BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM - HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA LẦN THỨ 5
DOI: 10.15625/vap.2022.0020
ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI VÀ GIẢI PHẪU LOÀI DẺ TÙNG SỌC TRẮNG HẸP
Amentotaxus argotaenia (Hance) Pilg. TẠI TỈNH SƠN LA
VÀ TỈNH HỒ BÌNH
Phan Thị Thanh Huyền1, Nguyễn Gia Hồng Đức2,
Nguyễn Thế Hưởng2, Vũ Quang Nam2,*
Tóm tắt. Dẻ tùng sọc trắng hẹp (Amentotaxus argotaenia (Hance) Pilg.) thuộc họ
Thơng đỏ (Taxaceace), là một trong số những lồi cây bản địa của Việt Nam. Loài
thường được người dân bản địa khai thác để lấy gỗ làm nhà, làm các vật dụng gia
đình hoặc làm cảnh. Trên thế giới, loài được xếp vào mức Sắp bị đe doạ (NT) do
lồi có phân bố hẹp, thường mọc theo đám, số lượng cá thể cây mẹ gieo giống ít
và nạn phá rừng làm nương rẫy. Từ quan sát thực tế và giải phẫu lá loài
Amentotaxus argotaenia từ tỉnh Sơn La và Hồ Bình, cho thấy: lồi có chiều cao
vút ngọn (Hvn) dao động từ 7-13 m, đường kính ngang ngực (D1.3) dao động từ
8-16 cm, nhỏ hơn rất nhiều so với các tài liệu đã công bố trước đây (từ 50-80
cm). Bộ rễ của loài Dẻ tùng sọc trắng hẹp phát triển rất tốt, số lượng rễ nhiều; cây
tái sinh có bộ rễ chùm rất phát triển. Ra nón từ tháng 11-12 năm trước và nón
chín tháng 3-4 năm sau. Cây trưởng thành có tầng cutin ở mặt trên của lá nhỏ
hơn ở cây tái sinh. Các tế bào mô cứng nằm độc lập hoặc tập trung thành cụm
phía trên và dưới bó mạch. Tỷ lệ bề dày của cả lớp cutin và biểu bì/bề dày lá cây
trưởng thành nhỏ hơn cây tái sinh, chứng tỏ tính bảo vệ và chống chịu ở cây tái
sinh là cao hơn cây trưởng thành, tương ứng với đó là nhu cầu quang hợp ở cây
trưởng thành là cao hơn cây tái sinh. Có từ 16-25 hàng khí khổng xếp dày đặc
trên mỗi dải khí khổng. Tỷ lệ mô dậu/mô khuyết ở Amentotaxus argotaenia khá
thấp 0,31-0,36 điều này chứng tỏ lồi có khả năng chịu bóng. Như vậy,
Amentotaxus argotaenia cây ưa bóng và có khả năng chống chịu tốt. Kết quả này
là cơ sở khoa học để đề xuất các biện pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm thúc đẩy tái
sinh tự nhiên của loài phục vụ cơng tác bảo tồn và phát triển lồi ngồi tự nhiên,
đồng thời là cơ sở khoa học bước đầu cho việc nhân giống, thiết kế kỹ thuật gây
trồng bảo tồn loài Dẻ tùng sọc trắng hẹp ở khu vực nghiên cứu.
Từ khố: Amentotaxus argotaenia, giải phẫu, hình thái, Hồ Bình, Sơn La.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Dẻ tùng sọc trắng hẹp (Amentotaxus argotaenia (Hance) Pilg.) thuộc họ Thông đỏ
(Taxaceace), là một trong số những lồi cây bản địa có phân bố ở vùng Tây Bắc của Việt
Nam và thường mọc ở đỉnh núi cao từ 950-1500 m so với mực nước biển, trong những
khu rừng Á nhiệt đới thường xanh cây lá rộng, trên vùng núi đá vôi. Trên thế giới phân bố
ở phía Nam Trung Quốc, Lào (Hilton-Taylor và cộng sự, 2013). Ở Việt Nam, Dẻ tùng sọc
trắng hẹp thường mọc rải rác trên diện tích nhỏ ở một số Vườn quốc gia hoặc Khu bảo tồn
thiên nhiên thuộc các tỉnh như: Lào Cai, Hịa Bình, Sơn La, Thanh Hóa, Thái Nguyên,
1
Trường Đại học Tây Bắc
Trường Đại học Lâm nghiệp
Email: ;
2
182
BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM
Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ (Nguyễn Đức Tố Lưu & Philip Ian Thomas, 2004;
Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2004).
