Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Đa dạng, phân bố và bảo tồn thân mềm và giáp xác lớn ở vùng đất ngập nước trong Khu Dự trữ sinh quyển Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 14 trang )

BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM - HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA LẦN THỨ 5
DOI: 10.15625/vap.2022.0010

ĐA DẠNG, PHÂN BỐ VÀ BẢO TỒN THÂN MỀM VÀ GIÁP XÁC LỚN Ở
VÙNG ĐẤT NGẬP NƯỚC TRONG KHU DỰ TRỮ SINH QUYỂN ĐỒNG NAI
Đỗ Văn Nhượng1, Nguyễn Hoàng Hảo2, Nguyễn Lân Hùng Sơn1,*,
Trần Nam Hải1, Nguyễn Mạnh Hùng3, Đỗ Thị Hồng1
Tóm tắt. Các nhóm động vật đáy ở vùng đất ngập nước nội địa thuộc Khu Dự trữ
sinh quyển (KDTSQ) Đồng Nai cho đến nay cịn ít dẫn liệu. Động vật đáy chiếm hầu
hết đa dạng sinh học môi trường đất ngập nước ngọt, có thể coi như nhóm chỉ thị
cho vùng cảnh quan và sinh thái ở các vị trí địa lý khác nhau. Đồng thời cũng biểu
hiện cho mức độ đa dạng và độ che phủ của rừng liên quan đến thủy vực, cung cấp
thức ăn, nguồn nước và các điều kiện sinh thái cho hoạt động sống của các động
vật ở nền đáy. Nghiên cứu tại một số vùng đất ngập nước trong vùng lõi của Khu
Dự trữ sinh quyển (KDTSQ) Đồng Nai bao gồm Bàu Sấu (Vườn Quốc gia Cát Tiên),
hồ Trị An, hồ Bà Hào (Khu Bảo tồn Thiên nhiên - Văn hóa Đồng Nai) trong năm
2021 - 2022 đã bước đầu ghi nhận được 40 loài, thuộc 21 giống, 14 họ động vật
đáy của 3 nhóm: Thân mềm Chân bụng (Gastropoda), Hai mảnh vỏ (Bivalvia) và
Giáp xác mười chân (Decapoda). Trong số này có 1 lồi tơm họ Atyidae chưa thể
xác định được ở mức độ lồi, có 6 loài đặc hữu cho Việt Nam, Nam Bộ (Sinanodonta
jourdyi, Macrobranchium mekongense, Caridina subnilotica, C. uminensis, C.
haivanensis và Sayamia triangularis). Đáng lưu ý là các họ Atyidae, Palaemonidae
và Parathelphusidae rất đặc trưng cho khu hệ động vật phía Nam Trung Bộ, nhiều
lồi khơng phân bố ở Bắc Bộ, gần với khu hệ động vật của Thái Lan và Campuchia.
Từ khóa: Động vật đáy, thành phần loài, đặc hữu, đất ngập nước, Đồng Nai.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Động vật đáy bao gồm Thân mềm Chân bụng (Gastropoda), Hai mảnh vỏ (Bivalvia)
và Giáp xác mười chân (Decapoda) là thành phần quan trọng trong khu hệ động vật thủy
sinh vùng đất ngập nước tỉnh Đồng Nai. Đất ngập nước ở tỉnh Đồng Nai là thủy vực lớn
phía Đơng Nam Bộ, các nhóm Thân mềm (Mollusca) và Giáp xác lớn (Malacostraca) có


giá trị về khoa học, phân loại học, phân bố địa lý, đa dạng sinh học môi trường nước
ngọt, bảo tồn thiên nhiên và chỉ thị môi trường. Các giá trị thực tiễn của nhóm thủy sản
tơm, cua, thân mềm chân bụng và hai mảnh vỏ tuy không nhiều, khối lượng đánh bắt
không như hải sản vùng biển, nhưng là nguồn thực phẩm có giá trị trong đời sống hàng
ngày của cư dân vùng Đơng Nam Bộ. Diện tích mặt nước sơng, suối, hồ, bàu, ruộng
nước ở KDTSQ Đồng Nai là những thủy vực đặc hữu độc đáo về khu hệ thủy sinh vật.
Tuy nhiên, các dẫn liệu về một số nhóm động vật thủy sinh như thân mềm, giáp xác lớn
còn rất hạn chế.

1

Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Khu bảo tồn Thiên nhiên – Văn hóa Đồng Nai
3
Cơng ty GCF Việt Nam
*
Email:
2


86

BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM

Hồ Trị An và hồ Bà Hào
thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh
Đồng Nai, nằm trong khu vực
quản lý của Khu Bảo tồn Thiên
nhiên - Văn hóa (KBTTN-VH)
Đồng Nai, một trong hai vùng

lõi quan trọng của KDTSQ
Đồng Nai, là các hồ chứa có
diện tích lớn của tỉnh. Hồ Trị
An là một hồ nước nhân tạo
nằm trên sông Đồng Nai, thuộc
các huyện Vĩnh Cửu, Định
Quán, Thống
Nhất và Trảng
Bom, tỉnh Đồng Nai. Hồ là nơi
trữ nước để cung cấp cho Nhà
máy thủy điện Trị An. Hồ được
khởi công vào năm 1984 và
hồn thành đầu năm 1987. Hồ
có diện tích lớn nhất ở cao trình
62 m vào thời điểm tháng 10
đến tháng 12 hàng năm là
32.519,88 ha với dung tích
khoảng 2,8 tỷ m3, diện tích mặt
Hình 1. Vị trí các khu vực nghiên cứu và thu mẫu
nước trung bình để ni trồng
[Cite your source here.]
thủy sản có hiệu quả ở cao
trình56 m là 25.000 ha vào thời điểm tháng 1-2 và tháng 8-9. Diện tích mặt nước nhỏ nhất
ở cao trình 49 m và dung tích là 213 triệu m3 nước vào thời điểm tháng 5-6 là 7.500 ha.
Mức nước sâu trung bình 8,5 m (nơi sâu nhất 28 m), chiều dài khoảng 44 km, chiều rộng 8
km, diện tích lưu vực đến tuyến cơng trình xấp xỉ 15.400 km2 (Cơng ty Thủy điện Trị An,
2010). Hồ Bà Hào có tổng diện tích nhỏ hơn, khoảng 400 ha, nằm tại xã Mã Đà, huyện
Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Đây là hồ chứa nhỏ có dạng kéo dài điển hình và cịn nhiều dấu
tích của dịng chảy sơng. Dọc theo hai bên hồ là các vùng đất ngập nước rất điển hình với
sự phát triển của cây thủy sinh và thực vật bán ngập nước. Bàu Sấu nằm trong Vườn Quốc

