Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Du lịch làng nghề vạn phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.49 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KHOA ……

--- š&› ---

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN:
“Phát triển du lịch bền vững tại Làng nghề Lụa Vạn Phúc, Hà Đông,
thành phố Hà Nội”

Sinh viên thực hiện:
Mã sinh viên:
Giảng viên hướng dẫn:


HÀ NỘI - 2022

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

3
I.

TỔNG QUAN VỀ ĐIỂM DU LỊCH LÀNG LỤA VẠN
PHÚC, HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

4

1.1 Làng nghề dệt lụa truyền thống Vạn Phúc, Hà Đông

4



1.2. Bảo tồn và phát huy làng nghề dệt lụa

6

truyền thống Vạn Phúc
II.

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI LÀNG

8

LỤA VẠN PHÚC, HÀ ĐƠNG
2.1. Tình hình phát triển sản xuất và phát triển du lịch tại

8

làng nghề
2.2. Những tác động của quá trình phát triển kinh tế - xã hội
và du lịch tới làng nghề

10

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN DU
LỊCH LÀNG NGHỀ DỆT LỤA VẠN PHÚC THEO
HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
3.1. Giải pháp về quy hoạch du lịch đối với phát triển du
lịch tại làng nghề truyền thống dệt lụa Vạn Phúc. 
3.2. Giải pháp về môi trường


12
12
13

KẾT LUẬN

14

TÀI LIỆU THAM KHẢO

14
Trang



MỞ ĐẦU
Sự phát triển của du lịch nói chung đã và đang góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy
mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt
Nam. Để tạo điều kiện phát triển nhanh và bền vững cho ngành du lịch, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XII đã đưa ra quan điểm: “Phát triển du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn là định hướng chiến lược quan trọng để phát triển đất
nước, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác, nhưng
không nhất thiết địa phương nào cũng xác định du lịch là ngành kinh tế mũi
nhọn” [3].
 Bài viết mong muốn đề cập tới một nội dung trong việc phát triển du lịch
theo hướng bền vững của một làng nghề trên địa bàn thành phố Hà Nội. Vì vậy, tác
giả đã tiến hành nghiên cứu làng lụa Vạn Phúc như một trường hợp điển hình cho
q trình chuyển mình từ làng nghề thủ cơng truyền thống sản xuất hàng hoá vật

chất sang phát triển mơ hình làng nghề kết hợp giữa sản xuất hàng hoá và phát triển
sản phẩm du lịch - dịch vụ trong xã hội hiện nay.
Bài viết này tiếp cận ở gốc độ nhỏ và rất mong muốn những nghiên cứu tiếp
theo sẽ đi sâu vào khảo sát và xây dựng những mơ hình khả thi cho sự phát triển du
lịch làng nghề ở những làng có nghề thủ cơng truyền thống trên phạm vi địa bàn
thành phố Hà Nội.
Nhận thức tầm quan trọng của vấn đề này, tác giả lựa chọn chủ đề “Phát
triển du lịch bền vững tại Làng nghề Lụa Vạn Phúc, Hà Đông, thành phố Hà
Nội” làm nội dung báo cáo khoa học.

4


I. TỔNG QUAN VỀ ĐIỂM DU LỊCH LÀNG LỤA VẠN PHÚC, HÀ
ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Làng nghề dệt lụa truyền thống Vạn Phúc, Hà Đông
Hà Nội được biết đến là Thủ đô ngàn năm văn hiến, với nhiều giá trị lịch sử
vẫn đang còn tồn tại, được biết đến với nhiều phố phường, làng nghề truyền thống
trải qua hàng thế kỷ. Trong đó khơng thể khơng nhắc đến làng Vạn Phúc thuộc
phường Vạn Phúc, quận Hà Đông. Kết cấu của làng ban đầu là 7 làng La, 3 làng
Mỗ, đều được biết đến với nghề dệt lụa nhưng chỉ có làng Vạn Phúc là nổi tiếng
nhất. Lụa, gấm nơi đây qua thăng trầm lịch sử đã vượt qua giá trị đơn thuần là
hàng hóa thơng thường trở thành một sản phẩm của văn hóa, đặc trưng riêng có
của vùng miền. Qua các tài liệu cho thấy, làng Vạn Phúc vốn có tên là Vạn Bảo,
được hình thành từ khoảng năm 865 sau CN, sau trở thành Vạn Phúc. Tướng
quân Cao Biền, trong một lần đi thuyền bên sông Nhuệ, có nói “Đất Vạn Phúc núi
sơng uốn khúc, long hổ ôm quanh, hai bên giếng nước nuôi dưỡng tụ khí
rồng xanh”. Sau này, vợ tướng quân Cao Biền là bà Lã Thị Nga đã dạy dân
làng cách dệt lụa, để nhớ công ơn của bà, dân làng đã lập miếu tơn thờ bà là
Thành Hồng làng.

