Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

(Bài 7.5đ) Thực tập cc1 quy định về quyền của người yêu cầu công chứng, thực tiễn thực hiện và giải pháp hoàn thiện pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.35 KB, 22 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ CÁC CHỨC DANH KHÁC
------------------------------

BÁO CÁO KẾT THÚC HỌC PHẦN
NGHỀ CÔNG CHỨNG VÀ CÔNG CHỨNG VIÊN
Đề tài: Quy định về quyền của người yêu cầu công chứng
– Thực tiễn thực hiện và giải pháp hoàn thiện pháp luật

Họ và tên

: NGUYỄN VĂN A

Sinh ngày

: 01/01/1988

Số báo danh : 068
Lớp

: Công chứng tại Hà Nội

Hà Nội, ngày 02 tháng 02 năm 2022


MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU........................................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG...................................................................................................3
1. Khái niệm...............................................................................................................3
1.1. Khái niệm người yêu cầu công chứng.............................................................3
1.2. Điều kiện để cá nhân, tổ chức trở thành người yêu cầu công chứng trong hoạt


động công chứng.....................................................................................................3
2. QUYỀN CỦA NGƯỜI YÊU CẦU CƠNG CHỨNG.........................................4
3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN PHÁP LUẬT 11
3.1. Thực tiễn thực hiện quyền của người yêu cầu công chứng...........................11
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật......................................................................13
PHẦN III: KẾT LUẬN...............................................................................................16
PHẦN IV: DANH MỤC THAM KHẢO...................................................................17


PHẦN I: MỞ ĐẦU
Ngày nay, cùng với sự đi lên và phát triển vượt bậc về mọi mặt
của kinh tế, chính trị, văn hố trong đời sớng nhân dân nói riêng và
đất nước Việt Nam nói chung thì vai trò và vị trí của pháp luật cũng
ngày càng được nâng cao và phổ biến. Các giao dịch dân sự liên
quan đến mua bán, tặng cho, chuyển nhượng ngày càng phổ biến
mang lại các nguồn lợi về kinh tế,…, nhưng đồng thời cũng chứa
đựng rất nhiều rủi ro, dẫn đến những hậu quả, tranh chấp xâm hại
đến quyền và lợi ích của các bên tham gia giao dịch. Cũng như đẩy
gánh nặng về phía cơ quan chức năng trong việc giải quyết những
tranh chấp này. Khi xảy ra tranh chấp, hàng loạt các vấn đề phát
sinh xảy ra mà hậu quả chính là mất thời gian, chi phí, gây tổn hại
đến uy tín và danh dự của các cá nhân - tổ chức tham gia giao kết
hợp đồng, giao dịch; đồng thời gây mất ổn định trong đời sống xã
hội. Các quan hệ giao dịch cần phải được xác lập và thực hiện theo
một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Công chứng chính là một giải pháp hiệu quả và được nhiều người
lựa chọn để có thể phòng ngừa, ngăn chặn tranh chấp xảy ra trong
quá trình tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch. Công chứng có vai
trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
trong việc xác nhận tính xác thực, tính hợp pháp của các hợp đồng,

giao dịch nhằm tránh những rủi ro pháp lý cho các bên tham gia giao
dịch cũng như góp phần đảm bảo thực hiện pháp luật đúng theo quy
định hiện hành. Với chức năng tham gia vào quá trình thỏa thuận,
giao kết các hợp đồng, giao dịch; công chứng viên có trách nhiệm
giúp các bên tham gia giao kết thể hiện ý chí của mình một cách
khách quan và đúng pháp luật nhất. Đồng thời giải quyết các xung
đột về mặt lợi ích giữa các chủ thể tham gia giao dịch, qua đó loại bỏ
những nguyên nhân xảy ra tranh chấp. Với tư cách là người tham gia
vào hợp đồng, giao dịch; người yêu cầu công chứng có những quyền
được pháp luật quy định cụ thể.
Quyền của người yêu cầu công chứng luôn đi cùng nhiệm vụ,
trách nhiệm của công chứng viên và nghĩa vụ của người yêu cầu
công chứng lại luôn đi cùng quyền hạn của cơng chứng viên. Khi nói
đến quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu công chứng, chúng ta thấy rõ
hơn cơng chứng viên cần làm gì và được làm gì để phục vụ tốt nhất
u cầu cơng chứng của các cá nhân, tổ chức và đồng thời cũng phải
1


đảm bảo việc thực hiện công chứng được chặt chẽ và đúng pháp
luật. Có thể thấy quyền và nghĩa vụ của người yêu cầu công chứng là
luôn đan xen nhau trong q trình u cầu và làm thủ tục cơng
chứng.
Hiện nay em đang là học viên của lớp Đào tạo nghề Công chứng
khóa A tại thành phố Hà Nội, những kiến thức mà các giảng viên
truyền đạt thông qua quá trình giảng dạy và trong giáo trình của Học
viện Tư pháp do Nhà xuất bản Tư pháp phát hành, cũng như những
cơ hội mà học viên được tiếp xúc trong thực tế thông qua đời sống,
xã hội. Bản thân mong muốn được tìm hiểu kỹ hơn về quyền của
người yêu cầu công chứng trong việc công chứng hợp đồng, giao

dịch; học viên xin chọn đề tài “Quy định của pháp luật về quyền
của người yêu cầu công chứng - Thực tiễn thực hiện và giải
pháp hoàn thiện pháp luật” để làm báo cáo cho kỳ thi kết thúc
môn học “Nghề công chứng và công chứng viên”.