gia (VQG) Cát Tiên là vùng lõi thứ hai của KDTSQ Đồng Nai. Năm 2005, vùng đất ngập
nước Bàu Sấu được UNESCO công nhận là khu Ramsar thứ hai của Việt Nam trong hệ
thống 9 khu Ramsar đã được công nhận ở Việt Nam cho đến nay, được đánh giá là vùng
đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế được bảo vệ nghiêm ngặt. Khu Ramsar Bàu Sấu
nằm ở độ cao khoảng 130 m so với mặt nước biển, với diện tích khoảng 13.759 ha, bao
gồm 5.360 ha đất ngập nước theo mùa và 151 ha đất ngập nước thường xuyên. Sự xâm
nhập của các loài ngoại lai như mai dương, cỏ trấp đã làm thu hẹp môi trường sống của
nhiều loài sinh vật dưới nước.
Nghiên cứu này nhằm bổ sung những dẫn liệu về nhóm động vật thân mềm và giáp
xác lớn còn thiếu trong bức tranh đa dạng sinh học của KDTSQ Đồng Nai đồng thời tạo


PHẦN 1. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC

87

cơ sở khoa học cho việc định hướng bảo tồn bền vững các vùng đất ngập nước đặc hữu ở
khu vực này.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Khu vực nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại các vùng đất ngập nước trong KDTSQ Đồng Nai, tập
trung chủ yếu ở Bàu Sấu (VQG Cát Tiên), hồ Trị An, hồ Bà Hào (KBTTN-VH Đồng Nai).
Mẫu được thu tại các vị trí nghiên cứu thể hiện cụ thể trong Bảng 1.
Bảng 1. Vị trí các điểm thu mẫu khu vực đất ngập nước Đồng Nai
Tọa độ
STT
Địa điểm
Vĩ độ Bắc (N) Kinh độ Đông (E)
Hồ Trị An
1. Phú Lý

11o15’34.85’’
107o09’58.36’’
o
2. Giữa hồ
11 12’32.15’’
107o09’35.99’’
3. Cầu Đồng Nai
11o06’46.36’’
107o02’29.13’’
4. Cầu La Ngà
11o09’37.45’’
107o16’08.21’’
o
5. Bến Nôm 2
11 06’49.84’’
107o09’41.54’’
6. Bờ Ngọc Định
11o11’37.49’’
107o16’29.38’’
Hồ Bà Hào
7. Hồ Bà Hào 1
11o15’43.71’’
107o05’26.91’’
8. Hồ Bà Hào 2
11o15’50.08’’
107o05’09.52’’
9. Hồ Bà Hào 3
11o15’27.39’’
107o04’36.82’’
o

10. Cầu chiến khu D
11 16’05.73’’
106o59’08.79’’
Bàu Sấu
11. Bàu Sấu 1
11o27’30.11’’
107o20’42.56’’
o
12. Bàu Sấu 2
11 27’32.47’’
107o20’34.18’’
13. Bàu Sấu 3
11o27’48.67’’
107o20’14.69’’
14. Bàu Cá
11o28’26.74’’
107o20’41.58’’
o
15. Bàu Chim
11 29’14.62’’
107o22’55.61’’

2.2. Thời gian nghiên cứu
Các đợt thực địa được tiến hành từ tháng 5/2021 và tháng 3/2022 (bị hạn chế do dịch
Covid-19). Sau đó là thời gian phân tích mẫu tại Phịng thí nghiệm khoa Sinh học, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội và đánh giá các kết quả thu được.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu mẫu: Mẫu thân mềm chân bụng và hai mảnh vỏ được thu theo
quy định lấy mẫu động vật không xương sống ở vùng nước nông trong tiêu chuẩn Việt
Nam (TCVN 7176:2002; ISO 7828:1985). Nguyên tắc chung là thu mẫu ở những nơi có

thể tiếp cận lấy được mẫu, theo vị trí đã xác định của nghiên cứu, nhằm mục đích tránh bỏ
sót thành phần lồi, sinh vật lượng, phân bố, các giai đoạn cá thể.


88

BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM

Dụng cụ lấy mẫu: Sử sụng các loại vợt cầm tay. Loại vợt miệng hình trịn có đường
kính 350 mm, mắt lưới bằng kim loại cỡ 1,2 mm, cán dài từ 100 cm đến 170 cm, có thể
tháo rời cán vợt và vợt; Loại vợt miệng nhỏ hơn, có đường kính miệng vợt 250 mm phù
hợp với vùng nước có diện tích bé, cán vợt có thể kéo dài theo u cầu; Gàu Peterson có
diện tích 0,1 m2. Với dụng cụ cào đáy, sử dụng công cụ của người dân thường cào trai,
hến ở sông, hồ phía Bắc Việt Nam, kéo ở tầng bùn sâu từ 50 - 100 mm, chiều rộng của
miệng cào 450 mm, sử dụng thuyền kéo hoặc tay kéo có dây dài 10 m, khoảng cách giữa
các nan kim loại 5 mm.
Phương pháp lấy mẫu: Lựa chọn cách lấy mẫu tùy thuộc vào đối tượng thân mềm và
giáp xác lớn trong sinh cảnh đã chọn, đặc điểm hiện trường bao gồm độ sâu, tốc độ dòng
chảy, kiểu nền đáy, thực vật ven bờ hoặc trong nền đáy, điều kiện an toàn, ước lượng diện
tích thu mẫu. Mẫu giáp xác lớn chủ yếu sử dụng vợt cầm tay mắt lưới 2 mm, vợt nơi có thực
vật ở nước, quanh rễ cây thủy sinh lơ lửng trong nước, những nơi nước chảy chậm hoặc
nước tĩnh. Mẫu thân mềm chân bụng được thu trên mặt bùn bằng cào đáy và lượm bằng
quan sát mắt thường ở vùng nước cạn, hoặc đãi bùn để thu mẫu ốc nhỏ khơng nhìn thấy do
nước đục. Mẫu thân mềm hai mảnh vỏ dùng cào đáy lớp bùn vùng nước sâu và dùng tay
hoặc chân để bắt trực tiếp những cá thể lớn trong nền đáy hoặc khe đá. Khu vực giữa hồ Trị
An nước sâu (16 m) dùng gàu đáy có dung tích 0,01 m3 thả xuống nền đáy, kéo lên và tách
mẫu khỏi bùn. Mẫu có thể lấy ở nhiều địa điểm khác nhau ở ven bờ hồ Trị An, Bà Hào, Bàu
Sấu hoặc trong suối chảy ra từ rừng, trong các vụng nước do sông cạn để lại, thu lượm tơm
trong các vị trí có thực vật thủy sinh, bề mặt nền đáy, nhặt mẫu ốc sống, trai trong nền đáy.
Tất cả các mẫu thân mềm ở các vị trí sau khi kết thúc thu lượm được gắn nhãn vị trí, sinh

