẻ, tham gia các hoạt động với trẻ lơi
cuốn trẻ tích cực, hứng thú tham gia vào các hoạt động, tổ chức tốt các hoạt động cho
trẻ. Để thực hiện được điều đó, giáo viên mầm non phải có kiến thức khoa học về ni
dạy trẻ hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, có vốn kiến thức phong phú phải nắm được
mục đích, yêu cầu về kiến thức, kỷ năng, giáo dục của từng bài để truyền thụ cho trẻ có
hệ thống, chính xác, đảm bảo được yêu cầu của bài học và khả năng nhận thức của trẻ.
Trẻ sinh ra được sống trong nền văn minh nhân loại. Môi trường xã hội vô cùng phong
phú, đa dạng hấp dẫn trẻ, bao bọc quanh trẻ. Trong khi đó khả năng vận động, hoạt
động của trẻ cịn nhiều hạn chế, ngôn ngữ của trẻ chưa phát triển, vốn từ của trẻ cịn
nghèo. Vì vậy cơ giáo phải thường xuyên tổ chức cho trẻ khám phá khoa học xung
quanh trẻ.
Từ khi trẻ ra đời đã muốn ngắm nhìn xung quanh như  khi chỉ mới 2 tháng tuổi trẻ
đã hứng thú đưa mắt nhìn theo những quả bóng bay xanh – đỏ treo trước mắt và tò mò
đưa tay với, ….. Càng lớn, nhu cầu đó càng tăng lên bằng việc bắt chước giọng điệu
người lớn (thích mặc quần áo, đeo dép của mẹ…), làm những công việc của người lớn
hay với trẻ 3- 4 tuổi đã có trẻ liên tục hỏi những câu hỏi về thế giới xung quanh như:
“Tại sao lại có trời ? gió ở đâu đến? con sinh ra như thế nào?....” chính là lúc nhu cầu

khám phá thế giới xung quanh của trẻ càng cao.  Nhưng vì trẻ  nhỏ  chưa  có  vốn 
sống,  vốn  kinh  nghiệm, sự trải nghiệm cịn ít,  trẻ  chưa  tự  khám  phá  về  thế  giới
xung quanh nên người lớn phải giúp đỡ trẻ,  phải tổ chức, hướng dẫn trẻ tham gia vào
các hoạt động nhằm cho trẻ làm quen, khám phá về môi trường xung quanh.  Khi  trẻ
được  làm  quen  với  thế  giới  xung  quanh  sẽ  giúp  trẻ  tích  lũy được  kiến thức,  kĩ
năng về tự nhiên và xã hội,  giúp trẻ được phát triển về các mặt: Đức – Trí - Thể - Mĩ Lao động. Thông qua việc tổ chức cho trẻ được hoạt động khám phá, trẻ sẽ được phát
triển tồn diện các mặt,  nhân cách được hình thành và phát triển. Đây là mục đích hàng
đầu của giáo dục nói chung và Giáo dục mầm non nói riêng.
6

skkn


Với ý nghĩa thiết thực và quan trọng như vậy, bản thân tơi đã trải qua một q
trình nghiên cứu tìm tịi, học hỏi và vận dụng "Một số giải pháp giúp trẻ 3-4 tuổi học tốt
tiết khám phá khoa học"
* Thực hiện nhiệm vụ năm học 2019-2020, bản thân tôi được BGH nhà trường
phân công đứng lớp 3-4 tuổi với tổng số 33 cháu. Qua quá trình thực hiện bản thân tơi
nhận thấy một số thuận lợi và khó khăn như sau:
*.Thuận lợi:
- Được sự quan tâm và chỉ đạo của các cấp lãnh đạo như Sở GD&ĐT, Phòng
GD&ĐT Lệ Thủy, đặc biệt là Ban giám hiệu nhà trường luôn bồi dưỡng chuyên môn,
nghiệp vụ cho giáo viên. Nhà trường đã xây dựng tất cả các lớp về tạo mơi trường thân
thiện trong và ngồi lớp. Đồ dùng đồ chơi trang thiết bị phục vụ cho lỉnh vực phát triển
nhận thức loại tiết “ khám phá khoa học” khá đầy đủ.
- Giáo viên: Hai giáo viên đứng lớp đều có trình độ Đại học, nhiệt tình, u trẻ.
- Bản thân được tham dự lớp tập huấn, các tiết thao giảng của cụm, của trường tổ
chức nên nắm chắc phương pháp về MTXQ Khám phá khoa học khá vững vàng, luôn
trau dồi kiến thức học hỏi kinh nghiệm của chị em trong trường để nâng cao trình độ
chun mơn, có ý thức phấn đấu và rèn luyện tác phong sư phạm của một người giáo

viên.
- Phụ huynh ở đây có truyền thống hiếu học, luôn quan tâm đến con em mình đưa
đón trẻ thường xun tạo điều kiện cho việc tuyên truyền phối kết hợp với gia đình- nhà
trường trong việc chăm sóc giáo dục trẻ tốt hơn. Ln ủng hộ nhiệt tình các hoạt động,
phong trào của trường, lớp. Kết hợp với giáo viên để giúp trẻ khám phá khoa học cho
trẻ đạt kết quả tốt.
Tuy vậy nhưng khi bước vào thực hiện bản thân tôi cũng gặp phải những khó
khăn như sau:
* Khó khăn:
- Trình độ nhận thức của trẻ không đồng đều, một số trẻ chưa hứng thú vào giờ
học.
- Một số trẻ lần đầu tiên mới đến trường, chưa qua lớp nhà trẻ.
7