Việc may mặc phục vụ cho vua quan, dân chúng ở kinh đô vẫn được duy trì
qua các thời phong kiến. Tuy nhiên, dưới thời Lê, chỉ có làng Vạn Phúc là nơi
duy nhất biết dệt gấm, lụa. Vì thế, đến cuối TK XIX, nhà Nguyễn chủ trương
khuyến khích, ưu tiên hàng nội nên người thợ Vạn Phúc đã tìm tịi cải tiến, tăng
năng suất và cho ra đời những loại lụa mới. Lụa Vạn Phúc từng được chọn là
chất liệu chính để may lễ phục cho các đời vua nhà Nguyễn. Sau này, vua Khải
Định, Bảo Đại đều sử dụng lụa, gấm, sa Vạn Phúc (Hà Đơng) cho trang phục
trong cung đình.
Với bàn tay khéo léo cùng kinh nghiệm lâu đời, người làng nghề Vạn Phúc
đã tạo ra những sản phẩm rất đa dạng về mẫu mã, cũng như chất lượng cao. Tơ
lụa Vạn Phúc có nhiều loại như: lụa, gấm, vóc, vân, the, lĩnh,  bằng, sa, đũi…
Khổ vải thường là 90 – 97cm. Hiện nay, cùng với công nghệ tiên tiến, các khổ
vải cũng đã được cải tiến, có thể lên khoảng 1,15m. 
Lụa Vân, một loại lụa tưởng như đã thất truyền, nhưng rất may mắn khi
nghệ nhân Triệu Văn Mão cùng các nghệ nhân khác của làng đã kì cơng khơi
phục lại. Lụa Vân có một điểm vơ cùng đặc biệt, đó là có mây trên lụa (nhìn lụa
như thấy có mây). Đây là một kĩ thuật tinh tế khi làm đường vân nổi trên mặt
lụa. Nét độc đáo nổi bật là lụa Vân được thiết kế theo lối dệt mới, dùng bộ go
võng kết hợp các mẫu hoa văn, vặn bắt chéo sợi dọc, khóa chặt sợi ngang làm
5


cho q trình sử dụng khơng bị co giãn,  ko bị trơi. Cũng là một điều đặc biệt
nữa, đó là sự ấm áp vào mùa đông và mát mẻ vào mùa hè khi khoác lên người
chiếc áo lụa. Đồng thời, hoa văn trang trí trên vải lụa cũng vơ cùng đa dạng như
mẫu Song hạc, Tứ quý... khiến cho các bộ trang phục trở nên sống động và
duyên dáng.
Để làm được những sản phẩm như vậy, những người thợ Vạn Phúc phải
tiến hành những quy trình kỹ thuật khá phức tạp gồm rất nhiều công đoạn: Khâu
tơ, hồ sợi, dệt, nhuộm… Mỗi cơng đoạn đều phải tiến hành khá nghiêm ngặt

mới có thể tạo nên được những dải lụa mịn óng, đường nét tinh tế khi nổi khi
chìm v…v Đồng thời phải có những cơng cụ, dụng cụ cũng như ngun liệu
chính.
Các sản phẩm từ lụa vơ cùng phong phú, đó là carvat, ví, túi xách, khăn
v…v Nhưng trong các loại lụa, có lẽ lụa Sa tanh là mặt hàng sang trọng nhất,
cao cấp nhất. Trên mặt lụa được triện các hình hoa văn như hoa hướng dương,
hoa trịn, hoa vng, hoa mây, hoa sóng v.. càng làm cho lụa sa tanh trở thành
quý phẩm.
Hoa văn, họa tiết trên gấm, lụa Vạn Phúc được chia thành các nhóm sau:
hoa văn động vật gồm tứ linh, lưỡng long chầu nguyệt, lưỡng long song phượng,
long vân, rồng vàng cuốn thủy, phượng trong mây, phượng ngậm cuốn thư,
phượng xòe chữ thọ, rùa ngậm cuốn thư, quy nhả ngọc vàng, song hạc, ngũ
phúc, quần ngư vọng nguyệt. Họa tiết côn trùng, chim muông như chuồn chuồn,
con cò, con bướm, dơi...; hoa văn thực vật gồm: cúc, trúc, mai, lan, hoa chanh,
hoa hồng, hoa dâu…; hoa văn đồ vật, hình học mơ phỏng: cuốn thư, đồng tiền,
lẵng hoa, bình cổ, đèn lồng, chữ thọ (trịn và vng), chữ triện, chữ vạn, chữ S,
quả trám, hình vng, hình thoi, ô gạch, ca rô, ba sọc.
Lụa vạn phúc thể hiện rõ trí sáng tạo phong phú, đa dạng, giàu chất tinh tế
thể hiện thông qua đường nét, kẽ chỉ, các họa tiết, hình hài trên từng tấm lụa
được tạo nên từ bàn tay và khối óc của từng nghệ nhân trong đồng dân thị tứ Hà
Nội cuối TK XIX, đầu TK XX. Thời điểm đó, làng Vạn Phúc có tới 1.500 khung
dệt lụa. Trai gái trong làng từ 15, 16 tuổi đã biết điều khiển khung cửi làm ra sản
phẩm. Vào thời kỳ này, người thợ dệt Vạn Phúc đã thành công trong việc cải
tiến chuyển từ khung đạp chân năng suất thấp, khổ vải hẹp, thành khung giật
tay, với năng suất từ 3 thước khổ nhỡ lên 8 thước khổ rộng. Lúc bấy giờ, ở Hà
Nội xuất hiện nhiều cửa hàng bán lụa lớn ở Hàng Ngang, Hàng Đào.
Gấm, lụa Vạn Phúc đã từng theo chân những nghệ nhân vượt ra địa danh
đất nước và được giới thiệu ở quốc tế lần đầu tại hội chợ Marseille (1931) và
6