2


3


PHẦN II: NỘI DUNG
1. KHÁI NIỆM
1.1. Khái niệm người yêu cầu công chứng
Căn cứ theo khoản 3 Điều 2 Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Người yêu
cầu công chứng là cá nhân, tổ chức Việt Nam hoặc cá nhân, tổ chức nước ngoài có
u cầu cơng chứng hợp đồng, giao dịch, bản dịch theo quy định của Luật này”.
Phân tích khái niệm này của Luật Công chứng năm 2014 về người yêu cầu công
chứng điều đầu tiên chúng ta nhận thấy người yêu cầu công chứng là “cá nhân” hay
“tổ chức” không phân biệt là cá nhân, tổ chức Việt Nam hay cá nhân, tổ chức nước
ngoài. Như vậy, có thể thấy người yêu cầu công chứng trong hoạt động công chứng
theo quy định của pháp luật Việt Nam là rất rộng.
Tuy nhiên không phải mọi cá nhân, tổ chức Việt Nam hay nước ngoài đều trở
thành người yêu cầu công chứng trong hoạt động công chứng. Để trở thành người yêu
cầu công chứng trong hoạt động công chứng thì cá nhân, tổ chức Việt Nam hay nước
ngoài phải có những điều kiện nhất định.
1.2. Điều kiện để cá nhân, tổ chức trở thành người yêu cầu
công chứng trong hoạt động công chứng
- Điều kiện thứ nhất được quy định ngay trong khái niệm về người yêu cầu công
chứng. Đó phải là cá nhân, tổ chức có yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch hay

yêu cầu công chứng bản dịch.
Nhận diện được ai là người yêu cầu công chứng trong hoạt động công chứng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng. Người yêu cầu công chứng phải là người có quyền đưa ra
yêu cầu công chứng. Đó chỉ có thể là chủ thể của hợp đồng, giao dịch. Chúng ta cần
phân biệt giữa người yêu cầu công chứng và người đại diện của người yêu cầu công
chứng.
- Điều kiện thứ hai điều kiện này được quy định tại khoản 1 Điều 47 Luật Công
chứng năm 2014, theo đó “người yêu cầu công chứng là cá nhân phải có năng lực
hành vi dân sự. Trường hợp người yêu cầu công chứng là tổ chức thì việc yêu cầu
công chứng được thực hiện thông qua người đại diện theo ủy quyền của tổ chức
đó...”.
+ Người yêu cầu công chứng là cá nhân
Đối với người yêu cầu công chứng là cá nhân thì để trở thành người yêu cầu công
chứng trong hoạt động công chứng phải có năng lực hành vi dân sự. Căn cứ theo quy
định từ Điều 19 đến Điều 24 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì người có năng lực hành vi
4


dân sự là người từ đủ 06 tuổi trở lên và không bị tuyên là mất, có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.
+ Người yêu cầu là tổ chức
Để tổ chức trở thành người yêu cầu công chứng theo quy định tại khoản 1 Điều
47 của Luật Công chứng năm 2014 thì điều kiện được xác định thông qua tư cách của
người đại diện. Tuy nhiên việc xác định điều kiện của người yêu cầu công chứng là tổ
chức không chỉ đơn thuần thông qua tư cách của người đại diện, còn một điều kiện nữa
mà công chứng viên cũng cần phải nắm được rất rõ, đó là tổ chức này phải là tổ chức
được thành lập và hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam.
2. QUYỀN CỦA NGƯỜI YÊU CẦU CÔNG CHỨNG
- Quyền đưa ra yêu cầu công chứng
Trong hoạt động công chứng, việc đưa ra yêu cầu công chứng

thuộc về người yêu cầu công chứng. Công chứng viên, tổ chức hành
nghề công chứng chỉ thực hiện việc công chứng trên cơ sở có yêu
cầu công chứng của người yêu cầu công chứng. Trong một số trường
hợp nhất định, công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng
chỉ giúp người yêu cầu công chứng định hướng lại yêu cầu công
chứng cho phù hợp với quy định của pháp luật.
- Quyền lựa chọn tổ chức hành nghề công chứng và lựa
chọn công chứng viên
Về ngun tắc chung thì việc lựa chọn tở chức hành nghề công
chứng để thực hiện yêu cầu công chứng thuộc về người yêu cầu công
chứng. Việc lựa chọn tổ chức hành nghề công chứng của người yêu
cầu công chứng sẽ không phân biệt giữa các hình thức tổ chức hành
nghề công chứng cũng như không phân biệt giữa các hình thức hành
nghề của công chứng viên. Tuy nhiên việc lựa chọn tổ chức hành
nghề công chứng và lựa chọn công chứng viên của người yêu cầu
công chứng cũng phải tuân thủ quy định về thẩm quyền công chứng
được quy định tại Luật cơng chứng năm 2014 và theo đó thì nó phụ
thuộc vào đối tượng của hợp đồng giao dịch để xác định thẩm quyền
công chứng cũng như xác định giới hạn quyền yêu cầu công chứng
của người yêu cầu công chứng.
Khi đối tượng của hợp đồng giao dịch là bất động sản thì phải áp
dụng nguyên tắc xác định địa hạt được quy định tại Điều 42 Luật
Công chứng năm 2014: “Công chứng viên của tổ chức hành nghề
5


công chứng chỉ được công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động
sản trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức
hành nghề công chứng đặt trụ sở, trừ trường hợp công chứng di
chúc, văn bản từ chối nhận di sản là bất động sản và hợp đồng ủy