Dẻ tùng sọc trắng hẹp thường được người dân bản địa khai thác để lấy gỗ làm nhà,
làm các vật dụng gia đình hoặc làm cảnh. Trên thế giới, loài được xếp vào mức Sắp bị đe
doạ (NT), song trước đó năm 1998 lồi được xếp vào mức Sắp nguy cấp (VU) (HiltonTaylor và cộng sự, 2013). Nguyên nhân gây suy thoái của các quần thể Dẻ tùng sọc trắng
hẹp chính là do lồi này có phân bố hẹp, thường mọc theo đám, số lượng cá thể cây mẹ
gieo giống cịn ít do tái sinh kém, cùng với nạn phá rừng, khai phá nương rẫy đã làm mất
môi trường sống của chúng khiến số lượng cá thể ngày càng suy giảm.
Đã có những nghiên cứu về lồi trên một số phương diện, tuy nhiên những quan sát
về hình thái và vật hậu của loài ở những điểm phân bố nhất định hay những đặc điểm về
giải phẫu lá nhằm bổ sung các dẫn liệu về lồi thì cịn hiếm gặp. Kết quả của nghiên cứu
nhằm góp phần bảo tồn và phát triển nguồn gen cây bản địa một cách hiệu quả loài
Amentotaxus argotaenia tại tỉnh Sơn La và Hoà Bình.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và vật liệu
Đối tượng là loài Dẻ tùng sọc trắng hẹp (Amentotaxus argotaenia) có phân bố tự nhiên
tại Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Nha, tỉnh Sơn La và Khu bảo tồn thiên nhiên Hang Kia - Pà
Cị, tỉnh Hồ Bình. 60 lá bánh tẻ của loài được lấy ngẫu nhiên trên các cây trưởng thành và
cây tái sinh, được bảo quản tươi trong thùng xốp dùng cho nghiên cứu về giải phẫu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Các đặc điểm về hình thái và vật hậu được quan sát vào 04 mùa/năm. Các đặc
điểm về thân, cành, phân cành, lá, rễ, chồi,… được ghi chép chi tiết ở ngoài thực địa phục
vụ cho nghiên cứu về hình thái và vật hậu của lồi.
- Nghiên cứu giải phẫu lá dựa theo phương pháp của Trần Công Khánh (1981) và
Ngô Thị Cúc (2010). Trên mỗi lá bánh tẻ, tách mảnh cỡ 2 x 5 mm phần giữa thịt lá (khơng
q gần gân chính và mép lá) và phần gân chính cỡ 5 mm. Các mẫu trên được cố định
trong khuôn parafin và được cắt bằng máy cắt vi thể quay tay Rotary Miccrotome có nhãn
hiệu CUT 4060 (MICROTEC, Đức).
- Phương pháp nhuộm mầu: Thực hiện theo phương pháp của Trần Công Khánh
(1981). Vi phẫu sau khi cắt được ngâm và tẩy sạch mẫu bằng nước Javen 50 % trong thời
gian từ 15 - 30 phút để loại hết chất nguyên sinh của tế bào. Rửa sạch nước Javen bằng
nước cất. Tiếp đó, ngâm vào nước có pha axit axetic 1 % trong vịng 5 phút để loại bỏ hết
nước Javen cịn dính lại. Lại rửa sạch hết mùi axit axetic loãng bằng nước cất. Nhuộm đỏ
trong dung dịch cacmine - phèn chua (1 g carmine + 10 g phèn chua + 200 mL nước cất)
khoảng 25-30 phút. Rửa qua trong nước cất rồi nhuộm trong dung dịch xanh metylen 1 %
trong khoảng 1 phút. Rửa sạch bằng nước cất rồi quan sát trong giọt glyxerin. Vách tế bào
bằng xenluloza sẽ bắt màu hồng; vách tế bào hóa gỗ, hóa suberin sẽ bắt màu xanh.