Paris (1938). Người Pháp đánh giá lụa Vạn Phúc là loại sản phẩm tinh xảo của
vùng Đông Dương, được ưa chuộng tại các nước Pháp, Thái Lan, Indonesia…
Năm 2010, Vạn Phúc tăng cường trang bị thêm nhiều máy móc vào sản
xuất. Người thợ không phải trực tiếp dùng tay dệt, mà tập trung nghiên cứu sáng
tạo mẫu và kỹ thuật thể hiện trên gấm, lụa. Làng Vạn Phúc ngày càng phát triển
nhiều sản phẩm gấm, lụa đẹp và tinh tế, đáp ứng nhu cầu thị hiếu của khách
hàng trong và ngoài nước.
1.2. Bảo tồn và phát huy làng nghề dệt lụa truyền thống Vạn Phúc
Nghề dệt cổ truyền Việt Nam được coi là di sản lịch sử, di sản văn hóa.
Bàn về nghề dệt truyền thống Việt Nam, khơng thể không nhắc tới làng nghề dệt
lụa Vạn Phúc (Hà Đông). Nếu nhìn nghề dệt lụa dưới góc độ chủ thể, chúng ta
càng phải chú ý hơn nữa quá trình sáng tạo, vấn đề bảo tồn và lưu giữ những di
sản văn hóa phi vật thể như thế. Việc bảo tồn và phát huy những giá trị của nghề
dệt là đòi hỏi trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước hiện nay. Bảo tồn
và phát triển làng nghề truyền thống chính là giữ gìn và phát huy những giá trị
về văn hóa, kinh tế, xã hội và làm cho nó khơng bị mai một hay thất truyền.
Hiện nay, việc phát triển các làng nghề dệt truyền thống đang được chính
quyền các địa phương quan tâm. Riêng làng lụa Vạn Phúc, từ năm 1998, đã
được lãnh đạo thành phố Hà Nội cũng như quận Hà Đông chú ý đến các chính
sách hay các biện pháp để bảo tồn và phát triển làng nghề. Tuy nhiên, khó khăn
của làng lụa Vạn Phúc hiện nay chính là khâu nguyên liệu sản xuất. Do một số
năm trước, giá tơ bấp bênh, không ổn định, người dân chuyển sang trồng các
loại cây khác nên diện tích trồng dâu bị thu hẹp. Thời tiết nóng ẩm làm ảnh
hưởng chất lượng trứng tằm, khiến lượng tơ gốc bị giảm. Đa số, nguồn nguyên
liệu cung cấp cho các hộ gia đình tại Vạn Phúc hiện nay chủ yếu nhập từ Lâm
Đồng. Thiếu thợ dệt, thiếu người phát triển có tâm huyết để khơi phục làng
nghề. Trước đây, vào những giai đoạn phát triển nhất, làng Vạn Phúc có tới
1.500 máy dệt, nhưng đến nay chỉ cịn hơn 200 máy dệt lụa. Hàng Trung Quốc
tràn lan trên thị trường với mẫu mã đa dạng khiến cho sản phẩm lụa Vạn Phúc

mất dần thị phần. Do vậy, việc bảo tồn và phát huy nghề dệt lụa Vạn Phúc cần
có những giải pháp cụ thể, kịp thời nhằm phát triển làng nghề dệt truyền thống
Việt Nam như: phát triển và nâng cao tay nghề cho những người thợ dệt, các
chính sách bảo trợ; kế thừa những kinh nghiệm dân gian trong các công đoạn dệt
thủ công truyền thống, đổi mới cơng nghệ để sản xuất ra các loại tơ có chất
lượng tốt; có cơ chế đãi ngộ và khuyến khích người dân dệt lụa, mở các lớp bồi
dưỡng mang tính chất truyền nghề cho người dân trong làng, phát triển đội ngũ
7