skkn


- Một số trẻ còn rụt rè, nhút nhát, khả năng diễn đạt về ngơn ngữ và giao tiếp
cịn hạn chế.
- Đồ dùng tự tạo để trẻ khám phá khoa học còn nghèo nàn, chưa xây dựng khu
vui chơi để trẻ khám phá, trải nghiệm, quan sát...
- Là địa bàn ven biển nên đời sống của phụ huynh còn nhiều thiếu thốn suốt ngày
bận rộn với công việc đồng áng, nên một số phụ huynh chưa dành thời gian thích đáng
để tìm hiểu nắm bắt nhu cầu về ngơn ngữ của trẻ, ít trị chuyện với trẻ, ít quan tâm chăm
lo cho con cái.
* Nguyên nhân:
- Trẻ ở độ tuổi này đặc điểm tâm sinh lý của một số trẻ phát triển chưa hồn
chỉnh, trẻ ít giao tiếp với mọi người xung quanh và khả năng khám phá trải nghiệm của
trẻ còn rụt rè nên khi vào tiết học trẻ không hứng thú.
- Do phong tục tập quán của địa phương và ngơn ngữ của phụ huynh cịn sử dụng

rất nhiều tiếng địa phương, ít giao tiếp với trẻ bằng tiếng phổ thơng cũng có phần ảnh
hưởng đến ngơn ngữ của trẻ.
- Do điều kiện kinh tế của địa phương còn nghèo nên đời sống của phụ huynh
còn gặp nhiều khó khăn.
- Do nhận thức của một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của
trẻ.
Các tài liệu tham khảo về khám phá khoa học cịn ít.
        Vốn hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh còn nghèo nàn.
         Kỹ năng quan sát, phân tích, so sánh, tổng hợp ở trẻ còn chưa đồng đều.
         Giáo viên còn nhiều hạn chế về phương pháp tổ chức các hoạt động khám phá
khoa học đa dạng, phong phú cho trẻ.
          Xuất phát từ những thuận lợi và khó khăn trên, tơi ln trăn trở mình phải làm
thế nào để giúp trẻ học thật tốt bộ môn khám phá khoa học, tôi đã không ngừng suy nghĩ
và sáng tạo, để tìm ra những cách thức, phương pháp giảng dạy và tạo ra môi trường
8

skkn


học tập tốt nhất cho trẻ. Bằng tất cả sự nỗ lực, cố gắng đó, tơi cảm thấy một phần nào ý
nguyện của mình đã thực hiện được,  mai này biết đâu đó những “mầm non” ấy sẽ tiếp
tục là những nhà khoa học khám phá ra những điều kì vĩ hơn nữa.
    

Để có biện pháp giáo dục tốt nhất trong quá trình giúp trẻ khám phá khoa học cho trẻ

nên tôi đã tiến hành khảo sát trên trẻ ở lớp tơi ở đầu năm học qua những tiêu chí sau:
Bảng A: Đánh giá đầu năm học 2019 – 2020
    Tổng số trẻ  khảo sát: 33 cháu, đạt 100%
Nội dung


Tốt

Khá

 

Số Tỉ lệ
trẻ

Số
trẻ

TB

Yếu

Tỉ lệ

Số
trẻ

Tỉ lệ

Số
trẻ

Tỉ lệ

24,2%


5

15,1%

4

12,1%

Trẻ có khả năng quan sát ghi 11 33,3% 10 30,3%
nhớ

8

24,2%

4

12,1%

Trẻ có kỹ năng: Phân tích, so 9 27,2% 10 30,3%
sánh, tổng hợp.

7

21,2%

7

21,2%


Trẻ tích cực tham gia khám phá 16 48,4% 8

          Kết quả thể hiện ở bảng trên cho thấy kết quả hoạt động khám phá khoa học ở trẻ

chưa cao. Với khả năng, kinh nghiệm và sự hiểu biết của bản thân, tôi tin chắc rằng
mình sẽ giúp trẻ có được sự u thích, tích cực tham gia khám phá, có khả năng quan
sát, ghi nhớ và cao hơn nữa là trẻ có kĩ năng phân tích, so sánh, tổng hợp.
. Chính vì vậy mà tơi đã tìm tịi nghiên cứu đưa ra "Một số giải pháp cho trẻ 3-4 tuổi
học tốt tiết khám phá khoa học" như sau:
2.2. Các giải pháp :
2.21: Lập kế hoạch tổ chức cho trẻ khám phá khoa học. Lựa chọn nội dung
khám phá - thí nghiệm phù hợp với khả năng của trẻ
Dựa trên kế hoạch năm học của nhà trường xây dựng và căn cứ vào nội dung trong
chương trình theo độ tuổi, căn cứ vào thời gian, thời điểm thực hiện bài tập ở vào giai
đoạn nào của chương trình năm học, căn cứ vào mức độ phát triển, khả năng thực tế của
9

skkn


trẻ, tôi đã xây dựng kế hoạch nội dung khám phá cho trẻ, xác định độ khó của từng bài
tập và sắp xếp theo trình tự để đưa vào hướng dẫn trẻ cho phù hợp đi từ dễ đến khó. Nội
dung trong chương trình đã được trình phù hợp với từng chủ đề chủ  điểm, phù hợp với
các hoạt động khác và các sự  kiện. Khi lập được kế hoạch tổ chức tôi thấy rất yên tâm
và thực hiện rất hiệu quả.
Để giúp trẻ khám phá khoa học đạt kết quả  tốt  thì việc lựa chọn nội dung khám phá
cũng như những thí nghiệm phù hợp với khả năng của trẻ là rất cần thiết và quan trọng.
Do đó giáo viên cần quan sát và tìm hiểu khả năng của trẻ trong lớp để làm căn cứ xây
dựng kế hoạch hoạt động khám phá khoa học cho hợp lý và phù hợp với sự nhận thức