cảnh, diện tích thu lượm. Đối với mẫu cịn sống được định hình trong cồn 70% và lưu giữ
mẫu. Các vỏ thân mềm khô được rửa và giữ khơ trong túi nilon có dán nhãn.
- Phương pháp phân tích, định loại mẫu: Định loại mẫu thân mềm chân bụng và hai
mảnh vỏ dựa vào các tài liệu đã xuất bản của các tác giả Đặng Ngọc Thanh và cộng sự
(1980), Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải (2017), Hong-Fa Lu et al. (2014). Định loại
Giáp xác lớn (Decapoda) theo các tài liệu của A. Fenner và Jr. Chace (1997), Y. Cai, P.
Naiyanetr and P. K. L. Ng (2004), Đặng Ngọc Thanh và Hồ Thanh Hải (2012), Ting Hui
Ng et al. (2020).
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thành phần loài
Kết quả điều tra trong năm 2021 và 2022 tại 15 điểm thu mẫu định tính và định
lượng trong phạm vi một số vùng đất ngập nước thuộc KDTSQ Đồng Nai đã ghi nhận
được 40 loài Thân mềm Chân bụng (Gastropoda), Hai mảnh vỏ (Bivalvia) và Giáp xác
mười chân (Decapoda) thuộc 14 họ, 21 giống. Trong số các loài đã phát hiện, đáng lưu ý
Thân mềm Chân bụng (Gastropoda) có 7 họ (Viviparidae, Ampulariidae, Planorbidae,
Bulinidae, Bithyniidae, Thiaridae và Buccinidae), Hai mảnh vỏ (Bivalvia) có 4 họ
(Arcidae, Mytilidae, Unionidae và Corbiculidae); Giáp xác mười chân (Decapoda) có 3 họ
(Palaemonidae, Atyidae và Parathelphusidae). Họ có số lồi nhiều nhất là Atyidae (8 loài),
Corbiculidae (6 loài), Ampulariidae và Viviparidae mỗi họ 5 lồi, các họ khác có số lồi ít


PHẦN 1. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC

89

hơn (từ 1 đến 4 loài). Kết quả này cho thấy số lượng loài chân bụng, hai mảnh vỏ và giáp
xác mười chân chưa đầy đủ so với số loài tiềm năng có thực ở thủy vực, tuy nhiên có thể
nhận xét khái quát chung:
- Về cấu trúc thành phần loài phù hợp với đặc điểm sông suối, thủy vực miền Đông
Nam Bộ (hồ nhân tạo, các bàu ngập nước vùng trũng), đại diện là các họ Ốc vặn

Viviparidae (các giống Filopaludina, Idiopoma, Cipangopaludina), Ốc nhồi
Ampullariidae (Pila), trai, hến thuộc các họ Unionidae (Ensidens, Pilsbryoconcha),
Corbiculidae (Corbicula), tôm thuộc các họ Palaemonidae (Macrobrachium), Atyidae
(Caridina). Giống Filopaludina là giống có nhiều lồi và phân lồi phổ biến ở lưu vực
sơng Mê Kơng (Prapassorn Krairut et al., 2020), ở Đồng Nai cũng có tới 5 loài và phân
loài. Về giáp xác rất phong phú các loài trong giống Caridina (8 loài), số lượng các loài
cua ít (2 loài).
Bảng 2. Thành phần loài và phân bố của thân mềm và giáp xác lớn ở vùng đất ngập nước
thuộc KDTSQ Đồng Nai
Phân bố
STT
Thành phần loài
1
2
3
4
5
6
7
8
MOLLUSCA
Gastropoda
Viviparidae
1
Filopaludina martensi (Frauenfeld,
++
+
+
1864)
+

2
Filopaludina martensi cambodjensis ++
+
++ ++
++
(Mabille & le Mesle, 1866)
+
+
+
+
3
Filopaludina sumatrensis (Dunker, +
++ ++
1852)
4
Idiopoma umbilicata (I. Lea, 1856)
++
++
+
5
Cipangopaludina chinensis (Gray,
++
1833)
+
Ampulariidae
6
Pomacea canaliculata (Lamark, 1822)
+
+
+

+
+
+
+
7
Pomacea maculata Perry, 1810
+
+
+
+
+
+
+
8
Pila ampullacea (Linnaeus, 1758)
+
9
Pila polita (Deshayes, 1830)
+
10
Pila conica (Wood, 1828)
+
Planorbidae
11
Gyraulus convexiusculus (Hutton,
+
1849)
Bulinidae
12
Indoplanorbis exutus (Deshayes,

+
1833)
13
Hippeutis umbilicalis (Benson, 1836)
++
Bithyniidae
14
Bithynia fuchsiana von Moellendorff,
+
1888


BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM

90

STT
15
16

17
18
19
20
21
22
23
24
25
26

27

Thành phần loài

Unionidae
Pilsbryoconcha compressa (Martens,
1860)
Ensidens ingallsianus (I. Lea, 1852)
Sinanodonta jourdyi (Morlet, 1886)
Corbiculidae
Corbicula blandiana Prime, 1864