trẻ kế cận giữ gìn nghề dệt truyền thống; lưu giữ vốn nghề bằng cách thành lập
bảo tàng nghề lụa tằm tang để giới thiệu các loại sản phẩm tơ lụa, màu sắc, hoa
văn, chất liệu, kỹ thuật dệt cho những người yêu thích, quan tâm đến nghề dệt
truyền thống, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, khách nước ngoài v.v..
Theo nghệ nhân Phạm Khắc Hà, chủ tịch Hiệp hội làng nghề Vạn Phúc:
Nghề lụa là nghề thủ công, lưu truyền theo hình thức cha truyền con nối. Những
người thợ thế hệ trước truyền nghề cho thế hệ sau bằng cách cầm tay chỉ việc,
giao cho những việc từ dễ đến khó. Qua thời gian, các thợ trẻ sẽ nắm được nghề
và thuần thục trong từng thao tác. Nhờ thế mà những tấm lụa thương hiệu Vạn
Phúc - Hà Đông xưa, khơng chỉ bền, đẹp mà cịn thấm đẫm tình đất, hồn người
dân đất lụa.
Quy định của hiệp hội làng nghề Vạn Phúc là cứ vài ba năm sẽ lần lượt
giao cho 1 cơ sở sản xuất chịu trách nhiệm mở các lớp hướng dẫn nghề và đào
tạo nâng cao tay nghề cho lớp thanh niên trẻ tuổi trong làng. Điều này khơng chỉ
giúp duy trì và phát triển làng nghề, mà cịn ni dưỡng tình u với nghề
truyền thống hơn nghìn năm tuổi của quê hương.
Những năm gần đây, được sự hỗ trợ về kinh phí của Trung tâm Khuyến
công và Tư vấn phát triển công nghiệp - Sở Công Thương Hà Nội (Trung tâm
Khuyến công), Hiệp hội đã tổ chức được các lớp dạy nghề một cách đều đặn,
thường niên và quy củ hơn. Mỗi lớp thường có khoảng 30 học viên, là những

con em trong làng nghề. Những người đứng lớp giảng dạy chính là các nghệ
nhân có uy tín và giàu kinh nghiệm.
Theo Nghệ nhân Phạm Khắc Hà, cho biết: Chúng tôi được hỗ trợ của
Trung tâm Khuyến công, từ năm 2012 đến nay, chúng tôi đã thường xuyên mở
được những lớp đào tạo nghề cho những lớp trẻ, nhất là các cháu thanh niên.
Bên cạnh dó, cịn mở lớp nâng cao tay nghề cho những người đã biết nghề và
lớp dạy nghề sửa chữa máy dệt, đây là việc hết sức cần thiết cho làng nghề Vạn
Phúc
Công ty TNHH Thương mại và Sản xuất Đông Hương là cơ sở uy tín trong
các mặt hàng từ chất liệu tơ tằm. Năm 2017 vừa qua, thực hiện chương trình
khuyến cơng của Trung tâm Khuyến cơng và sự thống nhất của Hiệp hội làng
nghề Vạn Phúc, cơ sở Đông Hương đã mở lớp đào tạo cắt may các sản phẩm từ
lụa tơ tằm cho hơn 30 học viên là con em địa phương. Sau khi tốt nghiệp, gần 20
người đã được nhận vào làm việc ngay tại Công ty. Điều đó cho thấy, vai trị
cũng như chất lượng và hiệu quả thực sự của các chương trình khuyến công đối
với làng lụa Vạn Phúc.
8


Bà Nghiêm Thị Thu Hương – Giám đốc Đông Hương cho biết: Có được
chủ trương của Trung tâm Khuyến cơng và Hiệp hội làng nghề Vạn Phúc đã tạo
điều kiện cho chúng tôi mở những lớp để đào tạo và truyền nghề cho lớp thế hệ
sau đồng thời tạo điều kiện để thế hệ trẻ có cơng ăn việc làm, ổn định.
 Theo Ơng Đặng Quang Hải - Phó Chủ tịch Phường Vạn Phúc, quận Hà
Đơng, Hà Nội:  Ngồi sự hỗ trợ của khuyến công, trong những năm gần đây,
chúng tôi đã chỉ đạo Hiệp hội làng nghề kiện toàn lại Hội làng nghề Vạn Phúc,
tập chung hỗ trợ trực tiếp cho các hộ gia đình có nghề dệt lụa trên địa bàn của
phường, hỗ trợ kinh phí để các hộ gia đình có điều kiện để đào tạo và mở thêm
các mơ hình sản xuất hàng chất lượng cao
Hiện nay cả làng nghề Vạn Phúc có 164 hộ sản xuất trong đó có 264 khung