quyền liên quan đến việc thực hiện các quyền đối với bất động sản”.
Riêng về quyền lựa chọn công chứng viên, chúng ta cần chú ý,
người yêu cầu công chứng được quyền tự do lựa chọn công chứng
viên mà mình tin tưởng đang hành nghề tại các tổ chức hành nghề
công chứng có thẩm quyền chứng nhận yêu cầu công chứng của
mình. Nhưng cần chú ý, công chứng viên được lựa chọn phải là người
không có mối quan hệ bị pháp luật cấm thực hiện tại điểm c khoản 1
Điều 7 Luật Công chứng năm 2014: “Công chứng hợp đồng, giao
dịch, bản dịch có liên quan đến tài sản, lợi ích của bản thân mình
hoặc của những người thân thích là vợ hoặc chồng; cha mẹ đẻ, cha
mẹ nuôi; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi của vợ hoặc chồng; con đẻ, con
nuôi, con dâu, con rể; ông, bà; anh, chị, em ruột của vợ hoặc chồng;
cháu là con đẻ, con nuôi”.
- Quyền được công chứng viên giải thích để hiểu rõ về
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình, ý nghĩa và hậu
quả pháp lý của việc công chứng
Xuất phát từ chức năng xã hội của công chứng viên được quy
định tại Điều 3 Luật Công chứng năm 2014, đó là cung cấp dịch vụ
công do Nhà nước ủy nhiệm thực hiện nhằm đảm bảo an toàn pháp
lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh
chấp; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức;
ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Với quy định này của luật thể
hiện rõ mục tiêu của hoạt động công chứng trước hết là bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng, bằng việc
bảo đảm an toàn pháp lý của hợp đồng, giao dịch mà người yêu cầu
công chứng tham gia được công chứng viên chứng nhận, đảm bảo
tính chính xác, tính hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của các bản
dịch được Công chứng viên chứng nhận. Việc giải thích pháp luật của
Công chứng viên là đối với tất cả các bên tham gia hợp đồng, giao
dịch. Và khi giải thích, công chứng viên với tư cách là người hiểu rõ

pháp luật, hậu quả pháp lý của các thỏa thuận trong giao dịch và
khách quan với tất cả các bên không được nghiêng về bên nào. Vấn
đề này được quy định rõ tại điểm d khoản 2 Điều 17 Luật Công
chứng năm 2014: “Giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ
6


quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa và hậu quả pháp
lý của việc công chứng…”.
- Quyền được giữ bí mật thông tin về nội dung công
chứng
Luật Công chứng năm 2014 có quy định nghiêm cấm công
chứng viên thực hiện các hành vi tiết lộ thông tin về nội dung công
chứng mà mình biết được khi hành nghề, trừ trường hợp được người
yêu cầu công chứng đồng ý bằng văn bản, hoặc pháp luật có quy
định khác; nghiêm cấm công chứng viên sử dụng thông tin đó để
xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Điều 17 quy định:
“Giữ bí mật về nội dung công chứng, trừ trường hợp được người yêu
cầu công chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định
khác”.
- Quyền được tự mình soạn thảo hoặc đề nghị công chứng
viên soạn thảo dự thảo hợp đồng, giao dịch
Để yêu cầu công chứng của người yêu cầu công chứng được
thực hiện thuận lợi và chính xác thì theo quy định tại Điều 40 và Điều
41 Luật Công chứng năm 2014, người yêu cầu công chứng được
quyền tự mình soạn thảo hợp đồng, giao dịch. Trong trường hợp
người yêu cầu công chứng không tự mình soạn thảo hợp đồng, giao
dịch thì người yêu cầu công chứng được quyền đề nghị công chứng
viên giúp mình soạn thảo hợp đồng, giao dịch.
- Quyền được yêu cầu cấp bản sao văn bản công chứng

Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 65 Luật Công chứng năm
2014, thì người yêu cầu công chứng là một trong những chủ thể có
thẩm quyền yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng cấp bản sao văn
bản công chứng. Tổ chức hành nghề công chứng có nghĩa vụ cấp bản
sao văn bản công chứng cho người yêu cầu công chứng là tổ chức
hành nghề công chứng đang thực hiện việc lưu trữ bản chính văn
bản công chứng, điều này được quy định tại khoản 2 Điều 64 Luật
Công chứng năm 2014.
- Quyền được mời người làm chứng cho hợp đồng, giao
dịch
Khoản 2 Điều 47 Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Trường
hợp người yêu cầu công chứng không đọc được, không nghe được,
không ký, điểm chỉ được hoặc trong những trường hợp khác do pháp
7


luật quy định thì việc công chứng phải có người làm chứng. Người
làm chứng là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ và không có quyền, lợi ích hoặc nghĩa vụ liên quan đến việc
công chứng. Người làm chứng do người yêu cầu công chứng mời, nếu
người yêu cầu công chứng không mời được thì công chứng viên chỉ
định”. Như vậy, với quy định này của Luật thì quyền mời người làm
chứng cho hợp đồng, giao dịch thuộc về người yêu cầu công chứng.
Công chứng viên sẽ chỉ được thực hiện việc chỉ định người yêu cầu
công chứng khi người yêu cầu công chứng không mời được người làm
chứng. Trong trường hợp, hợp đồng, giao dịch có người làm chứng thì
công chứng viên được quyền xem xét, đánh giá để xác định người
làm chứng (dù là do người yêu cầu công chứng mời hay công chứng
viên chỉ định) có đủ điều kiện theo quy định mà pháp luật đã ghi
nhận tại khoản 2 Điều 47 hay không.