32

Caridina subnilotica Dang, 1975

33
34

Caridina tonkinensis Bouvier, 1919
Caridina gracilirostris de Man, 1892

30

Phân bố
4
5

++
+


6

7

8

+

+
+
+

++
+

+
+
++

+

++

++
+

Corbicula fluminea (O. F. Müller,
1774)
Corbicula moreletiana Prime, 1867

Corbicula bocourti Morelet, 1865
Corbicula messageri Bavay et
Dautzenberg, 1901
Corbicula siamensis Prashad, 1928

3

+

BIVALVIA
Arcidae
Scaphula minuta Bgosh, 1922
Mytilidae
Limnoperna fortunei (Dunker, 1857)

31

29

2

Thiaridae
Melanoides tuberculatus Muller, 1774
Buccinidae
Anentome helena (V. D. Busch, 1847)

CRUSTACEA - DECAPODA
Palaemonidae
Macrobrachium lanchesteri (de Man,
1911)

Macrobrachium mekongense Dang,
1998
Macrobrachium
tratense
Cai,
Naiyanetr & P.K.L.Ng, 2004
Atyidae
Caridina nilotica (P. Roux, 1833)

28

1

++
++
++
+
+

+
+

++
+

++
+
++
+
+


++
+
++
+

++
+
++
+

++
+

++
+
++
+
++
++
+


PHẦN 1. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC

STT

Thành phần loài

35

36

Caridina uminensis Dang et Do, 2012
Caridina weberi de Man, 1892

37

Caridina haivanensis Dang et Do,
2010
Caridina sp. 1
Parathelphusidae
Heterothelphusa beauvoisi (Rathbun,
1902)
Sayamia triangularis (Dang et Ho,
2005)
Tổng

38
39
40

91

1

2

3
+


Phân bố
4
5

6
++
++
+

7

8

5

1

++
+
+
+

+
+

14

5

13


13

8

16

Ghi chú: (1): Thanh Sơn; (2): Phú Lý; (3): Cầu Đồng Nai; (4): Phú Cường; (5): Cầu La Ngà; (6):
Bàu Sấu; (7): Hồ Bà Hào; (8): Giữa hồ Trị An; +: Gặp 1-4 cá thể; ++: Gặp 5-9 cá thể; +++: Gặp
>10 cá thể.

- Tính chất đa dạng thành phần loài thể hiện phong phú về số lượng giống (21
giống), mỗi giống có gần 2 lồi, tuy nhiên một số giống có số lượng lồi khá nhiều như
Caridina, Corbicula (6 loài), Filopaludina (3 loài và phân loài).
- Số loài đặc hữu cũng chiếm tỷ lệ cao, tập trung trong giáp xác mười chân như
Macrobrachium mekongense, Caridina uminensis, C. haivanensis, C. subnilotica,
Sayamia triangularis và hai mảnh vỏ là Sinanodonta jourdyi, tỷ lệ đặc hữu tới 15 %, tập
trung vào 3 họ Atyidae, Parathelphusidae và Unionidae. Mức độ đặc hữu thể hiện trong
nhiều cấp như đặc hữu cho Việt Nam (C. subnilotica, C. haivanensis, Sinanodonta
jourdyi), đặc hữu cho vùng Nam Bộ (Macrobrachium mekongense, C. uminensis, Sayamia
triangularis).
- Các lồi có giá trị kinh tế là đối tượng đánh bắt, khai thác như Macrobrachium
lanchesteri, Macrobrachium mekongense, Macrobrachium tratense, trong giống Caridina,
Pila, Sinanodonta,… Đây chỉ là những đối tượng đánh bắt ngoài tự nhiên trong thủy vực
hồ Trị An. Tuy nhiên nhiều loài (Caridina) ít giá trị kinh tế nhưng chúng có vai trò quan
trong trong sinh thái, nằm trong chuỗi và lưới thức ăn của hệ sinh thái, góp phần phân hủy
vật chất hữu cơ đẩy nhanh vịng tuần hồn vật chất, là thức ăn cho các lồi động vật có
xương sống trong tự nhiên như cá và trong chăn nuôi.
3.2. Đa dạng theo từng nhóm Động vật đáy
- Đa dạng Thân mềm (Mollusca)

+ Thân mềm Chân bụng (Gastropoda) có 7 họ 11 giống và 16 loài. Trong các họ
này, họ Viviparidae, Ampullariidae có số lồi nhiều nhất (mỗi họ 5 lồi, chiếm 12,5%),
các họ khác từ 1 đến 4 loài. Số lượng lồi thân mềm chân bụng như vậy có thể chưa đầy
đủ so với thực tế có trong thủy vực sơng Đồng Nai, đặc biệt là những lồi có kích thước bé
dưới 3 mm. Hầu hết các loài thân mềm chân bụng ở đây gắn với khu hệ phía Nam Á


92

BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM

(Campuchia, Nam Thái Lan và Malaysia) như Filopaludina martensi, F. martensi
cambodjensis, F. sumatrensis, Idiopoma umbilicata, Pila conica, P. ampullacea, Clea
helena (Prapassorn et al., 2020) khác hẳn với khu hệ phía Bắc Việt Nam giàu các lồi ốc
vặn trong giống Angulyagra. Các loài phân bố rộng trong lưu vực sông Mê Kông gồm
Cipangopaludina chinensis, Idiopoma umbilicata, Filopaludina martensi cambodiensis.
Các loài ốc bươu vàng thuộc họ Ampullariidae (Pomacea canaliculata, P. maculata)
thuộc nhóm lồi di nhập từ Nam Mỹ gặp khá phổ biến ở các thủy vực nước ngọt trên lãnh
thổ Việt Nam và ở khu vực nghiên cứu. Về kích thước, các lồi thân mềm chân bụng lớn
nhất là các lồi trong họ Ampullariidae, chiều cao có thể đạt đến 62 mm, trọng lượng lên
đến hơn 15 g, các lồi có kích thước bé như Gyraulus convexiusculus chiều cao trong giới
hạn 0,5-1,0 mm. Nhóm lồi đặc hữu khơng gặp.
Bảng 3. Cấu trúc các bậc phân loại của thân mềm chân bụng, hai mảnh vỏ và giáp xác mười
chân ở vùng đất ngập nước thuộc KDTSQ Đồng Nai
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
STT
Tên họ