dệt được phân bổ cho các hộ sản xuất. Mỗi năm làng lụa sản xuất ra khoảng 1,5 triệu
mét vải lụa các loại đem lại doanh thu khoảng 65 tỷ đồng. Làng nghề Vạn Phúc có
khoảng 1.100 lao động, trong đó có hơn 400 hội viên và 9 nghệ nhân làng nghề.
Những năm gần đây, một số hộ gia đình đã mạnh dạn đầu tư máy móc,
trang thiết bị hiện đại, nhằm tăng năng suất lao động, cải tiến mẫu mã, nâng cao
chất lượng sản phẩm để có thể xuất khẩu sang các thị trường quốc tế như: Tơ
tằm sang Đông Âu, một số sang Lào, Thái Lan…
Xưởng dệt lụa của nghệ nhân Đỗ Văn Hiển có 15 chiếc máy dệt ln chạy
hết cơng suất. Trung bình mỗi ngày cơ sở này dệt được vài trăm mét lụa. Năm
2014 gia đình nghệ nhân Đỗ Văn Hiển đã được chương trình khuyến cơng hỗ trợ
một phần kinh phí để mua máy đục lỗ làm mẫu hoa văn cho máy dệt.
Giờ đây, với máy này, những mẫu hoa văn được thiết kế nhanh hơn trên
máy tính và cho phép tạo những mẫu càng ngày càng đa dạng hơn, phức tạp và
đẹp mắt hơn. Chiếc máy cịn có khả năng sao chép các mẫu một cách chính xác
tuyệt đối và nhanh chóng, phục vụ cho việc dệt đại trà và với số lượng lớn, đồng
thời in chìm được thương hiệu trên mép biên mảnh lụa cho các hộ gia đình.
II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH TẠI LÀNG LỤA VẠN
PHÚC, HÀ ĐƠNG
2.1.Tình hình phát triển sản xuất và phát triển du lịch tại làng nghề
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, các làng
nghề nói chung, làng nghề Vạn Phúc nói riêng đã phát triển với tốc độ nhanh
chóng. Trước đây, Vạn Phúc chỉ dệt bằng khung dệt thủ công và chưa đầy 100
khung dệt, nay đã tăng lên trên 1000 khung và đã được cơ khí hố 100%. Các cơ
sở sản xuất trong làng nghề đã thu hút nhiều lao động, giải quyết việc làm mang
9


lại thu nhập ổn định và cao hơn nhiều so với sản xuất nơng nghiệp cho các hộ gia
đình.
Bảng 1: Số lượng hộ kinh doanh và sản xuất tại làng nghề

tăng đều qua các năm
Năm

2010

2015

Hộ sản xuất

750

600

Hộ kinh doanh

150

120

Năm 2017, làng nghề đã có 264 máy dệt, 164 cơ sở sản xuất và hơn 100 cơ
sở kinh doanh, 3 công ty trách nhiệm hữu hạn, 1 công ty cổ phần lụa, 1 khu
trung tâm kinh doanh sản phẩm lụa chất lượng cao.
Sản phẩm lụa Vạn Phúc đa dạng, phong phú về chủng loại. Một số sản
phẩm tiêu biểu của làng nghề như: Sản phẩm lụa tơ tằm cao cấp không phai; sản
phẩm lụa Vân; thiết kế ứng dụng vào sản xuất 10 mẫu hoa; khăn lụa tơ tằm cao
cấp… Sản lượng lụa năm 2016 đạt trên 1,8 triệu mét vải lụa các loại, đạt 90% so
với kế hoạch, doanh thu ước đạt 108 tỉ đồng, đạt 127% kế hoạch.
Thị trường tiêu thụ chủ yếu của lụa Vạn Phúc vẫn là nội địa với 70% thị
phần, còn lại 30% là xuất khẩu (với phương thức chủ yếu là xuất khẩu tại chỗ).
Có một số ít xuất sang Anh, Thụy Sỹ, Canada, Italia, Đức… dưới dạng chào

hàng và thăm dò thị trường.
Về nguồn nhân lực cho làng nghề, hiện nay, Vạn Phúc có trên 50 thợ giỏi
có tay nghề cao và 02 nghệ nhân được Thành phố công nhận, 06 nghệ nhân
được Hiệp hội làng nghề Việt Nam công nhận.
Về hoạt động kinh doanh du lịch, hiện nay số lượng khách du lịch đến tham
quan, mua sắm tại làng nghề trong những năm gần đây đã tăng đáng kể.
Bảng 2. Số lượng khách quốc tế đến làng nghề Vạn Phúc
giai đoạn 2015 - 2017
Năm

Số đoàn khách quốc tế

Số lượt khách quốc tế

2015

1372

5164

2016

1252

4449

2017

933


4339

Số lượng khách nội địa mỗi năm ở đây cũng đạt tới 10.000 lượt khách. Tuy
nhiên, đây vẫn là những con số chưa xứng với kì vọng và tiềm năng của một
làng nghề lâu đời bậc nhất Việt Nam.
10


 Hiện nay, có nhiều cơng ty du lịch, hãng lữ hành đã tổ chức các tour du
lịch tới làng lụa Vạn Phúc, nhưng mới chỉ dừng lại ở hoạt động tham quan, mua
sắm. Du khách chưa có cơ hội thực sự trải nghiệm các công đoạn sản xuất lụa,
trải nghiệm văn hoá… của làng nghề. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia và
doanh nghiệp khai thác kinh doanh du lịch thì sự phát triển du lịch làng nghề ở
đây cịn rất hạn chế về hình thức, quy mơ, số lượng cũng như chất lượng sản
phẩm. Ngoài những hộ thuộc diện được quy hoạch thì số cịn lại là tự phát,
manh mún, thiếu chuyên nghiệp. Sản phẩm du lịch vừa thiếu vừa yếu, dịch vụ
nghèo nàn, cơ sở hạ tầng và giao thông chưa đáp ứng được nhu cầu của khách
du lịch.
Mặc dù là điểm du lịch làng nghề nhưng nơi đây chưa có nhiều điểm tham
quan hấp dẫn, chưa kết nối được sản phẩm thủ công truyền thống với các sản
phẩm văn hoá, lịch sử, cũng như cảnh quan, thậm chí là phong tục, tập qn, ẩm
thực (từ khâu ni trồng, chăm bón, thu hoạch, đến nghệ thuật chế biến, thưởng
thức…) của người dân làng nghề. Bản thân các đơn vị du lịch, hãng lữ hành
muốn đưa khách tham quan tới nhưng sản phẩm hàng hoá, sản phẩm du lịch, sản
phẩm dịch vụ quá đơn điệu, chưa tạo được sự hấp dẫn đối với khách du lịch.
2.2. Những tác động của quá trình phát triển kinh tế - xã hội và du lịch
tới làng nghề
Tác động tích cực của du lịch đến làng nghề Vạn Phúc là không thể phủ
nhận, tuy nhiên, q trình đơ thị hố và phát triển nóng của hoạt động du lịch
cũng đã đưa lại những ảnh hưởng tiêu cực cho làng nghề. Trong khuôn khổ bài