- Quyền được yêu cầu thực hiện việc công chứng ngoài
trụ sở trong những trường hợp đặc biệt
Thông thường, việc công chứng phải được thực hiện tại trụ sở của tổ chức hành
nghề công chứng. Điều này được quy định tại khoản 1 Điều 44 Luật Công chứng năm
2014. Việc pháp luật đưa ra quy định này với ý nghĩa tại trụ sở của tổ chức hành nghề
công chứng là nơi có đầy đủ điều kiện đảm bảo cho công chứng viên hành nghề nhất
và cũng là nơi đảm bảo cho công chứng viên thực hiện được đúng theo các nguyên tắc
hành nghề công chứng mà luật quy định. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất
định thì người yêu cầu công chứng được quyền yêu cầu công chứng thực hiện ngoài
trụ sở. Theo quy định tại khoản 2 Điều 44 Luật Công chứng năm 2014 thì có ba trường
hợp người yêu cầu công chứng được quyền yêu cầu thực hiện việc công chứng ngoài
trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng, gồm: người yêu cầu công chứng già yếu,
không thể đi lại được; người đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án phạt tù hoặc
có lý do chính đáng khác không thể đến trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng.
- Quyền được yêu cầu công chứng đúng thời hạn
Thời hạn công chứng được xác định kể từ ngày công chứng viên thụ lý hồ sơ yêu
cầu công chứng đến ngày người yêu cầu công chứng được tổ chức hành nghề công
chứng trả kết quả công chứng. Thời gian xác minh, giám định nội dung liên quan đến
hợp đồng, giao dịch, niêm yết việc thụ lý công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di
sản, văn bản khai nhận di sản, dịch giấy tờ, văn bản không tính vào thời hạn công
chứng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 43 Luật Công chứng năm 2014, thời hạn công
chứng không quá 02 ngày làm việc; đối với hợp đồng, giao dịch yêu cầu công chứng
phức tạp thì thời hạn công chứng có thể kéo dài hơn nhưng không quá 10 ngày làm
8


việc. Do vậy, người yêu cầu công chứng có quyền yêu cầu công chứng viên thụ lý hồ
sơ thực hiện đúng thời hạn theo quy định của pháp luật.
- Quyền được yêu cầu sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng,
giao dịch

Theo quy định tại Điều 51 Luật Công chứng năm 2014 thì việc sửa đổi, bổ sung,
hủy bỏ hợp đồng, giao dịch đã được công chứng chỉ được thực hiện khi có sự thỏa
thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao dịch
đó và phải được công chứng.
Người thực hiện việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch
phải là công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng đã thực hiện việc công
chứng đó. Trường hợp tổ chức hành nghề công chứng đã thực hiện việc công chứng
chấm dứt hoạt động, chuyển đổi, chuyển nhượng hoặc giải thể thì công chứng viên
thuộc tổ chức hành nghề công chứng đang lưu trữ hồ sơ công chứng thực hiện việc sửa
đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch.
- Quyền được yêu cầu sửa lỗi kỹ thuật và thông báo về
việc sửa lỗi kỹ thuật
Trên thực tế, có nhiều trường hợp văn bản công chứng đã phát hành cho các bên
tham gia giao dịch có những lỗi kỹ thuật nhất định. Lỗi kỹ thuật này có thể là lỗi trong
những văn bản công chứng do công chứng viên soạn thảo hợp đồng, giao dịch, cũng
có thể là trong những văn bản do người yêu cầu công chứng soạn thảo hợp đồng, giao
dịch. Điều 50 Luật Công chứng năm 2014 quy định “lỗi kỹ thuật là lỗi do sai sót trong
khi ghi chép, đánh máy, in ấn trong văn bản công chứng mà việc sửa lỗi đó không làm
ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của người tham gia hợp đồng, giao dịch”. Người
yêu cầu công chứng khi phát hiện văn bản công chứng có lỗi kỹ thuật, được quyền đề
nghị công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng đã thực hiện việc công chứng
đó sữa lỗi kỹ thuật. Trường hợp tổ chức hành nghề công chứng đã thực hiện việc công
chứng chấm dứt hoạt động hoặc giải thể thì công chứng viên thuộc tổ chức hành nghề
công chứng đang lưu trữ hồ sơ công chứng thực hiện việc sửa lỗi kỹ thuật. Sau khi
hoàn tất việc sửa lỗi kỹ thuật trong văn bản công chứng, công chứng viên thực hiện
việc sửa lỗi kỹ thuật có trách nhiệm thông báo việc sửa lỗi kỹ thuật đó cho người tham
gia hợp đồng, giao dịch.
- Quyền được đề nghị Toà án tuyên bố văn bản công
chứng vô hiệu
Theo quy định tại Điều 52 Luật Công chứng năm 2014 thì người yêu cầu công

chứng là một trong những chủ thể có quyền đề nghị Tòa án tuyên bố văn bản công
chứng vô hiệu. Điều kiện để người yêu cầu công chứng cũng như các chủ thể khác
9


được quyền đề nghị Toà án tuyên vô hiệu đối với văn bản công chứng là khi có căn cứ
cho rằng việc công chứng có vi phạm pháp luật. Ngoài người yêu cầu công chứng, thì
các chủ thể khác cũng có quyền này, đó là: Công chứng viên, người phiên dịch, người
có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các đối tượng được nêu
ở trên đều có quyền đề nghị Toà án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu xuất phát từ
lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác.
- Quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại
Trong thực tế hoạt động công chứng, người yêu cầu công chứng cũng có thể là
một chủ thể bị gây thiệt hại. Nếu người yêu cầu công chứng bị gây thiệt hại thì người
yêu cầu công chứng được quyền yêu cầu bồi thường. Điều này được ghi nhận tại
khoản 4 Điều 3 Luật Công chứng năm 2014 về nguyên tắc hành nghề công chứng có
quy định: “Chịu trách nhiệm trước pháp luật và người yêu cầu công chứng về văn bản
công chứng”, đồng thời Điều 38 Luật Công chứng năm 2014 cũng đưa ra quy định:
“Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường thiệt hại cho người yêu cầu công
chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người
phiên dịch là công tác viên của tổ chức mình gây ra trong hoạt động công chứng”.
Với các quy định này của Luật thì chủ thể có trách nhiệm bồi thường đầu tiên cho
người yêu cầu công chứng là tổ chức hành nghề công chứng. Sau khi thực hiện việc
bồi thường cho người yêu cầu công chứng xong, tổ chức hành nghề công chứng được
quyền yêu cầu công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây
thiệt hại phải hoàn trả lại khoản tiền mà tổ chức hành nghề công chứng đã bồi thường
cho người yêu cầu công chứng.
- Quyền được đề nghị công chứng viên thực hiện việc xác
minh, giám định phục vụ cho hoạt động công chứng
Tại khoản 5 Điều 40 Luật Công chứng năm 2014: “Trong trường hợp có căn cứ

