I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Mát-su-ô Ba-sô (1644 – 1694) sinh trưởng trong một gia đình võ sĩ đạo Xa-mu-rai ở thành phố U-e-cô,
Nhật Bản. Các tác phẩm của ông để lại khá nhiều, sau này được sưu tập lại trong Ba Tiêu thất bộ tập. Ông
là bậc thầy của thơ hai-cư Nhật Bản. Thơ ông mang tính chất đơn sơ, tao nhã, cô liêu, trầm lắng, u buồn,
nhưng không chán chường, bi luỵ hay oán đời.
2. Thơ hai-kư là thể thơ vào loại ngắn nhất thế giới, chỉ có 17 âm tiết (một số bài nhiều hơn một chút),
ngắt nhịp thành 3 đoạn, theo thứ tự thường là : 5 âm- 7 âm- 5 âm). Mỗi bài thơ hai-kư đều có một tứ thơ
nhất định và thường chỉ ghi lại một phong cảnh với vài sự vật cụ thể, trong một thời điểm nhất định, để
từ đó khơi gợi lên một cảm xúc, một suy tư nào đó.
II. RÈN KĨ NĂNG
1. Về bài 1
Ba-sô quê ở Mi-ê. Ông lên Ê-đô ở được mười năm mới về thăm lại quê. Nhưng rồi Ba-sô đi mà lại thấy
Ê-đô, thấy Ê-đô thân thiết như quê hương mình.
Bài thơ này thể hiện tình cảm gắn bó thân thiết với nơi mình đang ở.
2. Về bài 2
Ba-sô ở kinh đô Ki-ô-tô từ thời trẻ, khi còn là chàng thanh niên. Sau đó lên Ê- đô. 20 năm sau, cuối đời
ông trở lại, nghe tiếng chim đỗ quyên hót mà mà viết bài này.
Chiêm đỗ quyên hót
ở kinh đô
mà nhớ kinh đô
Trong văn học Trung Quốc, chim Đỗ Quyên gắn với điển tích Vua Thục bị mất nước. Tuy nhiên ở đây
các nhà nho cố ý dịch ra thành chim cuốc vì nó cũng xuất hiện vào đầu hè, thường kêu rất buồn và còn
đồng âm với chữ quốc (nước).
Ở Nhật Bản, chim đỗ quyên là chim hô-tô-tô-ghi-su thường kêu vào đầu hè, nó không hót khi trời đẹp mà
hót khi trời xẩm tối, vào đêm trăng, sau khi trời mưa,… tiếng kêu rất tha thiết. Vì thế nó thường được
dùng để chỉ sự thương tiếc thời gian, đặc biệt là thể hiện nỗi buồn và sự vô thường. Ba-sô trở về kinh đô
sau 20 năm, nghe tiếng đỗ quyên mà nhớ kinh đô năm nào là thế.
3. Về bài 3
Năm 40 tuổi, Ba-sô làm một cuộc du hành đến Kan-sai gần quê nhà. Về đến nhà thì ông hay tin mẹ mất.
Người ta đưa lại cho ông di vật là một mớ tóc bạc. Ông đau đớn viết nên bài thơ này.
Nỗi xót xa đau đớn của nhà thơ được thể hiện ở giọt lệ nóng hổi rơi xuống bàn tay đang cầm mớ tóc của
người mẹ đã khuất. Quý ngữ (từ chỉ mùa) của bài thơ là sương thu. Làn sương thu ở đây là giọt lệ như
sương, hay mái tóc của mẹ bạc như sương, hay cuộc đời như giọt sương, ngắn ngủi vô thường,… Sương –
tóc – lệ tan hoà, tạo nên hình tượng thơ mờ ảo, đa nghĩa.
4. Về bài 4
Trong Du kí Phơi thân đồng nội viết năm 1685, Ba-sô kể chuyện một lần đi ngang qua cánh rừng ông
bỗng nghe thấy tiếng vượn hú. Tiếng ấy gợi ông nhớ đến tiếng khóc của một em bé bị bỏ rơi trong rừng.
Tiếng hú não nề
Hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc?
Gió mùa thu tái tê
Ở Nhật, ngày xưa vào những năm mất mùa có nhà không nuôi nổi con phải bỏ con vào rừng. Thậm chí
còn đang tâm giết đứa trẻ nữa. Nghe tiếng vượn hú mà Ba-Sô lại liên tưởng đến tiếng người. Tiếng vượn
hay chính là tiếng trẻ con khóc thật. Trong gió mùa thu hay tiếng gió đang than khóc cho nỗi đau của con
người.
5. Về bài 5
Bài thơ này Ba-Sô sáng tác khi đi du hành ngang qua một cánh rừng, ông thấy một chú khỉ nhỏ đang lạnh
run lên trong cơn mưa mùa đông. Nhà thơ tưởng tượng thấy chú khỉ đang thầm ước có một chiếc áo tơi
để che mưa, che lạnh.
Hình ảnh chú khỉ đơn độc trong bài thơ gợi lên hình ảnh người nông dân Nhật Bản, gợi hình ảnh những
em bé nghèo đang co ro trong cơn lạnh. Bài thơ thể hiện tình thương yêu sâu sắc của nhà thơ đối với
những kiếp người nghèo khổ.
6. Về bài 6
Bài thơ này miêu tả cảnh mùa xuân. Quanh hồ Bi-wa có trồng rất nhiều hoa anh đào. Mỗi khi gió thổi,
cánh hoa anh đào lại rụng lả tả như mây. Cánh hoa hồng nhạt, mong manh rụng xuống mặt hồ làm cho
mặt hồ gợn sóng. Cảnh tượng ấy thể hiện sự tương giao của các vật trong vũ trụ. Triết lí sâu xa nhưng lại
được thể hiện bằng những hình tượng giản dị, nhẹ nhàng. Đó chính là cảm thức thẩm mỹ của bài thơ.
7. Về bài 7
Bài thơ ra đời trong một lần Ba-sô leo lên núi đá để thăm chính điện chùa Riu-sa-ku-ji. Tiếng ve là thanh,
đá là vật. Nhưng trong cảnh u tịch, vắng lặng của chiều tà, khi tất cả đều im ắng hết lại có thể nghe được
tiếng ve rền rĩ như nhiễm vào, như thấm vào đá. Liên hệ đó độc đáo, kì lạ mà không hề khoa trương.
8. Về bài 8
Bài thơ này viết ở Ô-sa-ka (năm 1694). Đây là bài thơ từ thế của ông. Trước đó, ông đã thấy mình yếu
lắm rồi, như một cánh chim sắp sửa bay khuất vào chân trời vô tận.
Nhưng cả cuộc đời Ba- Sô là cuộc đời lang thang phiêu bồng, lãng du. Vì thế ngay cả khi sắp từ giã cõi
đời, ông vẫn còn lưu luyến lắm, vẫn còn muốn tiếp tục cuộc đi – đi bằng hồn mình. Và ta lại như thấy hồn
Ba- Sô lang thang trên khắp những cánh đồng hoang vu.
Các từ khóa trọng tâm " cần nhớ " của bài viết trên hoặc " cách đặt đề bài " khác của bài viết trên:
• soan van bai tho hai-cu cua ba-so
• bai tho Hai cu cu Ba sô
• hình ảnh nhà thơ nhật ba - so
• soa van bai tho hai cu cua baso
• soan bai tho hai-cư cua ba-sô
• www soan bai tho 2 chu cua nguoi ba-so,