nghiên cứu này, tác giả xin đề cập đến một số tác động tiêu cực tới làng nghề để
từ đó tìm hướng khắc phục.
Một là, sản phẩm lụa Vạn Phúc đang mất dần tính bản địa, bị thay thế bởi
hàng giả, hàng nhái kém chất lượng.
Các sản phẩm lụa Vạn Phúc hiện nay đang bị thay thế hoặc bị áp đảo bởi
sản phẩm có xuất xứ từ nơi khác, nhất là các mặt hàng lụa Trung Quốc. Lâu nay,
ở Vạn Phúc khơng trồng dâu, ni tằm nữa vì quy trình đó khá cơng phu, địi hỏi
phải có diện tích lớn, khí hậu phù hợp, nguồn nhân lực… Do vậy, các cơ sở sản
xuất thường nhập nguồn nguyên liệu tơ tằm từ các công ty khai thác trong nước
từ Lập Thạch (Vĩnh Phúc), Bảo Lộc (Lâm Đồng) hay Duy Xuyên (Quảng Nam)
… Mà vài năm gần đây, giá tơ tằm tăng lên rất nhiều, nguyên liệu đầu vào tăng
cao làm cho giá thành phẩm cũng tăng theo. Trong khi đó các sản phẩm tơ hố
học, tơ bóng giá rẻ chỉ bằng 1/3 giá tơ tằm truyền thống. Đây là lí do các chủ
hiệu trà trộn các loại sản phẩm để tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn và có thể
11


nhập nhèm ăn chênh lệch giá nếu khách hàng không tinh và không am hiểu về
sản phẩm lụa
Hai là, Lao động làm nghề đang bị già hoá. 
Hiện nay, lao động tại các xưởng sản xuất lụa thợ lành nghề chủ yếu là
những người già trên 50 tuổi. Theo thống kê của Uỷ ban nhân dân phường Vạn
Phúc, độ tuổi tham gia nghề dệt lụa ở địa phương hiện nay đều trên 35 tuổi và
đây là nỗi lo sự kế thừa nghề truyền thống đã có hơn nghìn năm tuổi. Cả làng
nghề truyền thống dệt lụa Vạn Phúc chỉ còn 8 nghệ nhân đã ngoài 70 tuổi, ai
cũng lo lắng sau khi về với tổ tiên thì con cháu khơng gắn bó nghề và để nghề bị
thất truyền. Chính quyền địa phương cũng không khỏi lo lắng khi lớp trẻ không
yêu nghề, đi thốt ly hoặc làm các cơng việc khác, khơng có người yêu nghề,
học nghề và làm nghề để kế thừa những tinh hoa của ơng cha hàng nghìn năm để
lại.

Ba là, Sản phẩm du lịch tại làng lụa Vạn Phúc đơn điệu, thiếu sức hấp dẫn
và thiếu tính liên kết.
Sản phẩm du lịch nói đến ở đây xét trên cả hai góc độ: sản phẩm hữu hình
(mặt hàng lưu niệm, hàng tơ lụa thành phẩm) và sản phẩm vô hình (chương trình
du lịch, dịch vụ du lịch). Về sản phẩm thủ cơng truyền thống của làng nghề thì
hiện đang đứng trước nguy cơ bị xâm lấn và bị trà trộn, cạnh tranh bởi hàng
Trung Quốc và hàng hoá chưa rõ xuất xứ với mẫu mã đẹp, giá thành rẻ. Trong
khi hàng truyền thống mặc dù chất lượng tốt, nhưng giá thành lại cao hơn, chưa
được bảo hộ về thương hiệu, chưa khẳng định và định vị được thương hiệu trên
thị trường. Về chương trình du lịch, hiện nay cịn đơn điệu chủ yếu do chưa kết
nối được các loại tài nguyên với nhau như tài nguyên văn hoá vật thể, phi vật
thể, ẩm thực… trong nội bộ vùng, cũng như liên vùng; chưa thiết kế được những
tour mới để khách du lịch có khả năng trải nghiệm các khơng gian văn hoá một
cách sống động và thực tiễn (tham gia trực tiếp vào một trong những khâu sản
xuất nào đó trong q trình hình thành nên sản phẩm lụa, trồng dâu, chăm tằm,
thu hoạch nông sản, tự nấu ăn…). Hiện nay, khách du lịch đến làng nghề ngoài
hoạt động mua sắm tại cửa hàng, tham quan các di tích lịch sử – văn hoá, ăn
uống tại các quán hàng của người dân địa phương thì chưa có dịch vụ nào khác.
Bởi vậy, du lịch làng nghề tại đây chưa tạo được sức hấp dẫn với khách du lịch
trong nước cũng như quốc tế. Điều đó dẫn đến thời gian lưu trú của du khách tại
làng nghề cũng rất ngắn, thông thường chỉ 0,7 - 1 ngày.
Bốn là, Môi trường đang bị tác động theo chiều hướng tiêu cực. 
12