cho rằng trong hồ sơ u cầu cơng chứng có vấn đề chưa rõ, việc giao kết hợp đồng,
giao dịch có dấu hiệu bị đe dọa, cưỡng ép, có sự nghi ngờ về năng lực hành vi dân sự
của người yêu cầu công chứng hoặc đối tượng của hợp đồng, giao dịch chưa được mơ
tả cụ thế thì cơng chứng viên đề nghị người yêu cầu công chứng làm rõ hoặc theo đề
nghị của người yêu cầu công chứng, công chứng viên tiến hành xác minh hoặc yêu
cầu giám định; trường hợp không làm rõ được thì có quyền từ chối cơng chứng”.
Căn cứ theo khoản 3 Điều 57 Luật Công chứng năm 2014 thì việc cơng chứng
văn bản khai nhận di sản hoặc văn bản từ chối di sản: “Công chứng viên phải kiểm tra
để xác định người để lại di sản đúng là người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài
sản và những người yêu cầu công chứng đúng là người được hưởng di sản, nếu thấy
chưa rõ hoặc có căn cứ cho rằng việc để lại di sản và hưởng di sản là không đúng

10


pháp luật thì từ chối u cầu cơng chứng hoặc theo đề nghị của người yêu cầu công
chứng, công chứng viên tiến hành xác minh hoặc yêu cầu giám định”.
- Quyền được đề nghị tổ chức hành nghề công chứng lưu
giữ di chúc
Căn cứ theo Điều 60 Luật Công chứng năm 2014:
“1. Người lập di chúc có thể yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng nhận lưu
giữ di chúc của mình. Khi nhận lưu giữ di chúc, cơng chứng viên phải niêm phong bản
di chúc trước mặt người lập di chúc, ghi giấy nhận lưu giữ và giao cho người lập di
chúc, 2. Đối với di chúc đã được tổ chức hành nghề công chứng nhận lưu giữ nhưng
sau đó tổ chức này chấm dứt hoạt động, chuyển đổi, chuyển nhượng hoặc giải thể thì
trước khi chấm dứt hoạt động, chuyển đổi, chuyển nhượng hoặc giải thể, tổ chức hành
nghề công chứng phải thỏa thuận với người lập di chúc về việc chuyển cho tổ chức
hành nghề công chứng khác lưu giữ di chúc. Trường hợp khơng có thỏa thuận hoặc
khơng thỏa thuận được thì di chúc và phí lưu giữ di chúc phải được trả lại cho người
lập di chúc, 3. Việc công bố di chúc lưu giữ tại tổ chức hành nghề công chứng được

thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự”.
- Quyền được yêu cầu điểm chỉ đồng thời với việc ký
trong văn bản công chứng
Căn cứ theo khoản 3 Điều 48 Luật Cơng chứng năm 2014 thì việc điểm chỉ cũng
có thể thực hiện đồng thời với việc ký theo đề nghị của người yêu cầu công chứng.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 48 Luật Công chứng năm 2014: “Việc điểm chỉ được
thay thế việc ký trong trường hợp người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người
phiên dịch không ký được do khuyết tật hoặc không biết ký. Khi điểm chỉ, người yêu
cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch sử dụng ngón trỏ phải, nếu khơng
điểm chỉ được bằng ngón trỏ phải thì điểm chỉ bằng ngón trỏ trái, trường hợp khơng
thể điểm chỉ bằng hai ngón trỏ đó thì điểm chỉ bằng ngón khác và phải ghi rõ việc
điểm chỉ đó bằng ngón nào, của bàn tay nào”.
- Quyền được khiếu nại việc bị từ chối công chứng
Căn cứ theo quy định tại Luật Công chứng năm 2014, hợp đồng, giao dịch bằng
văn bản không trái pháp luật, khơng vi phạm đạo đức xã hội đều có quyền yêu cầu
được công chứng. Tuy nhiên, căn cứ theo quy định tại Điều 17 Luật công chứng năm
2014, công chứng viên có quyền được từ chối cơng chứng hợp đồng, giao dịch, bản
dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội. Người u cầu cơng chứng có quyền u
cầu cơng chứng viên giải thích rõ về việc lý do bị từ chối công chứng. Trong trường
hợp người yêu cầu công chứng cảm thấy lý do của Công chứng viên không thuyết
phục, hoặc cảm thấy bị cản trở việc công chứng đúng theo quy định pháp luật thì
11


người u cầu cơng chứng có quyền khiếu nại khi có căn cứ cho rằng việc từ chối đó
là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Quyền được u cầu cơng chứng tại cơ quan đại diện
Việt Nam ở nước ngoài
Căn cứ theo khoản 1 Điều 78 Luật Cơng chứng năm 2014 thì: “Cơ quan đại diện
ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở

nước ngoài được công chứng di chúc, văn bản từ chối nhận di sản, văn bản ủy quyền
và các hợp đồng, giao dịch khác theo quy định của Luật này và pháp luật về lãnh sự,
ngoại giao, trừ hợp đồng mua bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê,
thế chấp, góp vốn bằng bất động sản tại Việt Nam”.
- Quyền được yêu cầu công chứng văn bản thoả thuận
phân chia di sản thừa kế
Khi người sở hữu tài sản chết, phát sinh quyền thừa kế thì người thừa kế theo
pháp luật hoặc theo di chúc mà trong di chúc không xác định rõ phần di sản được
hưởng của từng người thì có quyền u cầu cơng chứng văn bản thỏa thuận phân chia
di sản. Trong văn bản thỏa thuận phân chia di sản, người được hưởng di sản có thể
tặng cho toàn bộ hoặc một phần di sản mà mình được hưởng cho người thừa kế khác.
Trường hợp thừa kế theo pháp luật, thì trong hồ sơ yêu cầu cơng chứng phải có giấy tờ
chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người được hưởng di sản theo quy
định của pháp luật về thừa kế. Trường hợp thừa kế theo di chúc, trong hồ sơ yêu cầu
cơng chứng phải có bản sao di chúc.
- Quyền được yêu cầu công chứng văn bản khai nhận di
sản thừa kế
Căn cứ theo khoản 1 Điều 58 Luật Công chứng năm 2014: “Người duy nhất
được hưởng di sản theo pháp luật hoặc những người cùng được hưởng di sản theo
pháp luật nhưng thỏa thuận khơng phân chia di sản đó có quyền u cầu cơng chứng
văn bản khai nhận di sản”.
- Quyền được yêu cầu công chứng văn bản từ chối nhận
di sản
Căn cứ theo Điều 59 Luật Công chứng năm 2014: “Người thừa kế có thể u cầu
cơng chứng văn bản từ chối nhận di sản. Khi yêu cầu công chứng văn bản từ chối
nhận di sản, người yêu cầu cơng chứng phải xuất trình bản sao di chúc trong trường
hợp thừa kế theo di chúc hoặc giấy tờ chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và
người yêu cầu công chứng theo pháp luật về thừa kế; giấy chứng tử hoặc giấy tờ khác
chứng minh người để lại di sản đã chết”.


12


Việc công chứng văn bản từ chối nhận di sản cũng có thể được Cơ quan đại diện
ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở
nước ngồi cơng chứng căn cứ theo khoản 1 Điều 78 Luật Công chứng năm 2014.
- Quyền khởi kiện vụ việc ra Toà án để giải quyết
Căn cứ theo Điều 76 Luật Công chứng năm 2014: “Trong trường hợp giữa
người yêu cầu công chứng và cơng chứng viên, tổ chức hành nghề cơng chứng có
tranh chấp liên quan đến hoạt động hành nghề công chứng thì các bên có quyền khởi
kiện vụ việc ra Tòa án để giải quyết tranh chấp đó”.
Căn cứ theo khoản 11 Điều 26 Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì việc tranh
chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án. Trong trường hợp giữa người yêu cầu công chứng và công
chứng viên, tổ chức hành nghề cơng chứng có tranh chấp liên quan đến hoạt động
hành nghề cơng chứng thì người u cầu cơng chứng có quyền khởi kiện vụ việc ra
Toà án để giải quyết.
- Một số quyền khác theo quy định của pháp luật
Ngoài các quyền cơ bản được liệt kê ở trên thì người yêu cầu công chứng còn
một số quyền khác như:
+ Quyền được đề nghị công chứng hợp đồng, giao dịch theo đúng quy định của
pháp luật;
+ Quyền được sử dụng tiếng Việt là ngôn ngữ trong hoạt động công chứng;
+ Quyền được mời người phiên dịch trong công chứng hợp đồng, giao dịch… và
các quyền khác được quy định trong Luật Công chứng năm 2014 và pháp luật khác
cho phép thực hiện.
3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT
3.1. Thực tiễn thực hiện quyền của người yêu cầu công
chứng

Cùng với sự phát triển của xã hội và kinh tế ở nước ta hiện nay, nhu cầu công
chứng của người dân ngày càng nhiều và các hợp đồng, giao dịch ngày càng mang tính
chất phức tạp hơn. Dưới đây là một số quyền của người yêu cầu công chứng mà học
viên nhận thấy được trong đời sống thực tiễn:
- Quyền công chứng hợp đồng, giao dịch tại nước ngoài
của người yêu cầu công chứng

13


Thực tiễn tại các cơ quan nhà nước kiêm nhiệm trong hoạt động công chứng (Đại
sứ quán, Lãnh sự quán...), do khơng có Cơng chứng viên phụ trách nên hoạt động công
chứng dường như không được thực hiện theo đúng nghĩa của nó. Thực tế cho thấy,
hầu hết các hợp đồng, giao dịch mà các cơ quan này chứng nhận là khơng đạt u
cầu. Điều đó dẫn đến một thực trạng, việc công chứng hợp đồng, giao dịch tại các cơ
quan này chủ yếu là chứng nhận về mặt hình thức, nhận dạng, xác định năng lực hành
vi dân sự mà không chú trọng đến nội dung của hợp đồng, giao dịch có hợp pháp hay
khơng.
- Quyền được u cầu tiến hành xác minh, yêu cầu giám
định.
Học viên đã được tiếp xúc qua các trường hợp xác minh về tình trạng hôn nhân
của người để lại di sản. Trường hợp là người yêu cầu công chứng yêu cầu xác minh
làm rõ tình trạng hơn nhân của người để lại di sản để tiến hành làm thủ tục khai nhận,
phân chia di sản. Nhưng trong thực tế sẽ có những khó khăn như việc người để lại di
sản thường trú ở rất nhiều nơi trước khi chết. Dẫn đến quá trình xác minh rất mất thời
gian và chi phí, nên sẽ có trường hợp công chứng viên từ chối nhận hồ sơ thừa kế của
người yêu cầu công chứng. Hoặc người yêu cầu công chứng không đủ chi phí để thực
hiện việc xác minh.
- Quyền được lựa chọn phương thức soạn thảo hợp đồng,
giao dịch