Tên giống
giống
%
loài
%
GASTROPODA
11
52,38
Số t,t
16
40,0
1
Cipangopaludina
1
2,5
1
Viviparidae
3
14,28
2
Filopaludina
3
7,5
3
Idiopoma
1
2,5
2
Ampullariidae
2

9,52
4
Pila
3
7,5
5
Pomacea
2
5,0
3
Planorbidae
1
4,76
6
Gyraulus
1
2,5
4
Bulinidae
2
9,52
7
Indoplanorbis
1
2,5
8
Hippeutis
1
2,5
5

Bithyniidae
1
4,76
9
Bithynia
1
2,5
6
Buccinidae
1
4,76
10
Clea
1
2,5
7
Thiaridae
1
4,76
11
Melanoides
1
2,5
BIVALVIA
6
28,57
11
27,5
12
Pilsbryoconcha

1
2,5
8
Unionidae
3
14,28
13
Ensidens
1
2,5
14
Sinanodonta
1
2,5
9
Corbiculidae
1
4,76
15
Corbicula
6
15,0
(=Cyrenidae)
10
Mytilidae
1
4,76
16
Limnoperna
1

2,5
11
Arcidae
1
4,76
17
Scaphula
1
2,5
CRUSTACEA
4
19,04
13
32,5
12
Atyidae
1
4,76
18
Caridina
8
20,0
13
Palaemonidae
1
4,76
19
Macrobrachium
3
7,5

14
Parathelphusidae
2
9,52
20
Heterothelphusa
1
2,5
21
Sayamia
1
2,5
Tổng
21
100
40
100

+ Thân mềm Hai mảnh vỏ (Bivalvia) có 3 họ vốn là những họ phổ biến ở nước ngọt
phía Bắc và Nam Việt Nam (Corbiculidae, Unionidae), 1 loài (Limnoperna fortunei) sống
ở nước ngọt trong họ Mytilidae. Về số lượng loài nhiều nhất là họ Corbiculidae (=


PHẦN 1. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC

93

Cyrenidae) 6 loài trong cùng giống Corbicula (C. bocourti, C. blandiana, C. siamensis, C.
fluminea, C. messageri, C. moreletiana), chiếm tới 54,5 % trong tổng số lồi hai mảnh vỏ
(11 lồi), sau đó là họ Unionidae có 3 lồi, chiếm 27,2 %, các họ khác chỉ có 1 lồi. Một

lồi có nguồn gốc biển là Scaphula minuta thuộc họ Arcidae. Nhìn chung tính chất đa
dạng thành phần lồi của nhóm này thể hiện đa dạng về số loài hơn số giống. Số loài đặc
hữu địa phương khơng có, 1 lồi đặc hữu vùng (Sinanodonta jourdyi). Tuy nhiên thân
mềm hai mảnh vỏ có giá trị thực phẩm cao, góp phần quan trọng trong mạng lưới thức ăn
tự nhiên và chỉ thị cho môi trường. Lồi Scaphula minuta vốn có nguồn gốc ở nước mặn
nhưng là loài phân bố rộng ở hồ Tole Sap (Campuchia), Sơng Bé thuộc địa phận Bình
Phước (Bogan A. et Do Van Tu, 2014), có thể thấy phân bố đã mở rộng đến lưu vực sơng
Đồng Nai. Thành phần lồi thân mềm hai mảnh vỏ tuy không phong phú bằng thân mềm
chân bụng nhưng cũng chiếm tỷ lệ nhất định trong trong thủy vực nghiên cứu, tới 27,5 %
tổng số loài. Đặc biệt giống Corbicula có số lồi cao chiếm ưu thế trong danh sách thể
hiện đặc điểm thủy vực sông Đồng Nai là mơi trường thích hợp cho giống này, ảnh hưởng
đến khối lượng sinh vật đáy, là cơ sở thực phẩm cho con người, một số loại cá và các sinh
vật tầng đáy khác. Nền đáy và tính chất của nước là yếu tố quyết định đến các quần thể hai
mảnh vỏ phát triển, tập tính sống vùi trong nền đáy, tốc độ nước chậm, độ sâu không lớn,
giàu mùn bã hữu cơ, nền đáy bùn cát là nơi tập trung mật độ cao như hồ Trị An là nơi
thích hợp. Nhóm lồi có nguồn gốc biển rất ít, chỉ có 2 lồi Limnoperna fortunei (trước là
L. siamensis) và Scaphula minuta.
- Đa dạng Giáp xác lớn (Malacostraca: Decapoda)
Đã ghi nhận được 13 loài Giáp xác lớn (Malacostraca) thuộc bộ Mười chân
(Decapoda) với 3 họ, 4 giống (Bảng 2). Trong số các họ đã phát hiện, đáng lưu ý họ
Atyidae có số lồi nhiều nhất (8 lồi), các họ khác có số lồi ít hơn (từ 1 đến 3 lồi). Tỷ lệ
số loài giáp xác mười chân trong động vật đáy chiếm 32,5 %. Kết quả này cho thấy số
lượng loài giáp xác mười chân chưa đầy đủ so với lồi có thực ở thủy vực. Về tơm đã phát
hiện 11 loài thuộc 2 họ. Hai họ Atyidae và Palaemonidae phân bố ở nước ngọt phổ biến ở
nước ta và vùng Đơng Nam Á. Palaemonidae cịn gọi là họ tơm càng, ở thủy vực sơng
Đồng Nai có 1 giống Macrobrachium (M. lanchesteri, M. mekongense, M. tratense), các
loài trong giống này vốn phổ biến ở đồng bằng Nam Bộ, vùng Tây Nguyên (M.
mekongense, M. lanchesteri) lưu vực sông Mê Kông (M. tratense) thuộc địa phận Thái
Lan (Cai et al., 2004). Atyidae (họ tơm riu) có tới 4 lồi được mơ tả lần đầu ở Việt Nam
trong giống Caridina: C. haivanensis, C. subnilotica, C. uminensis, C. tonkinensis. Các