của trẻ. Đầu năm tôi chưa chú ý đến việc lựa chọn nội dung – thí nghiệm cho trẻ khám
phá. Tơi thường chọn những nội dung khám phá quá cao so với  khả năng nhận thức của
trẻ  như: Hoạt động khám phá về quy trình làm bánh trung thu hay thí nghiệm pha màu
nước.....để giao bài tập cho trẻ hoạt động dẫn đến đa số trẻ trong lớp tơi khơng có kỹ
năng khám phá, làm cho tiết học đạt kết quả khơng cao.
Đứng trước tình trạng trên tơi đã đặt mục tiêu cho mình khi lập kế hoạch cho trẻ cần có
tính hệ thống từ đơn giản đến phức tạp, đồng thời mở ra một hướng khám phá mới cho
các hoạt động tiếp theo.
Ví dụ: Đầu năm tơi cho trẻ làm thí nghiệm “Bong bóng bay” tơi cho trẻ thổi những quả
bóng rồi cho trẻ cùng  chơi: Một bạn nói qua quả bóng cịn một bạn bạn áp tai vào quả
bóng và nghe xem âm thanh bạn nói có gì thay đổi. Hay để biết được sự thay đổi của âm
thanh, tôi cho trẻ bịt tai lại hỏi trẻ có nghe thấy cơ nói khơng và giọng nói của cơ có gì
thay đổi khơng? Hình thức cho trẻ tự nói nên cảm nhận của riêng mình giúp trẻ mạnh
dạn tự tin hơn.
Khi trẻ đã mạnh dạn hơn rồi tơi cho trẻ tham gia vào các thí nghiệm khó như ở chủ đề
bản thân tơi cho trẻ khám phá về các giác quan của trẻ (vị giác). Ví dụ: Khám phá về “vị
của nước” tơi chuẩn bị cho mỗi trẻ 3 cốc nước, các đĩa đựng đường, muối, một số viên
C sủi. Đầu tiên tôi cho trẻ quan sát và uống ly nước sơi cho trẻ nói lên cảm nhận của
mình, có cháu nói nước khơng có vị gì, có cháu nói nước khơng có mùi, cháu Gia Hân
10

skkn


thì bảo nước khơng có màu gì. Tơi kết luận: Nước không màu, không mùi không vị. Và
tôi hỏi: “Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta cho một thìa muối (đường, viên C sủi) vào cốc
nước, có trẻ nói là nước sẽ bị mặn, có trẻ lại cho rằng nước ngọt, nước có vị chua,.... rồi
yêu cầu trẻ cho 1 thìa muối vào ly nước và nếm thử. Lúc này tơi thấy có trẻ thì nhăn mặt
lại  Tơi hỏi tại sao? rất nhiều ý kiến khác nhau đưa ra: Con thấy hơi mặn, con thấy rất
mặn, con thấy chua vì con cho viên C sủi vào....... Cuối cùng tơi đưa ra một kết luận:

Nước có thể thay đổi về  vị tuỳ theo chúng ta cho thêm đường hoặc muối hay nước cam,
chanh...
 Bên cạnh đó tơi ln quan sát và tìm hiểu khả năng của từng trẻ trong lớp thơng qua
q trình trẻ thực hiện các hoạt động. Từ đó tôi đánh dấu những trẻ cần được đưa những
câu hỏi và những trẻ sẽ trả lời những câu hỏi khó hơn hoặc thực hiện những bài tập
phức tạp hơn để tránh tình trạng những trẻ nhận thức hạn chế cũng thực hiện những bài
tập khó giống như những trẻ có khả năng nhận thức tốt, dẫn đến những trẻ đó thường bị
thụ động không mạnh dạn tự tin khi tham gia vào hoạt động khám phá cùng bạn.  Như
trong chủ đề “Bản thân” cháu Quốc Bảo sự nhận thức còn hạn chế,  tôi đưa câu hỏi dễ
như tác dụng của các giác quan (Mắt có tác dụng gì?Mũi dùng để làm gì?...) để trẻ trả
lời được, từ đó tạo cho trẻ cảm giác thành công trong công việc giúp trẻ bạo dạn và tự
tin vào bản thân mình hơn. Cịn cháu Gia Bảo sự nhận thức cũng như tư duy của trẻ phát
triển tốt tôi đặt ra những bài tập hay câu hỏi khó như: Tơi hỏi: Điều gì sẽ xảy ra nếu
chúng ta bịt mũi lại? hay tại sao con lại nghĩ số người và số khăn mặt lại bằng nhau?...
để tránh  gây cho trẻ sự nhàm chán trong quá trình khám phá.
          Nhờ vào việc lựa chọn nội dung khám phá – thí nghiệm  cũng như việc đặt câu
hỏi phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ  mà tôi thấy các hoạt động khám phá tôi đưa
ra cho trẻ đều được trẻ hưởng ứng nhiệt tình. Trẻ lớp tôi đã mạnh dạn, tự tin hơn trong
việc thảo luận cũng như  tìm ra kết quả nhanh nhất để hồn thành cơng việc mình đang
làm.
2.2.2: Dạy trẻ khám phá khoa học trong giờ hoạt động chung:

11

skkn


     Đầu năm ở các tiết học khám phá tôi tôi vẫn thường ôm đồm nhiều nội dung trong
một hoạt động khám phá và tơi vẫn nói nhiều. Điều này làm cho các hoạt động khám
phá trở nên nặng nề, quá tải, trẻ không được tham gia các hoạt động khám phá phù hợp

với khả năng. Vì vậy khơng có cơ hội phát triển ở trẻ khả năng nhận thức, khám phá.
Hơn nữa tôi chỉ sử dụng tranh ảnh  rồi đặt các câu hỏi và trả lời của trẻ, cũng có khi tơi
lại là người nói cịn trẻ chỉ nghe một cách thụ động, dẫn đến giờ học trở nên nhàm chán,
khơng đạt kết quả cao. Chính vì vậy tơi đã mạnh dạn sử dụng vật thật kích thích các giác
quan của trẻ hoạt động, trẻ được trực tiếp quan sát, phân tích so sánh tự mình rút ra một
kết luận theo ý hiểu của riêng mình. Điều đó thực sự làm trẻ thích thú và hứng thú tham
gia vào hoạt động khám phá.
     Ví dụ: Ở chủ đề thế giới động vật với bài khám phá khoa học: Một số con vật sống
dưới nước (con cá, con tôm, con cua). Tôi cho trẻ trực tiếp quan sát các đặc điểm của
con vật theo từng nhóm (Nhóm 1: Quan sát con cua, Nhóm 2: Quan sát con cá,  Nhóm
3: Quan sát con tơm. 
Sau đó tơi cho trẻ tự nhận xét về các đặc điểm của chúng thông qua các câu hỏi: Con
đang quan sát con gì? Con thấy con cua có đặc điểm gì? Cháu Ngọc Thanh trả lời: Con
thưa cơ con cua có 2 cái càng và nhiều chân? Tơi lại hỏi: Bạn nào có ý kiến khác ? Và
rất nhiều ý kiến khác nhau mà trẻ đưa ra như: Con cua có mai?  hay cháu Trà My nói:
Con cua dùng chân để bị, cơ trẻ hỏi: vì sao con cua lại bò ngang? Câu hỏi ấy khiến
nhiều trẻ tị mị muốn biết, lúc này tơi hỏi lại câu hỏi đó cho cả lớp cùng thảo luận. Rất
nhiều ý kiến khác nhau được đưa ra: Vì con cua có nhiều chân, vì con cua có 2 càng, vì
chân con cua ở 2 bên...Đây là lúc tôi giúp trẻ giải thích để đi đến một kết luận: Vì do
cấu tạo của con cua, chân nó nằm ngang ở hai bên nên nó phải bị đi theo hướng ngang
sang hai bên.  Không chỉ dừng lại ở việc cho trẻ khám phá về đặc điểm của con vật mà
tơi cịn hỏi trẻ về mơi trường sống của chúng. Ví dụ: Con cá sống ở đâu? Tơi ln đặt ra
tình huống để  kích thích trẻ tham gia tích cực vào hoạt động khám phá khoa học. Ví dụ:
Tơi vớt một con cá đặt lên khay và 1 con cá để trong chậu nước và hỏi trẻ xem có hiện
tượng gì xảy ra. Trẻ quan sát và thấy hiện tượng: Con cá ở dưới  nước thì bơi được cịn
12

skkn



con cá ở trên khay thì nhảy và quẫy. Tơi  hỏi : Tại sao lại có hiện tượng đó. Cháu Nhật
Linh trả lời: Con thưa cơ: Con cá có vây thì bơi được ở dưới nước cịn khi ở trên cạn cá
khơng bơi được nên nó nhảy và quẫy. Sau khi tình huống đã được giải quyết tơi khái
qt lại một cách ngắn gọn: Đúng rồi con cá có vây và thở bằng mang nên khi có nước
con cá thở được và chúng ta nhìn thấy những bong bóng sủi lên, cịn khi ở trên cạn con
cá sẽ khó thở và sẽ có hiện tượng cá nhảy và quẫy, nếu để lâu trên cạn con cá sẽ bị chết.
Tôi thả ngay cá vào chậu nước tránh để trẻ nhìn thấy cá bị chết.
      Song với bài dạy trên nếu chúng ta chỉ dừng lại ở việc cho trẻ quan sát thì mục tiêu
của bài dạy mà tơi đưa ra cho trẻ là không hiệu quả như mong muốn . Bởi vì hoạt động
khám phá địi hỏi trẻ khơng chỉ biết quan sát, mô tả lại đặc điểm của chúng  mà cịn phải
biết phân tích so sánh  và tơi cho trẻ so sánh giữa các con vật
     Ví dụ: Con cá và con cua. Đây chính là hình thức để tơi kích thích trẻ tham gia vào
q trình phân tích so sánh giữa 2 đối tượng với hệ thống câu hỏi như: Con cá và con
cua có điểm gì giống và khác nhau? Rất nhiều ý kiến khác nhau đã được đưa ra: Con
cua có mai và có chân, con cá có vây và có đi;  con cua biết bị cịn con cá biết
bơi.....Cuối cùng tôi khẳng định lại cho trẻ nghe về sự giống và khác nhau của con cá và
con cua nhằm khắc sâu những kiến thức mà trẻ vừa khám phá.
    Để biết được trẻ nắm được  kiến thức đến đâu trong q trình khám phá,  tơi khuyến
khích trẻ mô tả, kể lại những điều trẻ phát hiện được dưới dạng một câu chuyện hoặc
bằng hình vẽ và trong nhóm có thể bổ sung cho nhau. Trong quá trình thể hiện lại là trẻ
đã đang tổng hợp lại những kiến thức mà trẻ vừa được quan sát, phân tích, so sánh. Trên
cơ sở đó tơi phát hiện được khả năng quan sát, phân tích  của từng trẻ để củng cố và bổ
sung cho trẻ ở những giờ hoạt động khác. Với hình thức cho trẻ được quan sát phân tích
so sánh, giải quyết tình huống và trải nghiệm  như trên  tôi thấy trẻ lớp tôi sôi nổi hứng
thú đưa ra những nhận xét đánh giá khác nhau, giúp cho giờ học đạt kết quả cao.
           Như vậy trong một giờ học trẻ được tham gia vào các các dạng hoạt động  khám
phá khác nhau: từ quan sát trải nghiệm, thảo luận trao đổi, nhận xét, so sánh, tổng
13