Thực tế có rất ít trường hợp người yêu cầu công chứng được sử dụng văn bản,
hợp đồng do bản thân người yêu cầu công chứng soạn thảo sẵn được công chứng.
Thay vào đó sẽ được công chứng viên hướng dẫn và soạn thảo lại văn bản, hợp đồng
giao dịch. Nguyên nhân khách quan xuất phát từ độ hiểu biết pháp luật của người dân,
cũng như việc sử dụng từ ngữ pháp lý trong văn bản công chứng. Trong thực tiễn khi
học viên được tiếp xúc một buổi làm việc tại tổ chức hành nghề công chứng, một số
loại hợp đồng, giao dịch sẽ được sử dụng sẵn theo mẫu, ví dụ như giấy uỷ quyền thực
hiện thủ tục, hợp đồng cho thuê, hợp đồng mua bán xe...
- Quyền được yêu cầu công chứng ngoài trụ sở
Thực tế vẫn có những trường hợp khơng nằm trong trường hợp được công
chứng ngoài trụ sở, nhưng do người yêu cầu cơng chứng khơng muốn tự mình ra tổ
chức hành nghề cơng chứng nên có thể dùng một số lý do khách quan hoặc nhờ cậy
vào sự quen biết với công chứng viên để ký ngoài trụ sở. Đây là một trong những bất
cập của tính chính xác, tính hợp pháp của việc chứng nhận hợp đồng giao dịch.
- Quyền được lựa chọn tổ chức hành nghề công chứng

14


Người yêu cầu công chứng được tự do lựa chọn nơi công chứng. Tuy nhiên, vẫn
còn tâm lý phân biệt giữa Phịng cơng chứng và Văn phịng cơng chứng. Đa số người
dân vẫn còn giữ suy nghĩ Phòng công chứng là của Nhà nước nên sẽ đảm bảo được
tính pháp lý cao hơn và chi phí cũng thấp hơn so với Văn phòng công chứng.

- Quyền được khiếu nại khi bị từ chối cơng chứng
Trong thực tiễn có ít trường hợp người yêu cầu công chứng khiếu nại. Nguyên
nhân là việc công chứng theo nhu cầu hiện nay đã “xã hội hố”, là một dịch vụ cơng,
người u cầu cơng chứng khi bị từ chối tại tổ chức hành nghề cơng chứng này hoàn
toàn có thể liên hệ với tổ chức hành nghề khác để công chứng hợp đồng, giao dịch.
Nên người yêu cầu công chứng lựa chọn giữa việc mất thời gian để khiếu nại và việc

đi nơi khác để cơng chứng thì họ sẽ lựa chọn việc cơng chứng tại nơi khác.
- Quyền được công chứng viên giải thích để hiểu rõ
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình, ý nghĩa và hậu
quả pháp lý của việc công chứng
Thực tế, trước khi ký kết hợp đồng, giao dịch thì người yêu cầu công chứng
không hề đọc lại hay được công chứng viên đọc cho người yêu cầu công chứng nghe.
Công chứng viên yêu cầu người yêu cầu công chứng ký để tránh làm mất thời gian. Vì
khi đọc như vậy sẽ mất rất nhiều thời gian. Một số người yêu cầu công chứng có sự
hiểu biết chưa sâu về pháp luật nên không hiểu rõ mình đang ký kết hợp đồng, giao
dịch gì. Và hậu quả pháp lý của việc công chứng sẽ ra sao khi xảy ra tranh chấp giữa
các bên.
- Quyền được giữ bí mật thông tin về nội dung công
chứng
Không ít trường hợp trong thực tế, thông tin về nội dung công chứng được tiết lộ
ảnh hưởng đến lợi ích của người yêu cầu công chứng. Như một số ngân hàng hoặc
dịch vụ nhà đất muốn nắm thông tin khách hàng về thửa đất đang muốn giao dịch, nên
có nhờ cậy một số tổ chức hành nghề công chứng quen biết để tra được thông tin về
nhân thân cũng như số tiền chuyển nhượng trên hợp đồng hoặc một số thông tin vay
mượn, thế chấp liên quan đến thửa đất. Việc tiết lộ thông tin gây phiền toái đến chủ sở
hữu và ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của các giao dịch có liên quan.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật

15


Những quy định về nhiệm vụ của người thực hiện công chứng, đồng thời quy
định về quyền của người yêu cầu công chứng cho thấy rõ hơn mục tiêu của hoạt động
công chứng là hướng tới phục vụ nhân dân và các tổ chức.
Phát triển đội ngũ công chứng viên đáp ứng yêu cầu thực tiễn (số lượng và chất
lượng) để vừa tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa nhưng vẫn bảo đảm cung cấp dịch vụ công