lồi cịn lại đã biết trong khu vực Đông Nam Á như C. gracilirostris, C. tonkinensis, C.
wberi (Dang Ngoc Thanh et al., 2012). Điều đáng lưu ý là khu vực Bàu Sấu là nơi tập
trung số loài Caridina phong phú nhất (tới 5 loài), số lượng cá thể cũng rất phong phú
trong mỗi lần lượm mẫu. Như dự án phục hồi cá sấu nước ngọt ở Bàu Sấu cho thấy, đây là
vùng đất thấp của rừng mưa nhiệt đới ẩm Đông Nam Bộ, vừa là vùng chuyển tiếp từ vùng
cao Tây Nguyên đến đồng bằng, vừa nằm trong lưu vực, cũng là nơi điều tiết nước từ Bàu
Sấu ra sông Đồng Nai và lưu thông nước từ sơng vào bàu. Như vậy có thể coi đây là hệ
sinh thái đất ngập nước mở, tính đa dạng sinh học cao, điển hình là sự đa dạng của các lồi
tơm trong giống Caridina. Các lồi tơm có giá trị kinh tế cao như Macrobrachium
lanchesteri, M. mekongensis, M. tratense là đối tượng đánh bắt, khai thác ở lòng hồ Trị


BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM

94

An. Các loài này chưa thấy gây nuôi mà chỉ khai thác trong tự nhiên. Các loại tôm riu
(Atyidae) phần lớn sống ven bờ chưa được khai thác, trong tự nhiên chỉ là thức ăn cho các
loài cá ăn thịt. Về cua (Brachyura) trong thủy vực sơng Đồng Nai có 1 họ
Parathelphusidae. Trong họ này chỉ có 2 lồi Heterothelphusa beauvoisi và Sayamia
triangularis là những lồi chỉ gặp ở phía Nam Việt Nam, trong đó Sayamia triangularis
cho đến nay là lồi đặc hữu, mơ tả lần đầu ở Việt Nam.
3.3. Sự phân bố của các loài
- Phân bố của thân mềm
Thành phần loài thân mềm chân bụng đã phát hiện ở khu vực nghiên cứu đều là
những loài phân bố rộng ở Campuchia, Thái Lan và vùng nhiệt đới châu Á (Đặng Ngọc
Thanh, Hồ Thanh Hải, 2012, 2017; Cai et al., 2004; Ting Hui Ng et al., 2020). Nhóm lồi
có nguồn gốc biển chỉ gặp Scaphula minuta, Anentome helena. Có thể chia phân bố của
thân mềm chân bụng và hai mảnh vỏ thành các khu vực có nền đáy khác nhau. Đối với
nền đáy bùn sét, sỏi sạn vùng lòng hồ Trị An, hồ Bà Hào gặp chủ yếu các loài ốc họ

Viviparidae thuộc các giống Filopaludina, Idiopoma và Cipangopaludina, nền đáy khu
vực này thích hợp cho di chuyển của chân bụng ăn trong nền đáy. Đặc biệt ở Bàu Sấu,
Bàu Cá khơng gặp các lồi trong họ Viviparidae có thể do tính chất của nền đáy. Ở Bàu
Sấu tuy thành phần cơ giới của nền đáy là sét đến thịt nặng, độ pH thấp (4,8-5,0) do xác
hữu cơ quá nhiều từ thực vật trong nước, thực vật ven bờ và các nguồn khác đưa đến, làm
cho khả năng bám của chân bụng trong nền đáy khơng có, độ chua khá cao nên khơng là
nơi thích hợp cho nhóm ốc này. Tuy nhiên đối với các loài ốc ăn nổi trên mặt nước như
Ốc nhồi Pila ampulacea, P. polita, P. conica, kể cả các loài di nhập như Ốc bươu vàng
trong giống Pomacea cũng gặp ở đây. Một số lồi Ốc có kích thước bé (Gyraulus
convexiusculus, Indoplanorbis exutus, Hippeutis umbilicalis) sống bám vào cây thủy sinh
cũng chỉ gặp trong Bàu Sấu.
Nhóm Hai mảnh vỏ gặp nhiều hơn cả là các loài Hến (Corbicula), Trai
(Sinanodonta, Esident, Pilsbryoconcha), Hà sông (Limnoperna) trong hồ Trị An, chưa
thấy trong hồ Bà Hào và Bàu Sấu. Mật độ Corbicula ở hồ Trị An rất cao, thăm dò bằng
cào đáy một số điểm quanh hồ có tới 25-29 cá thể/m2, tập trung cao ở khu vực bến Nôm 2
(xã Phú Cường, Định Quán). Đặc biệt khá phổ biến Hà sông (Limnoperna fortunei) ở nơi
có giá thể nền đáy trong hồ như đá, sỏi, gỗ. Nền đáy và tính chất của nước là yếu tố quyết
định đến các quần thể hai mảnh vỏ phát triển, tập tính sống vùi trong nền đáy, tốc độ nước
chảy chậm, độ sâu nhỏ, giàu mùn bã hữu cơ, nền đáy bùn cát là nơi tập trung mật độ cao.
- Phân bố của giáp xác mười chân
Ở 3 vị trí chính của khu vực nghiên cứu là hồ Trị An, hồ Bà Hào, Bàu Sấu. Trong
các điểm này, hồ Trị An là nơi có diện tích lớn nhất, thủy chế nước lên xuống cũng lớn
nhất, mẫu giáp xác thu được cũng bao gồm đầy đủ nhất. Nơi đây hình thành nghề khai
thác thủy sản lớn nhất của miền Đơng Nam Bộ, các lồi tơm có kích thước lớn, có giá trị
kinh tế cao là Macrobrachium lanchesteri, M. mekongense và M. tratense được khai thác
quanh năm cả mùa khô và mùa mưa bằng các công cụ đánh bắt thông dụng. Loài cua đặc
hữu Sayamia triangularis cũng thấy ở ven hồ, theo nhận xét của Đặng Ngọc Thanh (2012)


