Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

MẬU DỊCH CHÂU ẤN THUYỀN CỦA NHẬT BẢN VÀO THẾ KỶ XVII VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI GIỮA NHẬT BẢN VÀ ĐÔNG NAM Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.77 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP.HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
🙦🙤

BÀI TIỂU LUẬN

MÔN: LỊCH SỬ NHẬT BẢN
ĐỀ TÀI

MẬU DỊCH CHÂU ẤN THUYỀN CỦA NHẬT BẢN VÀO THẾ KỶ XVII VÀ
VAI TRỊ CỦA NĨ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI GIỮA NHẬT
BẢN VÀ ĐÔNG NAM Á
NGÀY NỘP: 24/10/2022
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS.HUỲNH PHƯƠNG ANH
NHÓM 4
STT

MSSV

HỌ VÀ TÊN

NHIỆM VỤ

1

2156190029 Trần Lâm Gia Hân

2

2156190033 Phạm Nguyễn
Phương Khánh


(Trưởng nhóm)
2156190048 Nguyễn Phan
Hồng Nhung
2156190073 Nguyễn Vũ Diệu
Thương
2156190180 Huỳnh Như Ngọc

3
4
5

Phần mở đầu, 3.1,
phần kết luận
Phần 2.2, soạn
Slide
Phần 3.2, thuyết
trình chương 3
Phần 2.1, thuyết
trình chương 2
Chương 1, thuyết
trình chương 1

Thành phố Hồ Chí Minh., ngày 22 tháng 10 năm 2022

1

ĐIỂM

GHI
CHÚ



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................................3
CHƯƠNG 1 : Giới thiệu khái quát về mậu dịch Châu Ấn Thuyền.............................5
1.1 Khái quát bối cảnh lịch sử thời Edo (Tokugawa) (1600-1868).....................5
1.2 Khái quát thời kỳ mậu dịch Châu Ấn Thuyền..............................................7
CHƯƠNG 2:Nguyên nhân và vai trò của mậu dịch Châu Ấn Thuyền đối với sự phát
triển thương mại giữa Nhật Bản và Đông Nam Á..........................................................9
2.1. Nguyên nhân Nhật Bản tăng cường giao lưu và quan hệ thương mại với
Đơng Nam Á...................................................................................................................9
2.2. Vai trị của mậu dịch Châu Ấn Thuyền đối với sự phát triển thương mại
giữa Nhật Bản và Đông Nam Á....................................................................................10
CHƯƠNG 3: Quan hệ thương mại giữa Nhật Bản và Việt Nam thời Châu Ấn
Thuyền...........................................................................................................................12
3.1. Quan hệ giao thương giữa Nhật Bản và Đàng Ngoài..................................12
3.2. Quan hệ giao thương giữa Nhật Bản và Đàng Trong..................................14
KẾT LUẬN..................................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................19

2


MỞ ĐẦU
Xu hướng quốc tế hóa, tồn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên khắp
thế giới trong những năm gần đây đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các
học giả về quan hệ quốc tế giữa các quốc gia, khu vực trong quá khứ cũng như trong
hiện tại và tương lai. Vào thời cận thế, giao thương giữa các quốc gia khu vực Châu Á
như: Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật Bản, và các quốc gia Đông Nam Á... đã diễn ra rất sôi
nổi, thậm chí đã thu hút được những thương nhân phương Tây đến đây để thăm dò và

khai thác thị trường mới mẻ và đầy tiềm năng này.
Nằm trên tuyến giao thơng đường biển khu vực Châu Á - Thái Bình Dương,
Đơng Á nói chung và Nhật Bản nói riêng thực sự có sức hút rất lớn đối với các thương
nhân nước ngoài, đặt biệt là sự quan tâm của người Châu Âu vốn đang khao khát một
thị trường mới sau những cuộc địa phát kiến địa lý thế kỉ XV – XV1.
Mở đầu cho việc thiết lập mạng lưới giao thương buôn bán giữa Châu Âu với
Nhật Bản và Đông Nam Á là các thương nhân và giáo sĩ người Bồ Đào Nha. Các
thuyền Bồ Đào Nha và tiếp đến là Tây Ban Nha đã vượt đại dương đến Châu Á, đưa
cả thương nhân và quân đội đến Nhật Bản, thiết lập mạng lưới thương quán ở Nhật
Bản và các quốc gia khu vực Đơng Nam Á. Sau đó, muộn hơn một chút, người Anh và
Hà Lan cùng đến Nhật Bản lập ra thương quán, cạnh tranh buôn bán. Hệ thống thương
mại mang tính quốc tế giữa Phương Đơng và phương Tây sau khi được thiết lập đã
làm thay đổi những mối quan hệ kinh tế và văn hóa truyền thống vốn đã được xác lập
giữa các dân tộc trong khu vực qua nhiều thế kỷ, tạo điều kiện mới cho sự hội nhập
của nền kinh tế Châu Á vào hệ thống kinh tế thế giới, góp phần vào sự phát triển phồn
thịnh của nhiều quốc gia.
Quan hệ thương mại Nhật Bản – Đông Nam Á thế kỷ XVI – XVII gắn liền mật
thiết với mội giai đoạn lịch sử gọi là “thời đại Châu Ấn Thuyền”, và được xem là
những viên đá đầu tiên đặt nền móng cho quan hệ Nhật Bản – Đông Nam Á các giai
đoạn sau này. “Chế độ Châu Ấn Thuyền” hay “thời đại Châu Ấn Thuyền” có lẽ là
điểm nhấn quan trọng nhất, một số nhà nghiên cứu còn gọi đây là “điểm son”, là “thời
đại hoàng kim” trong lịch sử ngoại thương Nhật Bản thời cận thế. Hiện nay, trong các
bảo tàng, các tư liệu văn bản di tích lịch sử hay trong ký ức của nhiều dân tộc của các
quốc gia mà Nhật Bản thường xuyên giao lưu buôn bán như Việt Nam (Đàng Trong và
3