skkn



hợp....Điều đó giúp cho việc tích lũy kinh nghiệm và phát triển kỹ năng của trẻ được
hiệu quả mà lại không tạo sự nhàm chán và căng thẳng đối với trẻ.
           Ngồi tiết học chính về hoạt động khám phá thì các tiết học khác tơi cũng có thể
lồng ghép cho trẻ khám phá khoa học như ở hoạt động làm quen với văn học tôi cho trẻ
khám phá “Vịng tuần hồn của nước” thơng qua câu chuyện “Giọt nước tí xíu”. Hay ở
hoạt động tạo hình cho trẻ pha màu nước, trẻ luôn đặt  ra câu hỏi: Tại sao màu này pha
với màu kia lại thành màu khác? Lúc này trẻ được pha màu nước để tô vẽ bức tranh
đồng thời trẻ đã phát hiện ra: màu vàng  pha với màu xanh nước biển ra màu xanh lá
cây; màu đỏ với màu vàng thì ra màu cam;......Với hình thức này trẻ sẽ tích lũy được
nhiều kinh nghiệm cũng như vốn hiểu biết về thế giới xung quanh sẽ góp phần khơng
nhỏ vào các hoạt động khám phá khoa học đạt kết quả tốt hơn.
           Được trực tiếp làm các thí nghiệm với các vật mà mình đang học quả là điều
thích thú đối với trẻ. Nếu trước đây trên tiết học tôi chỉ dạy những bài khám phá đơn
giản, chỉ sử dụng tranh ảnh, thì tiết học khơng đạt kết quả cao. Vì vậy tơi đã mạnh dạn
đưa những thí nghiệm nhỏ vào trong tiết dạy.
          Ví dụ: Thí nghiệm1: Vật chìm vật nổi
          Tơi chia trẻ thành 2 nhóm và chuẩn bị cho mỗi nhóm  một chậu nước, và các đồ
vật khác nhau: sỏi, cát, viên bi, lá cây, bóng nhựa, bơng hoa,…Đầu tiên tơi u cầu trẻ
cầm, nắm, sờ các đồ vật tơi đó rồi tơi  thảo luận với trẻ những vật nào nổi, vật nào chìm.
Cháu Ngọc Tùng bảo bơng hoa chìm, nhưng cháu Ánh Nguyệt lại bảo bơng hoa nổi.
Sau đó tơi ghi lại các ý kiến của trẻ để xem trẻ nào nói đúng, trẻ nào nói sai. Với tơi câu
trả lời của trẻ đúng – sai không quan trọng bằng việc biết được trẻ suy nghĩ và tìm ra 
kết quả đó bằng cách nào. Để biết được trẻ nào đúng trẻ nào sai, tôi yêu cầu trẻ hãy lấy
một số đồ vật thả vào chậu nước, và quan sát xem vật nào nổi vật nào chìm? Tơi hỏi trẻ
các con quan sát xem vật nào nổi lên mặt nước, trẻ trả lời : Xốp, lá cây, quả bóng nhựa,
miếng gỗ, viên sỏi, hịn bi… Vì sao các vật đó lại nổi được? Rất nhiều ý kiến trả lời
khác nhau, có trẻ trả lời là do lá cây nhẹ, lá cây không thấm nước, ….. Vậy các con hãy
quan sát xem  những vật nào chìm và vì sao?  Bạn Gia Hân nói : “Con thưa cơ, Con thấy

14

skkn


hịn sỏi bị chìm vì hịn sỏi nặng” hay “Con thấy hịn bi cũng chìm vì hịn bi hình trịn và
nặng hơn cái lá cây”… Với hình thức này tơi thấy trẻ được trải nghiệm, được thử - sai
và cuối cùng tự mình tìm ra được một kết quả nào đó trẻ sẽ cảm thấy sung sướng.
Hay với bài dạy về “khơng khí”, Tơi cho trẻ làm thí nghiệm dưới hình thức tổ chức các
trị chơi.
          Trị chơi 1: “Bịt mũi” tôi và cả lớp cùng làm động tác bịt mũi, miệng mím lại và
cho trẻ nói cảm nhận của mình  khi bịt mũi, đa số các cháu trả lời: thấy rất khó chịu,
khơng thở được. Vậy làm thế nào để thở được?  Cháu Minh Khang trả lời: Con thưa cơ
muốn thở được phải bỏ tay ra, tơi nói: Chúng ta thở được là nhờ có khơng khí và tôi đặt
ra vấn đề cho trẻ giải quyết như: Không khí có ở đâu? cháu Huyền My thì nói con
khơng biết, cháu Hà My thì nói khơng khí ở đây? Tơi hỏi vì sao con biết là ở đây có
khơng khí thì cháu trả lời: Vì con thở được. Để xem bạn nói có đúng khơng, tơi cho trẻ
đứng ở trong lớp, ngồi cửa, ngồi sân và hỏi trẻ có thở được khơng? Rồi tơi kết luận:
Khơng khí có ở xung quanh chúng ta. Tơi tiếp tục đặt ra tình huống “Chúng ta có nhìn
thấy khơng khí khơng?”  “Có bắt được khơng khí khơng?” có cháu nói khơng bắt được,
có cháu nói có bắt được, vậy làm thế nào để bắt được khơng khí? rất nhiều ý kiến khác
nhau đưa ra: Lấy ly, lấy chai, lấy  túi nilông.... để bắt khơng khí.
          Trị chơi 2:  “Vợt khơng khí”
           Tơi phát cho mỗi trẻ một túi ni lông và yêu cầu trẻ vợt khơng khí vào túi rồi buộc
lại và quan sát xem có hiện tượng gì xảy ra. Trẻ nói: Túi phồng to giống như quả bóng.
Tơi hỏi: Vì sao túi lại phồng?... Tơi giải thích cho trẻ biết “Vì trong túi có khơng khí”.
Để biết điều đó có chính xác khơng, tơi chia trẻ làm 2 nhóm. Nhóm 1 tôi cho trẻ dùng
tăm chọc vào túi ni lông rồi áp vào má,  hỏi trẻ cảm thấy thế nào? (mát, có gió...), Nhóm
2 tơi cho trẻ dùng tăm chọc túi nilông và thả xuống chậu nước và thấy hiện tượng gì xảy
ra (bong bóng nổi lên) Vì sao? Vì trong túi nilơng có khơng khí....... Cứ như vậy giờ thí