- Các thông số về: Bề dày tầng cutin trên, dưới; biểu bì trên, dưới; mơ dậu; mơ
khuyết được đo đếm bằng kính hiển vi quang học OPTIKA MICROSCOPE, M-699 có
gắn Optikam PRO 3 Digital Camera, ở độ phóng đại 400 lần.
PHẦN 1. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC
183
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điểm hình thái của lồi Dẻ tùng sọc trắng hẹp tại Sơn La và Hoà Bình
Kết quả điều tra và tổng hợp số liệu từ mơ tả đặc điểm hình th ằng chồi và bằng hạt. Mặt
khác cây Dẻ tùng sọc trắng hẹp lại là cây đơn tính khác gốc nên việc điều tra vật hậu càng
gặp nhiều khó khăn hơn. Việc xác định được chính xác mùa sinh trưởng, thời gian ra nón
và mùa nón chín của lồi Dẻ tùng sọc trắng hẹp tại 2 tỉnh Sơn La và Hịa Bình đã góp
phần bổ sung thêm dẫn liệu về nghiên cứu vật hậu phục vụ cho cơng tác bảo tồn lồi Dẻ
tùng sọc trắng hẹp. Đây là điểm mới mà các công bố trước đây (Nguyễn Đức Tố Lưu và
Philip Ian Thomas, 2004; Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2006) chưa đề cập đến (thời gian ra nón
và thời gian nón chín). Tuy nhiên, cần có nghiên cứu tiếp tục về chu kỳ ra hoa kết quả
của loài Dẻ tùng sọc trắng hẹp để có phương án bảo tồn thích hợp.
3.2. Đặc điểm cấu tạo giải phẫu lá của loài Dẻ tùng sọc trắng hẹp
Lá Dẻ tùng sọc trắng hẹp tương đối dày, cứng, có hình dải thon nhọn ở đỉnh lá. Mặt
trên và dưới lá có màu sắc khác biệt rõ rệt: mặt trên lá có màu xanh đậm, mặt dưới có màu
xanh sáng hơn, có hai dải trắng chạy song song với trục gân lá, có kích thước gần bằng
đường biên lá. Giải phẫu lá Dẻ tùng sọc trắng hẹp ở cây trưởng thành và cây tái sinh cho
các chỉ tiêu được thể hiện ở Bảng 2 dưới đây.
PHẦN 1. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC
187
Bảng 2. Kết quả phân tích giải phẫu lá Dẻ tùng sọc trắng hẹp
Loại
cây
Cây
trưởng
thành
Cây tái
sinh
Chỉ tiêu giải phẫu (µm)
MK
MD/MK BBD
CCT
BBT
MD
20,00
37,45
165,48
533,07
0,31
26,04
34,89
163,51
464,98
0,36
CTD
BDL
MDH
38,12
37,47
831,58
698,55
50,78
22,11
762,30
628,49
Ghi chú: CTT: Cutin trên; CTD: Cutin dưới; BBT: Biểu bì trên; BBD: Biểu bì dưới; BDL: Bề dày lá;
MD: Mơ dậu; MK: Mơ khuyết; MDH: Mơ đồng hố.
Gân giữa và bó mạch: Gân chính nằm trục giữa lá, lồi lên cao hơn ở mặt trên của lá.
Ở mặt cắt ngang, có thể nhận thấy cấu trúc bó mạch gồm một bó mạch đơn chạy dọc theo
gân giữa lá, gồm một dải xylem và phloem; kích thước các bó mạch nhỏ dần từ đầu đến
đỉnh lá và được bao bọc bởi mô truyền (transfusion tracheid). Mô truyền, khái niệm được
Ghimire và cộng sự (2014) đề cập đến khi tiến hành giải phẫu so sánh các chi của
Taxaceae, là mơ được tìm thấy đặc trưng xung quanh bó mạch của lá cây hạt trần, chức
năng chính của mơ truyền tại vị trí này là cung cấp nước và chất khống cho các mơ mềm
phía rìa để có thể thực hiện quang hợp. Các tế bào mô truyền tiếp xúc với các tế bào mô
cứng nằm xen kẽ trong lớp trung mô theo hướng vuông góc với bó mạch (Hình 5).