PHẦN 1. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC


95

là loài phổ biến ở Bình Phước, trong các bàu và sơng. Khu vực hồ Bà Hào chỉ gặp một
lồi tơm càng Macrobrachium lanchesteri kích thước nhỏ ở ven bờ, ngồi ra chưa thu
được các loài khác. Khu vực Bàu Sấu nằm trong hệ thống các bàu liền nhau với Bàu Cá,
Bàu Chim, vào mùa mưa các bàu thường thông nhau, độ sâu trung bình chỉ từ 0,5 - 0,8 m,
có độ dày mùn bã ở đáy rất lớn, khá nhiều cây thủy sinh chìm trong nước và thực vật nổi
trên mặt. Tuy nhiên, Bàu Sấu có hầu hết các lồi tơm trong họ Tơm riu (Atyidae) có tới 7
lồi, nhiều lồi là đặc hữu của Việt Nam. Các lồi tơm riu thường cư trú quanh các gốc cây
thủy sinh nổi trên mặt nước, khơng gặp trong tầng đáy nước vì nhiều bùn và yếm khí.
3.4. Các lồi động vật đáy nguy cấp, quý, hiếm, đặc hữu, có giá trị khoa học, kinh tế
cần bảo vệ, phục hồi và phát triển
Các loài đặc hữu. Thành phần các loài đặc hữu trong thân mềm ở thủy vực Trị An,
hồ Bà Hào, Bàu Sấu không nhiều so với Giáp xác (Decapoda), chỉ gặp 1 loài Sinanodonta
jourdyi, loài này thuộc bậc đặc hữu Việt Nam, cịn lại 5 lồi là những lồi đặc hữu trong
bộ Giáp xác mười chân (Decapoda) (bảng 4).
Bảng 4. Thành phần loài động vật đáy ở vùng đất ngập nước thuộc KDTSQ Đồng Nai
có giá trị bảo tồn, giá trị kinh tế
Đặc Kinh Khoa
Loài cần
STT
Tên loài
Quý Hiếm
hữu
tế
học
bảo vệ
GASTROPODA
1

Cipangopaludina chinensis
x
x
2
Filopaludina sumatrensis
x
x
3
Filopaludina martensi
4
Filopaludina martensi cambodjensis
x
x
5
Idiopoma umbilicata
x
x
6
Pila polita
x
x
x
7
Pila conica
x
x
x
8
Pila ampullaria
x

x
x
9
Anentome helena
x
x
BIVALVIA
10 Pilsbryoconcha compressa
x
x
x
11 Ensidens ingallsianus
x
x
x
12 Sinanodonta jourdyi
x
x
x
x
13 Corbicula fluminea
x
x
14 Corbicula blandiana
x
x
15 Corbicula bocourti
x
x
16 Corbicula messageri

x
x
17 Corbicula moreletiana
x
x
18 Corbicula siamensis
x
x
19 Limnoperna fortunei
x
CRUSTACEA - DECAPODA
20 Macrobrachium lanchesteri
x
x
x
x
21 Macrobrachium mekongense Dang,
x
x
x
x
x
1998


BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM

96

STT

22
23
24
25
26
27
28
29
30
31

Tên loài
Macrobrachium tratense
Caridina nilotica
Caridina subnilotica
Caridina tonkinensis
Caridina gracilirostris
Caridina uminensis
Caridina weberi
Caridina haivanensis
Heterothelphusa beauvoisi
Sayamia triangularis
Tổng

Đặc
hữu
x
x
x
x

6

Kinh
tế
x

Khoa
học
x

x
x
x
x
x
x
x
x
27

x
x
x
x
x
x
x
x
29


Q

Hiếm

x

x
x
x
7

x
x
x
3

Lồi cần
bảo vệ
x

x
x
11

Các lồi có giá trị khoa học. Nói chung các lồi thân mềm đều có giá trị khoa học
cho dù kích thước nhỏ hay lớn. Giá trị khoa học thể hiện ở nhiều khía cạnh như sinh thái,
địa động vật, tiến hóa, thực phẩm, chế biến đồ gia dụng, vị trí trung gian truyền bệnh, các
loài ngoại lai xâm hại và đánh giá chất lượng mơi trường nước.
Các lồi q, hiếm. Các lồi động vật đáy thủy vực Trị An, Bàu Sấu, hồ Bà Hào có
những lồi q hiếm, phân bố hẹp (Caridina uminensis, C. haivanensis, Sayamia

triangularis) nếu khai thác cạn kiệt khả năng phục hồi rất kém. Một số lồi tuy khơng
hiếm nhưng môi trường nước ngày càng ô nhiễm, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, xả thải
của các cơ sở công nghiệp, chế biến nông sản, phá rừng đầu nguồn làm tốc độ bồi lắng cao
sẽ ảnh hưởng đến môi trường sống của tất cả các loại thân mềm, giáp xác mười chân, đặc
biệt sinh vật ngoại lai như Ốc bươu vàng (Pomacea) đã đẩy các loại ốc bản địa ra khỏi
mơi trường sinh sống làm hiếm dần các lồi.
Các lồi có giá trị kinh tế. Có 27 lồi thường xuyên được cư dân đánh bắt để bổ
sung cho nguồn thực phẩm hàng ngày cho con người và cho chăn ni. Một số lồi có
kích thước lớn được bán có giá trị thương phẩm (Ốc nhồi - Pila polita, Pila conica, Pila
ampulacea). Các loài ốc bươu vàng xâm nhập vào thủy vực đã làm mất nhiều loài bản địa
cần được lưu ý. Các lồi tơm có giá trị kinh tế đang khai thác trong hồ Trị An
(Macrobrachium lanchesteri, M. mekongense, M. tratense) có thể tránh mùa vụ tơm mang
trứng để có nguồn giống phát triển bền vững lâu dài.
4. KẾT LUẬN
Đã xác định được 40 loài Thân mềm Chân bụng (Gastropoda), Hai mảnh vỏ
(Bivalvia) và Giáp xác mười chân (Decapoda) ở vùng đất ngập nước thuộc KDTSQ Đồng
Nai thuộc 14 họ, 21 giống. Gastropoda có 16 lồi, chiếm 40 %, Bivalvia có 11 lồi, chiếm
27,5 % và Giáp xác Decapoda có 13 lồi, chiếm 32,5 % tổng số lồi. Có 6 lồi đặc hữu
vùng, 27 lồi có giá trị kinh tế, 28 lồi có giá trị khoa học, 11 lồi cần bảo vệ.
Đặc điểm phân bố của thân mềm, giáp xác mười chân ở thủy vực Trị An phong phú,
mật độ cao ở các loài Hến (Corbicula), giáp xác mười chân có mật độ cao và phong phú
trong giống Caridina ở Bàu Sấu. Loài phân bố rộng trong thủy vực bao gồm tôm càng


PHẦN 1. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC

97

Macrobrachium lachesteri, M. mekongense, các loài ốc Filopaludina martensi
cambodjensis, đặc biệt 2 loài Ốc bươu vàng (Pomacea) cần được tiêu diệt.