nghiệm trở nên sơi động và trẻ rất vui, hứng thú say sưa tìm hiểu để rút ra được kết luận:
Khơng khí có tất cả xung quanh chúng ta, khơng khí khơng có màu, khơng nhìn thấy
được, nhờ khơng khí mà con người mới thở được ..... Như vậy là trẻ đã được trực tiếp
15

skkn


quan sát, tự mình, trải nghiệm suy đốn, phân tích và tìm ra một kết luận mà mình cho
là đúng và khi thí nghiệm thành cơng, tơi thấy trên khn mặt trẻ hiện rõ vẻ thích thú,
phấn khởi vơ cùng. Với thí nghiệm nhỏ này tơi thấy vui và trẻ lớp tôi đã thực sự chủ
động khi làm công việc thí nghiệm, giúp trẻ tự tin, tự lập suy nghĩ , tự tìm ra kết quả
nhanh nhất để hồn thành cơng việc mình đang làm.
2.2.3: Khám phá khoa học ở mọi lúc, mọi nơi:
Không chỉ cho trẻ khám phá khoa học vào các giờ hoạt đợng chung mà tơi cịn cho trẻ
khám phá khoa học ở mọi lúc mọi nơi, những nội dung tôi cho trẻ khám phá tùy thuộc
từng chủ đề
      Ví dụ: Ở hoạt động ngồi trời với chủ đề “Thế giới thực vật”. Tôi cho trẻ khám phá
“sự sinh trưởng của cây”, để trẻ thấy được quá trình lớn lên của cây. Ngay từ đầu chủ đề
tôi đã chuẩn bị sẵn những thùng chứa đất tơi xốp: Nhóm thì gieo hạt đỗ, nhóm thì gieo
hạt ngơ, nhóm thì gieo hạt rau cải.....Tôi yêu cầu trẻ hàng ngày chúng ta chỉ tưới nước
cho chậu gieo đỗ và chậu gieo hạt ngơ, cịn chậu gieo cây rau cải thì khơng tưới nước để
vào gậm cầu thang?. để xem điều gì sẽ  xảy ra. Tơi thấy trẻ lớp tơi rất tị mị, muốn biết
điều gì sẽ xảy ra với 3 chậu cây vừa gieo hạt. Một tuần sau tôi mang 3 chậu cây ra cho
trẻ cùng quan sát, trẻ nào cũng ngạc nhiên hỏi:  Tại sao cây đỗ mọc lên mà hạt vẫn ở
trên rồi mới mọc ra 2 cái lá cịn cây ngơ thì lại mọc thẳng lên và ra lá? Hay cháu Gia
Hưng nói “Tại sao chậu hạt rau cải của mình lại khơng mọc lên nhỉ?” Những câu hỏi
này đã được trẻ thảo luận rất sơi nổi, có cháu bảo vì hàng ngày chậu hạt cải khơng được
tưới nước giống như cây đỗ và cây ngơ, có cháu lại bảo:  Chắc là ông mặt trời không
chiếu ánh sáng cho chậu hạt rau cải,...Như vậy trong quá trình trẻ trải ngiệm quan sát,

trẻ không chỉ nhận ra được sự khác nhau giữa cây này và cây khác, mà còn hiểu được
cây lớn lên và sống được cần có ánh nắng mặt trời, khơng khí và sự chăm sóc của con
người như tưới nước cho cây......Điều đó chứng tỏ rằng trẻ đã có những kinh nghiệm
ban đầu về q trình sinh trưởng của cây, cây cần gì để duy trì sự sống….
      Cũng có khi tơi cho trẻ làm những thí nghiệm nhỏ ở ngồi sân trường như thí
nghiệm “Tan hay khơng tan”. Ở thí nghiệm này tơi chuẩn bị cho trẻ những chiếc cốc
16