Hình 5. Dẻ tùng sọc trắng hẹp (Amentotaxus argotaenia). Phần cắt qua gân chính (trái) và
phần thịt lá (phải). ep-u: biểu bì trên; ep-l: biểu bì dưới; xy: xylem; phl: phloem; scl: mơ cứng;
hyp: hạ bì (dạng mơ cứng); tt: mơ truyền; c: cutin; p: mô dậu; s: mô khuyết; f: sợi.
Ảnh: Phan Thị Thanh Huyền.
Mơ cứng bó mạch là những tế bào dạng sợi, có thành dày bao quanh bó mạch theo
tồn bộ chiều dài của lá. Các tế bào này nằm độc lập hoặc tập trung thành cụm phía trên
và dưới bó mạch. Một ống tiết nhựa nằm dưới bó mạch. Theo Ghimire và cộng sự (2014)
thì các mơ cứng bó mạch này chỉ thấy xuất hiện ở chi Amentotaxus và Torreya mà khơng
có ở Taxus, Pseudotaxus và Austrotaxus, do đó đây là một đặc điểm giải phẫu quan trọng
để phân biệt các nhánh chính trong họ Taxaceae.
Thịt lá: Qua giải phẫu lát cắt ngang phiến lá cho thấy bề mặt phiến lá được phủ lớp
cutin khá dày so với lớp biểu bì bên dưới. Tỷ lệ bề dày của lớp cutin ở mặt trên/dưới ở cây
188
BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM
trưởng thành là 20/37,47 m (0,53) và ở cây tái sinh là 26,04/22,12 m (1,18). Như vậy,
cây trưởng thành có tầng cutin ở mặt trên của lá thấp hơn ở cây tái sinh, phù hợp với quy
luật chung của các lồi thực vật.
Biểu bì: Biểu bì gồm 1 hàng tế bào dạng hình bầu dục xếp sít nhau, được phủ phía
trên bởi tầng cutin. Cả lớp biểu bì trên và dưới của cây trưởng thành (37,45/38,12 m) và
cây tái sinh đều rất dày (34,89/50,78 m) so với bề dày lá. Lớp biểu bì trên ở cây trưởng
thành dày hơn lớp biểu bì trên ở cây tái sinh và ngược lại khi so sánh lớp biểu bì dưới cho
thấy khả năng chống chịu với các điều kiện bất lợi và sự thoát hơi nước của cây. Điều này
thường thấy ở đa số lồi cây (lớp biểu bì trên dày hơn lớp biểu bì dưới). Tỷ lệ bề dày của cả
lớp cutin và biểu bì/bề dày lá ở mặt trên của lá ở cây trưởng thành là 0,07 m và ở cây tái
sinh là 0,08 m; tương ứng ở mặt dưới của lá là 0,09 m và 0,095 m. Điều này chứng tỏ
tính bảo vệ, chống chịu và sức thoát hơi nước ở cây tái sinh là cao hơn cây trưởng thành.
Dải khí khổng: Mặt dưới của lá có hai dải khí khổng nằm song song với gân chính,
có chức năng chính là thốt hơi nước và trao đổi khí. Kích thước dải khí khổng (stomatal
bands) nhỏ hơn một chút so với hai dải biên lá, có từ 16-25 hàng (rows) khí khổng xếp dày
đặc trên mỗi dải khí khổng (Hình 6).
Hình 6. Dẻ tùng sọc trắng hẹp (Amentotaxus argotaenia), thể hiện phần sợi nằm xen kẽ trong
thịt lá, bắt màu xanh (trái) và các hàng khí khổng màu trắng trong một dải khí khổng của lá
(phải). Cả hai hình đều khơng thể hiện sự có mặt của khí khổng ở dải khí khổng.
Ảnh: Phan Thị Thanh Huyền, Vũ Quang Nam.
Một cấu trúc khá đặc biệt trong cấu tạo giải phẫu lá Dẻ tùng sọc trắng hẹp là có sự
xuất hiện của các sợi nằm rải rác và xuyên suốt trong phần thịt lá (Hình 6); chúng là các tế
bào mô cứng kéo dài, chạy theo hướng khác nhau ngay bên dưới lớp biểu bì. Đây cũng là
một trong những cấu tạo đặc trưng chỉ được tìm thấy trong chi Amentotaxus và
Cephalotaxus của họ Taxaceae (Ghimire và cộng sự, 2014). Nhờ có cấu tạo này là lá trở
nên cứng và chắc hơn rất nhiều.