Nếu như ngày xưa, các nghệ nhân tạo ra những tấm lụa truyền thống đã sử
dụng thuốc nhuộm màu hoặc tẩy trắng hoàn thoàn bằng những nguồn nguyên
liệu dân gian từ thực vật. Thì ngày nay, do các hoạt động của làng nghề ngày
càng được cơ khí hố, cơng nghiệp hoá ở nhiều khâu, nên người sản xuất đã sử
dụng nhiều hoá chất trong các khâu như tẩy, nhuộm. Mỗi ngày, các cơ sở sản

xuất của Vạn Phúc cho ra đời 4000 - 5000m lụa, tương đương với 400kg lụa. Và
mỗi ki lô gam lụa thành phẩm phải cần tới 30 lít nước tẩy rửa 1 . Tất cả đều được
xả thải trực tiếp ra môi trường, không qua các khâu xử lí chất thải theo quy trình
đảm bảo chất lượng. Bởi thế, dịng sơng Nhuệ vốn êm đềm xa xưa, giờ đã trở
thành dịng kênh nước đen và bị ơ nhiễm nặng nề, thậm chí cịn bốc mùi khi
mùa khơ đến. Hệ thống xả thải và xử lí hố chất chưa được đầu tư quan tâm
đúng mức, đang trở thành vấn đề nghiêm trọng ảnh hưởng tiêu cực đến sức
khỏe, môi sinh của cư dân tại làng nghề và cư dân sống tại vùng ven.
Năm là, sự đóng góp của du lịch về mặt kinh tế cho người dân địa phương
đang có những chuyển biến mạnh, đáng được quan tâm.
Du lịch phát triển nhanh chóng đã mang lại nguồn thu nhập lớn trong cơ cấu
kinh tế của địa phương. Tuy nhiên, nguồn thu đó lại chủ yếu dành cho những
người làm du lịch và cung cấp dịch vụ trung gian. Trong số những người bán
hàng tại làng nghề dọc bờ sơng Nhuệ thì tỉ lệ người dân bản địa thấp, chủ yếu là
những người có vốn đến từ các khu vực và làng lân cận. Việc phát triển hướng
dẫn viên tại điểm là người của làng nghề cũng còn rất hạn chế và gặp nhiều khó
khăn. Cho đến nay số lượng đó gần như chưa có.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN DU LỊCH
LÀNG NGHỀ DỆT LỤA VẠN PHÚC THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG
 Ngày nay, xu hướng tự do hoá, mở cửa thị trường, phát triển kinh tế kèm
theo nhu cầu nâng cao mức sống sẽ dẫn đến những nhu cầu mới về chất lượng,
giá trị vật chất, giá trị văn hố, tính độc đáo của các sản phẩm… Ngồi ra, nhu
cầu về du ịch, thủ cơng mĩ nghệ, dịch vụ đời sống… cũng sẽ phát triển rất mạnh,
mở ra triển vọng to lớn cho các làng nghề và kinh tế nơng thơn nói chung. Vì thế
để phát triển du lịch làng nghề một cách bền vững, cần xác định đúng đắn mối
quan hệ giữa kinh tế làng nghề và kinh tế đô thị, dịch vụ du lịch với bảo tồn,
phát triển văn hoá truyền thống. Và phát triển du lịch làng nghề truyền thống tại
Vạn Phúc không phải là một ngoại lệ. Bởi vậy, ngành du lịch, chính quyền địa
phương, đơn vị cung ứng du lịch, cộng đồng dân cư cần phải xem xét tính đếm