skkn


đựng nước, các vật: muối, đường, cát, sỏi, vôi.....cũng giống như ở thí nghiệm “vật chìm
– vật nổi”, tơi cho trẻ sờ, cầm, nắm và dự đoán xem vật nào tan, vật nào không tan rồi
cho trẻ thực hành để biết xem bạn nào nói đúng bạn nào nói sai. Sau khi trẻ trải nghiệm
trẻ đã rút ra được kết luận: những vật tan trong nước: Muối, đường,..., còn những vật
không tan được trong nước là: Cát, sỏi, .... Để gây sự hứng thú và tị mị của trẻ tơi tập
trung trẻ lại và thả một cục vôi xuống nước xem điều gì sẽ xảy ra? đa số trẻ đều nói là
dưới nước đang có hiện tượng sủi bọt, tơi cho trẻ sờ xung quanh lọ vôi và hỏi trẻ cảm
thấy thế nào, trẻ nói “Con thấy rất nóng”, lúc này tôi mới giáo dục trẻ: khi thả cục vôi
xuống dưới nước sẽ có hiện tượng sủi bọt, bên ngồi bình vơi rất nóng vì vậy các con
khơng chơi ở chỗ người ta tơi vơi. Đây là hình thức tơi giúp trẻ mở rộng vốn hiểu biết
về bản chất của các sự vật hiện tượng, đồng thời giúp trẻ giải quyết những tình huống
diễn ra trong cuộc sống hàng ngày một cách tự tin và biết tránh xa những nơi gây nguy
hiểm cho bản thân.
      Bên cạnh đó, hoạt động góc cũng góp phần khơng nhỏ vào việc tích luỹ cho trẻ
những kiến thức đơn giản, thực tế.
          Các giờ hoạt động chiều  tôi cho trẻ khám phá khoa học thơng qua những thí
nghiệm đơn giản
     Ví dụ: Chỉ bằng 2 cốc nước tơi có thể thu hút trẻ  và giúp trẻ khám phá 1 số hiện
tượng đơn giản về nước thơng qua 1 số thí nghiệm như “Nước nóng – nước lạnh – nước

bốc hơi”, Thí nghiệm “Nhanh – chậm”, “Đổi màu”, hay thí nghiệm về “sự cần thiết của
khơng khí”. Tơi dùng 2 cây nến đang cháy và 1 chiếc cốc. Tơi hỏi điều gì sẽ xảy ra khi
cô úp chiếc cốc này vào cây nến để cho trẻ được phán đốn, có trẻ nói: Nến cháy to hơn,
có cháu lại bảo nến tắt, có cháu lại bảo nến cháy nhỏ hơn... Sau đó tơi làm cho trẻ xem.
Lúc này tôi mới đưa câu hỏi. Taị sao cây nến lại tắt để trẻ trả lời, rồi tôi đi đến kết luận:
Vì khi chiếc cốc úp vào bên trong đó kín khơng cịn khơng khí nữa nên cây nến khơng
cháy được cịn cây nến bên cạnh vẫn cháy bình thường Hay trong giờ đón - trả trẻ tơi tổ
chức trò chơi vừa dạy cho trẻ những kinh nghiệm nhỏ vừa tạo được hứng thú cho trẻ.

17

skkn


      Ví dụ: Trị chơi “Gọi điện thoại”, cho trẻ gọi điện thoại cho bạn bằng ống bơ sữa bò
và hỏi trẻ khi được nghe qua ống bơ các con cảm nhận thế nào để trẻ đưa ra những câu
hỏi thắc mắc nhằm kích thích tính tị mị, ham hiểu biết nhằm phát triển tư duy của trẻ.
2.2.4: Ứng dụng công nghệ thông tin vào các tiết dạy khám phá khoa học
Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, sự phát triển của hệ thống mạng cùng với
những tiện ích, ứng dụng phong phú đã tạo nên một cuộc cách mạng trong mọi người,
mọi ngành và đặc biệt là giáo dục. Chính vì vậy ngay từ cấp học mầm non trẻ đã được
làm quen với công nghệ thông tin như một phần của hoạt động giáo dục không thể
thiếu(chuyên đề công nghệ thông tin). Không chỉ với người lớn mà đối với trẻ em mầm
non thì cơng nghệ thơng tin ln mang lại nhiều điều kì thú và hữu ích trong việc tiếp
thu kinh nghiệm sống.
Hơn nữa trong việc giáo dục, truyền đạt kiết thức cho trẻ không phải sự vật hiện tượng
nào cũng có sẵn để trẻ được trực tiếp tri giác, nhất là với hoạt động khám phá khoa học
như tìm hiểu động vật sống dưới biển, quan sát máy bay, các hiện tượng tự nhiên, …. ,
hay chúng ta khơng thể có thời gian để chứng kiến những hiện tượng trong tự nhiên xảy
ra như tìm hiểu về cách sinh sản của một số loại vật ni, q trình phát triển của cây…

chính vì vậy để trẻ được tìm hiểu thế giới xung quanh một cách bao qt nhất thì ứng
dụng cơng nghệ thơng tin vào tiết học là một việc cần thiết.
Được ưu thế là một giáo viên dạy lâu năm và có khả năng sử dụng công nghệ thông tin
khá thành thạo tôi rất quan tâm và thường xuyên sử dụng công nghệ thông tin như các
bài powerpoint, Elearning vào các tiết học. Tôi nhận thấy khi sử dụng công nghệ thông
tin vào các tiết khám phá khoa học trẻ tỏ ra rất hào hứng, thích thú và cũng giúp trẻ
nhận biết sự vật- hiện tượng một cách rõ ràng hơn.
Ví dụ 1: Tìm hiểu về “Mưa có từ đâu?”Tơi sử dụng bài powerpoint trình chiếu các quá
trình tạo thành mưa (ánh nắng chiếu xuống mặt nước – Nước bốc hơi- Tạo thành mây Gió thổi mây thành đám nặng rồi rơi xuống thành mưa)