Trung mô: Nằm giữa hai lớp biểu bì trên và biểu bì dưới là trung mơ bao gồm các tế
bào mơ mềm đồng hố. Qua tiêu bản cắt ngang lá có thể thấy sự biệt hố rõ rệt của lớp mơ
dậu và mơ khuyết (mơ xốp) (Hình 5). Lớp mơ dậu chỉ gồm 1 lớp tế bào; chúng là các tế
bào mơ mềm có dạng trụ dài, xếp xít nhau, nằm ngay dưới lớp biểu bì trên theo hướng
thẳng góc với bề mặt lá. Vách tế nào mỏng, chứa nhiều lục lạp với chức năng chính là
quang hợp. Chiếm đa số trong tổng chiều dày của phần trung mô là mô khuyết, gồm các tế
bào có hình dạng khơng đồng đều, để hở nhiều khoảng gian bào chứa khí. Các tế bào mơ
khuyết có vách mỏng, chứa ít lục lạp hơn các tế bào mơ dậu. Tỷ lệ mô dậu/mô khuyết
phản ánh nhu cầu ánh sáng của cây, tỷ lệ này ở Dẻ tùng sọc trắng hẹp khá thấp 0,31-0,36
điều này chứng tỏ Dẻ tùng sọc trắng hẹp là cây có khả năng chịu bóng.
PHẦN 1. NGHIÊN CỨU CƠ BẢN TRONG SINH HỌC
189
Với các đặc điểm hình thái lá và các chỉ tiêu về giải phẫu lá có thể bước đầu nhận định:
Dẻ tùng sọc trắng hẹp là cây ưa bóng và có khả năng chống chịu tốt. Kết quả này là cơ sở
khoa học để đề xuất các biện pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm thúc đẩy tái sinh tự nhiên của
loài phục vụ cơng tác bảo tồn và phát triển lồi ngồi tự nhiên. Đây cũng là cơ sở khoa
học bước đầu cho việc nhân giống, thiết kế kỹ thuật gây trồng bảo tồn loài Dẻ tùng sọc trắng
hẹp ở khu vực nghiên cứu.
4. KẾT LUẬN
- Kết quả điều tra và tổng hợp số liệu từ mơ tả đặc điểm hình thái Dẻ tùng sọc trắng
hẹp tại Sơn La và Hồ Bình, kết hợp tham khảo một số tài liệu, các đặc điểm hình thái của
lồi đã được mơ tả chi tiết, gồm: đặc điểm hình thái thân, lá, rễ và đặc điểm vật hậu.
- Lồi có chiều cao vút ngọn (Hvn) dao động từ 7-13 m, đường kính ngang ngực
(D1.3) dao động từ 8-16 cm, nhỏ hơn rất nhiều so với các tài liệu đã công bố trước đây (từ
50-80 cm). Bộ rễ của loài Dẻ tùng sọc trắng hẹp phát triển rất tốt, số lượng rễ nhiều, cây
tái sinh có bộ rễ chùm rất phát triển. Ra nón từ tháng 11-12 năm trước và nón chín tháng
3-4 năm sau.
- Các đặc điểm giải phẫu lá (gân giữa và bó mạch, thịt lá, biểu bì, khí khổng, trung
mơ) được mơ tả chi tiết. Trong đó, cây trưởng thành có tầng cutin ở mặt trên của lá thấp
hơn ở cây tái sinh; các tế bào mô cứng nằm độc lập hoặc tập trung thành cụm phía trên và
dưới bó mạch; tỷ lệ bề dày của cả lớp cutin và biểu bì/bề dày lá cây trưởng thành nhỏ hơn
cây tái sinh, chứng tỏ tính bảo vệ và chống chịu ở cây tái sinh là cao hơn cây trưởng
thành, tương ứng với đó là nhu cầu quang hợp ở cây trưởng thành là cao hơn cây tái sinh.