Cần kiểm sốt mơi trường, chống xả thải các chất chưa xử lý của các khu cơng
nghiệp và các xí nghiệp chế biến nông sản ra sông Đồng Nai và Bàu Sấu để bảo vệ các
loài động vật trong nền đáy và thủy vực.
Lời cảm ơn: Nghiên cứu được hỗ trợ kinh phí từ Dự án bảo tồn các hệ sinh thái nước đặc
hữu tại Khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai và sự giúp đỡ của Ban Quản lý KDTSQ Đồng
Nai, Ban Giám đốc KBTTN-VH Đồng Nai. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Arthur E. Bogan and Van Tu Do, 2014. Two freshwater bivalve species new to the fauna
of Vietnam (Mollusca: Bivalvia: Arcidae and Unionidae). Tropical Natural History
14(2): 113-116.
Cai Y., Naiyanetr and P. K. L. Ng, 2004. The freshwater prawns of the genus
Macrobrachium Bate, 1868, of Thailand (Crustacea: Decapoda: Palaemonidae).
Journal of Natural History 38: 581-649.
Fenner A., Chace Jr., 1997. The Caridean Shrimps (Crustacea: Decapoda) of the Albatross
Philippine Expedition, 1907-1910, Part 7: Families Atyidae, Eugonatonotidae,
Rhynchocinnetidae, Bathypalaemonellidae, Processidae, and Hippolytidae.
Smithsonian Instituttion Press, Washington, D.C.
Hong-Fa Lu, Li-Na Du, Zhi-Qiang Li, Xiao-Yong Chen, Jun-Xing Yang, 2014.
Morphological analysis of the Chinese Cipangopaludina species (Gastropoda;
Caenogastropoda: Viviparidae). Zoological Research 35 (6): 510−527.
Prapassorn Krairut, Bungorn Thawnon-ngiw and Bangon Kongin, 2020. Genetic diversity
of genus Filopaludina in the upper northeastern Mekong Basin of Thailand revealed
by mitochondrial DNA sequences. Interdisciplinary Research Review, Volume 15,
Number 3: 39-43.
Đặng Ngọc Thanh, Thái Trần Bái, Phạm Văn Miên, 1980. Định loại động vật không
xương sống nước ngọt Bắc Việt Nam. Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải, 2007. Cơ sở thủy sinh học (Fundamentals of
Hydrobiology). Nxb. Khoa học Tự nhiên và Công nghệ.
Đặng Ngọc Thanh, Đỗ Văn Tứ, 2007. Một số lồi tơm mới giống Caridina (Crustacea,
Decapoda - Atyidae) ở Việt Nam. Tạp chí Sinh học 29(4): 1-12.

Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải, 2012. Tôm cua nước ngọt Việt Nam (Palaemonidae,
Atyidae, Parathelphusidae, Potamidae). Nxb. Khoa học Tự nhiên và Công nghệ.
Đặng Ngọc Thanh, Hồ Thanh Hải, 2017. Trai, ốc nước ngọt nội địa Việt Nam (Mollusca:
Gastropoda, Bivalvia). Động vật chí Việt Nam, Tập 29. Nxb. Khoa học Tự nhiên và
Công nghệ.


BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM

98

Ting Hui Ng, Ekgachai Jeratthitikul, Chirasak Sutcharit, Samol Chhuoy, Kakada Pin,
Arthit Pholyotha, Warut Siriwut, Ruttapon Srisonchai, Zeb S. Hogan, Peng Bun
Ngor, 2020. Annotated checklist of freshwater molluscs from the largest freshwater
lake in Southeast Asia. ZooKeys 958: 107-141.

MOLLUSCA AND MALACOSTRACA IN SOME WETLAND IN DONG NAI
BIOSPHERE RESERVE: DIVERSITY, DITRIBUTION AND
CONSERVATION
Do Van Nhuong1, Nguyen Hoang Hao2, Nguyen Lan Hung Son1,*,
Tran Nam Hai1, Nguyen Manh Hung3, Do Thi Hong1
Abstract. An investigation on molluscs and crustaceans was conducted at 15
sites of three main wetland area in Dong Nai Biosphere Reserve including Bau
Sau lake, Tri An hydropower reseroir, Ba Hao lake in 2021 - 2022. As a result, a
total of 40 species of mulluscs and cruatceans (Malacostraca: Decapoda)
belonging to 14 families, 21 genera, were recorded. Six species (Sinanodonta
jourdyi, Macrobranchium mekongense, Caridina subnilotica, C. uminensis, C.
haivanensis and Sayamia triangularis) are endemic of Vietnam and Southern
Vietnam. In addition, there are 27 species of economic value, 28 species of
scientific value, and 11 species that need to be protected. It is noteworthy that

the families Atyidae, Palaemonidae and Parathelphusidae are very specific to the
fauna of the South-Central region, many species are not distributed in the North,
close to the fauna of Thailand and Cambodia. Widely distributed species in the
study area include the crayfish Macrobrachium lachesteri, M. mekongense, snails
such as Filopaludina martensi cambodjensis, especially 2 species of golden apple
snail (Pomacea) that need to be exterminated. It is necessary to control the
environment and prevent the discharge of untreated substances from industrial
parks and agricultural processing enterprises into Dong Nai River and Bau Sau
lake to protect animals in the bottom and water bodies.
Keywords: Mollusca, Malacostraca,
conservation, wetlands, Dong Nai.

1

Hanoi National University of Education
Dong Nai Culture and Nature Reserve
3
GCF Vietnam Co. Ltd
*
Email:
2

diversity,

distribution,

endemic,




×