chứng đầy đủ, kịp thời tại các vùng địa bàn khó khăn. Phát triển các tổ chức hành nghề
công chứng đáp ứng yêu cầu về số lượng và phân bổ hợp lý, nhất là tại các vùng địa
bàn khó khăn; xác định mơ hình tở chức hành nghề cơng chứng phù hợp với điều kiện
mới. Tiếp tục thực hiện việc công chứng bắt buộc đối với những giao dịch quan trọng
trong đời sống xã hội nhằm bảo đảm giá trị pháp lý, tăng cường sự quản lý nhà nước;
bảo đảm sự phù hợp giữa các quy định của Luật Công chứng với các đạo luật có liên
quan như Luật Đất đai, Luật Hơn nhân gia đình, Luật Nhà ở…
Tăng cường quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực thông qua việc xác
định đúng đối tượng trọng tâm của công tác quản lý nhà nước về cơng chứng, chứng
thực để có các giải pháp, công cụ quản lý phù hợp, hiệu quả nhằm bảo đảm phát triển
hoạt động công chứng, chứng thực đúng định hướng; phát huy trách nhiệm tự quản
của tổ chức xã hội – nhà nước của công chứng viên phù hợp với quy định của pháp
luật và thông lệ quốc tế.
Công chứng viên tại các tổ chức hành nghề công chứng cũng cần phải thường
xuyên tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao kiến thức, cũng như rèn
luyện kỹ năng của bản thân trong những vấn đề xác nhận giấy tờ giả, người giả để đảm
bảo an toàn pháp lý cho các bên khi tham gia giao dịch cũng như bảo vệ cho chính bản
thân mình trong việc thực hiện giao kết hợp đồng, giao dịch.
Trong quá trình tìm hiểu pháp luật về quyền của người yêu cầu công chứng, cũng
như từ những thực tiễn mà bản thân học viên có cơ hội tiếp cận tại các tổ chức hành
nghề cơng chứng, học viên nhận thấy có rất nhiều trường hợp người dân gặp khó khăn
về các loại giấy tờ tuỳ thân. Hiện nay, giấy tờ tuỳ thân là căn cước cơng dân đã gắn
chip, đã có thông tin về các giấy tờ cũ như chứng minh nhân dân trong mã QR code,
tuy nhiên các thông tin này còn sai sót rất nhiều. Và mợt sớ tở chức hành nghề công
chứng vẫn đòi hỏi phải có chứng minh nhân dân cũ để chứng minh gây ra rất nhiều
những khó khăn và bất cập về thời gian và chi phí đi lại của người dân. Vì vậy, học
viên kiến nghị cần nâng cao công tác cập nhật cơ sở dữ liệu để tạo điều kiện cho người
dân tham gia hợp đồng, giao dịch được thuận lợi và nhanh chóng nhất.
Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động công chứng để thực
hiện chuyển đổi số trong hoạt động cơng chứng theo lộ trình phù hợp. Từng bước

chuyển đổi số trong hoạt động công chứng (thực hiện tồn bộ quy trình cơng chứng
thơng qua nền tảng cơng nghệ, cụ thể là là việc gửi yêu cầu công chứng, soạn thảo văn
16


bản công chứng, ký của các bên và của công chứng viên, thu - nộp phí, thù lao, lưu trữ
văn bản công chứng và cung cấp thông tin liên quan đến hồ sơ công chứng trên môi
trường điện tử); giá trị văn bản cơng chứng điện tử có giá trị như văn bản công chứng
trên giấy.
Xây dựng cơ sở dữ liệu cơng chứng tồn quốc với đầu mối là Trung tâm dữ liệu
công chứng quốc gia để cung cấp thông tin cho việc thực hiện công chứng của công
chứng viên, là đầu mối lưu trữ tồn bộ hồ sơ cơng chứng đã thực hiện, đồng thời là cơ
sở để thực hiện quản lý toàn bộ các hợp đồng, giao dịch đã được cơng chứng trong
phạm vi tồn quốc. Đồng thời liên thông các lĩnh vực liên quan đến công chứng (đất
đai, nhà ở, dân cư...).
Học viên cũng xin ý kiến thêm rằng cần liên thông cơ sở dữ liệu của các tổ chức
hành nghề cơng chứng, Văn phịng đăng ký đất đai, cơ quan Cơng an, Viện kiểm sát,
Tịa án, cơ quan Thi hành án dân sự để tránh việc người dân làm giả giấy tờ hoặc Công
chứng viên, Thẩm phán khơng cập nhật tình trạng đã tham gia giao dịch, bị tranh chấp,
bị kê biên của tài sản. Luật cơng chứng cũng cần có quy định việc lưu trữ hình ảnh,
đoạn phim ghi lại việc các bên tham gia giao dịch là có thật và tự nguyện để tránh
trường hợp phát sinh tranh chấp về sau.

17


PHẦN III: KẾT LUẬN
Một số những vấn đề còn tồn đọng trong thực tế về quyền của người yêu cầu
công chứng mà học viên đã nêu ở trên với mong muốn chỉ ra được những vấn đề bất
cập trong thực tế gây khó khăn cho người yêu cầu công chứng và những giải pháp

hoàn thiện sẽ đóng góp một phần nhỏ để làm rõ thêm về quyền của người yêu cầu
công chứng một cách đầy đủ và chính xác nhất. Cùng với đó là những giải pháp để các
tổ chức hành nghề công chứng ngày một hoàn thiện, làm việc một cách hiệu quả,
chính xác và đúng pháp luật tránh gây khó khăn cho người yêu cầu công chứng và
những tranh chấp phát sinh không đáng có.
Qua nghiên cứu bài báo cáo này cho học viên một cái nhìn tổng quát về các quy
định của pháp luật liên quan đến quyền của người yêu cầu công chứng. Quyền của
người yêu cầu công chứng luôn đi cùng nhiệm vụ, trách nhiệm của công chứng viên và
nghĩa vụ của người yêu cầu công chứng lại luôn đi cùng quyền hạn của công chứng
viên.
Trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu cũng giúp học viên có cái nhìn tổng quan,
tìm hiểu được những kiến thức bổ ích và bồi dưỡng thêm kỹ năng cần thiết để khắc
phục những bất cập còn tồn tại, thiếu sót của mình trong hoạt động cơng chứng.
Trên đây là bài viết báo cáo của học viên, trong quá trình nghiên cứu tìm hiểu và
thực hiện chun đề khơng thể tránh khỏi sự sai sót, học viên mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của quý Thầy, Cơ về bài báo cáo để học viên được hoàn thiện hơn về
nhận thức cũng như kiến thức của bản thân đối với chuyên đề.
Xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô!

18



×