Có từ 16-25 hàng khí khổng xếp dài đặc trên mỗi dải khí khổng. Tỷ lệ mơ dậu/mô khuyết
ở Dẻ tùng sọc trắng hẹp khá thấp 0,31-0,36 điều này chứng tỏ lồi có khả năng chịu bóng.
- Với các đặc điểm hình thái lá và các chỉ tiêu về giải phẫu lá có thể bước đầu nhận
định: Dẻ tùng sọc trắng hẹp là cây ưa bóng và có khả năng chống chịu tốt. Kết quả này là cơ
sở khoa học để đề xuất các biện pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm thúc đẩy tái sinh tự nhiên
của lồi phục vụ cơng tác bảo tồn và phát triển loài ngoài tự nhiên. Đây cũng là cơ sở khoa
học bước đầu cho việc nhân giống, thiết kế kỹ thuật gây trồng bảo tồn loài Dẻ tùng sọc trắng
hẹp ở khu vực nghiên cứu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ghimire, B., Lee, C. H. & Heo, K., 2014. Leaf anatomy and its implications for
phylogenetic relationships in Taxaceae s.l. Journal of Plant Research, 127: 373-388.
Hilton-Taylor, C., Yang, Y., Rushforth, K. & Liao, W., 2013. Amentotaxus argotaenia.
The IUCN Red List of Threatened Species 2013: e.T42545A2986540.
/>Ngô Thị Cúc, 2010. Hình thái, giải phẫu học thực vật. Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Đức Tố Lưu và Philip Ian Thomas, 2004. Cây lá kim Việt Nam. Nhà xuất bản
Thế giới.
Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2004. Cây lá kim Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
190
BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM
Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2006. Một số loài cây bị đe dọa ở Việt Nam. Nhà xuất bản Nơng
nghiệp, Hà Nội.
Trần Cơng Khánh, 1981. Thực tập hình thái và giải phẫu thực vật. Nhà xuất bản Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 171 trang.
ANATOMICAL AND MORPHOLOGICAL CHARACTERISTICS OF
Amentotaxus argotaenia (Hance) Pilg. AT SON LA AND HOA BINH
PROVINCES
Phan Thi Thanh Huyen1, Nguyen Gia Hong Duc2, Nguyen The Hưong2,
Vu Quang Nam2,*
Abstract. Amentotaxus argotaenia (Hance) Pilg., belonging to the family
Taxaceace, is one of the native tree species of Vietnam. The species is often
exploited by indigenous people for timber such as building houses, household
items or ornamental plants. In the world, the species is listed as Near Threatened
(NT) due to its narrow distribution, often growing in groups, low number of
mother plants, and deforestation for swidden cultivation. From actual
observations and leaf anatomy of Amentotaxus argotaenia from Son La and Hoa
Binh provinces, it shows that: species with Hvn ranges from 7-13 m, D1.3 ranges
from 8-16 cm, much smaller than that of Amentotaxus argotaenia from
previously published documents (from 50-80 cm). The root system of
Amentotaxus argotaenia is very well developed with the high number of roots
and cluster root of the regenerated tree has a very developed. Female cones
borne from November to December of the previous year and become ripe from
March to April of next year. The cuticle on the upper surface of mature plants is
lower than that of regenerating plants. Scherenchyma are located independently
or clustered above and below of the vascular bundle. The ratio of thickness of
both cuticle and epidermis/leaf thickness of mature trees is smaller than that of
regenerated plants, indicating that the protective and tolerant properties of
regenerated plants are higher than that of mature plants, corresponding to the
need photosynthesis in mature plants is higher than in regenerating plants.
There are 16-25 rows of stomata densely arranged on each band of stomata. The
ratio of palisade/spongy tissue in Amentotaxus argotaenia is quite low, ca. 0.310.36, which proves that the species has shade tolerance. Thus, Amentotaxus
argotaenia is shade-loving and has good tolerance. This result is a scientific basis
for proposing silvicultural techniques to promote the natural regeneration of
species for conservation and development of species in the wild, as well as an
initial scientific basis for the propagation, design of planting techniques and
conservation of Amentotaxus argotaenia in the study areas.
Keywords: Anatomy, Amentotaxus argotaenia, Hoa Binh, morphology, Son La.
1
2
Tay Bac University
Vietnam National University of Forestry
Email: ;