đến những giải pháp phát triển du lịch một cách bền vững.
13


3.1. Giải pháp về quy hoạch du lịch đối với phát triển du lịch tại làng
nghề truyền thống dệt lụa Vạn Phúc. 
Để khắc phục tính manh mún, tự phát, chính quyền địa phương và ngành
du lịch cần có những điều tra, đánh giá về tài nguyên, cơ sở hạ tầng, vật chất kĩ
thuật, nguồn nhân lực…, từ đó lập quy hoạch du lịch cho làng nghề, xác định
không gian, sản phẩm của làng nghề, định hướng cơ cấu lao động cũng như mục
tiêu kinh tế, mục tiêu du lịch.
Một là, tăng cường quản lí các hoạt động thương mại, kinh doanh tại làng
lụa Vạn Phúc để đảm bảo sự phát triển lành mạnh của làng nghề. Kiểm soát đối
với những sản phẩm lụa không rõ nguồn gốc xuất xứ hoặc xuất từ Trung Quốc
trà trộn tại đây. Đồng thời tăng cường hoạt động quảng bá, marketing nhằm
khẳng định giá trị của sản phẩm làng nghề, nhấn mạnh đến phẩm chất và tính
độc nhất của sản phẩm.
Hai là, đa dạng hố sản phẩm du lịch nhằm đáp ứng ngày càng cao các
nhu cầu của khách du lịch. Để giữ chân du khách ở lại lâu hơn và thoả mãn
nhiều hơn nhu cầu của học, ngành du lịch, chính quyền địa phương, người
dân trong làng cần phối kết hợp tạo ra những sản phẩm du lịch bổ trợ như: tổ
chức các buổi biểu diễn nghệ thuật, chương trình trải nghiệm của du khách
trong các hoạt động sản xuất, sinh hoạt của người dân (câu cá, tham thú
ruộng vườn, nấu ăn…).
3.2. Giải pháp về môi trường
Đây là giải pháp cũng cần được tính đến và thực hiện triệt để, khơng thể có
hoạt động du lịch bền vững nếu chất lượng môi trường ngày càng suy thối. Vì
thế cần có quy định về xả thải an toàn, tách khu vực sản xuất khỏi nơi cư trú của
người dân để đảm bảo môi sinh của dân cư trong vùng cũng như hoạt động du
lịch tại làng nghề. Đảm bảo sự cơng bằng về lợi ích của các bên liên quan trong

phát triển du lịch, đặc biệt đối với người dân địa phương - người lưu giữ những
giá trị cốt lõi của làng nghề. Bằng việc tăng cường phân phối lại thu nhập, định
hướng phát triển du lịch cộng đồng, gia tăng tỉ lệ người dân làng nghề tham gia
vào hoạt động du lịch (bán hàng, hướng dẫn viên, cung cấp cơ sở lưu trú…),
người dân địa phương sẽ được hưởng những lợi ích chính đáng từ hoạt động du
lịch nhiều hơn. Từ đó họ có ý thức bảo vệ, tơn tạo, giữ gìn nghề và làng nghề cho
thế hệ tương lai.
Cuối cùng, cần phải có sự liên kết du lịch làng nghề tại Vạn Phúc với các
điểm du lịch văn hoá, điểm du lịch tự nhiên để đảm bảo tính đa dạng và thoả
mãn ngày càng nhiều hơn các nhu cầu của khách du lịch. Những cách nối dài
14


chương trình du lịch như thế này cũng sẽ giúp tăng thời gian lưu trú của khách
du lịch.

KẾT LUẬN
Làng nghề dệt lụa Vạn Phúc với lịch sử hàng nghìn năm đã và đang chuyển
mình mạnh mẽ để bắt kịp với sự thay đổi của nền kinh tế thị trường. Du lịch
làng nghề tại Vạn Phúc đã đạt được nhiều thành quả kinh tế – xã hội như tạo
công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, quảng bá và giới thiệu hình ảnh,
giá trị văn hố của làng nghề… Tuy nhiên, mặc dù trên thực tế làng nghề đã thu
hút một số lượng khách du lịch đáng kể, nhưng đây vẫn chỉ là những nỗ lực tự
phát, chưa hình thành được cách làm chuyên nghiệp. Hàng loạt những vấn đề
trong quá trình thay đổi cơ cấu sản xuất và chuyển dịch kinh tế của làng nghề
đang được đặt ra như: môi trường tự nhiên và xã hội, phương thức phát triển du
lịch làng nghề, sự tham gia và cân bằng lợi ích của các bên liên quan trong q
trình thực hiện du lịch (du khách – người dân tại làng nghề – doanh nghiệp –
chính quyền địa phương), sản phẩm đặc trưng của làng nghề, sản phẩm du lịch –
dịch vụ… Bởi vậy, để phát triển du lịch làng nghề theo định hướng bền vững tại

Vạn Phúc nói riêng và tại các làng nghề ở Hà Nội nói chung cần phải có nghiên
cứu và tiến hành quy hoạch, đầu tư đồng bộ về hạ tầng giao thông (đường sá,
phương tiện giao thông…), cơ sở vật chất kĩ thuật (cơ sở đón tiếp, điểm trình
diễn, khu trải nghiệm, khu bán hàng…), phát triển nguồn nhân lực (nhân lực làm
nghề và nhân lực du lịch), xúc tiến quảng bá hình ảnh, cũng như bảo tồn các giá
trị văn hoá truyền thống…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Huy Bá (2006), Du lịch sinh thái, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh.
2. Đinh Chúc (2015), “Du lịch sinh thái ở Bình Định”, Tạp chí Nơng thơn mới.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
4. Nguyễn Thế Đồng (2015), "Bảo vệ môi trường và phát triển du lịch
bền vững", Tạp chí Mơi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
15


5. Luật Du lịch năm 2005 và văn bản hướng dẫn thi hành (2010), Nxb
Chính trị Quốc gia Hà nội.

16


17


18


19



20



×