18

skkn


Sau khi tìm hiểu xong về quá trình tạo thành mưa tơi cho trẻ xem phim hoạt hình “Đám
mây đen xấu xí” vừa là phim vừa đáp ứng việc củng cố kiến thức về q trình tạo thành
mưa cho trẻ.
Thơng qua việc trình chiếu và xem phim hoạt hình trẻ vừa như được giải trí và cũng là
khi lượng kiến thức cần cung cấp cho trẻ đảm bảo trọn vẹn với hình thức này.
Việc triển khai chun đề cơng nghệ thông tin trong trường mầm non tôi đang giảng dạy
được Ban giám hiệu và giáo viên rất quan tâm đặc biệt là đối với trẻ 3-4 tuổi, các trị
chơi thơng minh trong “Vui học kidsmart” ln làm trẻ tị mị và hứng thú. Biết được
điều đó tơi thường xun tìm hiểu những trị chơi thơng minh có liên quan tới chủ đề,
chủ điểm mà trẻ đang học vừa giúp trẻ thỏa mãn tính tị mị cũng như củng cố, mở rộng
hiểu biết về bài học với trẻ hơn.
Ví dụ 2: Trị chơi “Tìm lá cho hoa” chủ đề Thế giới thực vật.
Cách chơi: Trên màn hình xuất hiện những hình ảnh về 1 số cành hoa bất kì sau đó biến
mất chỉ xuất hiện hoa và lá riêng rẽ nhiệm vụ của trẻ di chuột sắp xếp hoa và lá lại thành
một bơng hoa có cành lá chính xác.

Khi trẻ đã chơi thành thạo tơi nâng cao trí nhớ cũng như sự nhanh nhẹn của trẻ bằng
cách chỉnh thời gian xuất hiện hoa ban đầu nhanh hơn hoặc cao hơn nữa là khơng có sự
xuất hiện của cành hoa ban đầu mà địi hỏi trẻ phải có trí nhớ, kĩ năng từ những lần chơi
trước tự xếp lá cho hoa đúng theo yêu cầu.
2.2.5: Nâng cao kỹ năng quan sát, so sánh và phân loại ở trẻ.
Một trong những phương pháp quan trọng và không thể thiếu đối với khám phá khoa
học là quan sát, so sánh và phân loại .
Với mỗi bài tuỳ thuộc vào đối tượng cho trẻ làm quen, tơi tìm những cách vào bài khác
nhau để gây sự chú ý, tị mị của trẻ. có thể dùng câu đố, bài hát… Để trẻ nhận biết đối
tượng bằng tranh ảnh và đồ vật, vật thật và mơ hình.

19

skkn


Với mỗi đối tượng trẻ được làm quen, trẻ được quan sát thật kỹ, trẻ biết đưa ra ý kiến
nhận xét của mình, cùng với đó là câu hỏi gợi mở của cô, cứ mỗi lần làm quen như vậy
tôi lồng ghép nội dung giáo dục vào bài. Trẻ không những hiểu về vật đó mà cịn có
cách ứng xử, hành động với chúng .
Qua các buổi dạo chơi, thăm quan, hoạt động ngoài trời, dã ngoại … khi trẻ quan sát tôi
hướng trẻ sử dụng mọi giác quan để trẻ có thể chỉ ra trọn vẹn đối tượng đó. Qua hoạt
động cho trẻ quan sát cô đưa ra các câu hỏi đàm thoại để cho trẻ so sánh và phân loại từ
đó sẽ phát huy khả năng sáng tạo và tư duy cho trẻ.
Ví dụ : Cơ và trẻ quan sát bồn hoa của lớp có nhiều loại hoa khác nhau, hướng trẻ nhận
biết màu sắc cánh hoa. Cho trẻ sờ cánh hoa thấy mịn và nhẵn. Đưa hoa nên ngửi có mùi
thơm .
Trẻ được quan sát kỹ, có được đầy đủ các đặc điểm của đối tượng nên trẻ so sánh rất tốt
và phân loại rất nhanh. Dạo chơi tham quan hoạt động ngồi trời, khơng những để trẻ
khám phá thế giới xung quanh mình mà tơi cịn giáo dục tình u thiên nhiên, ý thức

bảo vệ mơi trường. Tôi cũng luôn chú ý kiến thức xã hội với trẻ về công việc của mỗi
người, về mối quan hệ giữa con người với nhau, đặc biệt là giáo dục bảo vệ môi trường.
Với trẻ mặc dù kiến thức rất đơn giản như tạo cho trẻ thói quen vứt rác đúng nơi quy
định,chăm sóc vườn rau bắt sâu cho rau và ý thức bảo vệ môi trường xanh sạch đẹp.
2.2.6: Làm tốt công tác phối kết hợp với phụ huynh:
Để nâng cao chất lượng hoạt động của trẻ trong trường mầm non để có sự giáo dục
tồn bộ giữa gia đình và nhà trường là một việc làm hết sức cần thiết tơi thấy rằng tất cả
mọi khó khăn trong học tập khơng thể thiếu được vai trị giải quyết khó khăn của phụ
huynh vì thế ngay từ đầu năm học để phụ huynh  hiểu thêm về các hoạt động của trẻ
trong trường mầm non trường tôi đã tổ chức họp phụ huynh và tuyên truyền đến các bậc
phụ huynh.
Bản thân tôi là một cộng tác viên tuyên truyền của nhà trường ngoài việc tuyên truyền
các chuyên đề của nhà trường giao về lớp tôi đã làm tốt công tác tuyên truyền tới các
20

skkn



×