Đang Ngồi), Philippines, Siam... vãn cịn lưu lại những dấu ấn sâu đậm của những
mối quan hệ kinh tế, văn hóa trước kia với Nhật Bản.
Nghiên cứu quan hệ Nhật Bản – Đông Nam Á thời kỳ Châu Ấn Thuyền giúp

chúng ta nhận thức sâu sắc, toàn diện về vị trí của Nhật Bản và mối quan hệ giữa Nhật
Bản – Đông Nam Á trong hiện tại và tương lai. Từ đó có thể lý giả nhiều Vấn đề trong
quan hệ giữa Nhật Bản và Asean ngày nay.

4


CHƯƠNG 1 : GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ MẬU DỊCH CHÂU ẤN
THUYỀN
1.1

Khái quát bối cảnh lịch sử thời Edo (Tokugawa) (1600-1868):

Thời kỳ Tokugawa là giai đoạn phát triển cuối cùng và cao nhất của chế độ phong kiến
Nhật Bản. Trong thời gian đó, lịch sử thế giới nói chung và lịch sử Nhật Bản nói riêng
đã trải qua nhiều chuyển biến hết sức đa dạng và phức tạp.
 Đây là thời kỳ mà chính quyền trung ương đạt được sự quản chế tương đối
thống nhất bao trùm toàn bộ lãnh thổ vừa là thời kỳ trỗi dậy của các công quốc
(han) tập trung ở vùng tây nam.
Sau cái chết của Toyotomi Hideyoshi (1536 – 1598), Tokugawa Ieyasu (1542 – 1616)
với tư cách là lãnh chúa lớn nhất bắt đầu bước lên vũ đài chính trị ở Nhật Bản. Với
thắng lợi trong trận Sekigahara năm 1600, dẹp yên các thế lực chống đối, ơng đã thâu
tóm được quyền lực thực tế về tay mình. Để củng cố quyền lực của mình thì
Tokugawa Ieyasu đã vận hành chính quyền trung ương theo cơ chế Bakuhan taisei
(Chế độ Mạc phủ - công quốc hay Mạc phủ phiên thể chế): Mạc phủ, đứng đầu là
shogun (tướng quân) Tokugawa ở Edo và các daimyo (lãnh chúa) cai trị khoảng 265
lãnh địa.
Cùng với sự thiết lập bộ máy hành chính thì từ năm 1600, để bảo đảm sự tin cậy và tập
trung quyền lực, Ieyasu còn buộc các lãnh chúa phải lần lượt lý cam kết trung thành
với chế độ Mạc phủ và ban hành Luật vũ gia (Buke shohatto) nhằm thiết chế hố cơ

chế chính trị dựa trên những quy định của đẳng cấp võ sĩ. Bên cạnh những quy định
đó, Mạc phủ cịn đặt trạm kiểm sốt trên các đường giao thơng, hạn chế việc xây cầu,
luật lệ hoá chế độ sankin kotai (Chế độ Luân phiên trình diện đối với các daimyo)…
Mạc phủ Tokugawa với thiết chế chính trị của nó, vừa mang tính chất qn sự vừa có
chức năng dân sự, vừa thống trị Nhật Bản với tư cách là lãnh chúa lớn nhất vừa đóng
vai trị của chính phủ trung ương, thay mặt Thiên hồng cai quản đất nước, hoạch định
chính sách quốc gia. Mặc dù từ năm 1192 các tướng qn đã khuynh lốt quyền lực
của Thiên hồng nhưng trong quan hệ với triều đình Kyoto, Mạc phủ ln tỏ ra tuân
thủ các nguyên tắc của đạo lý truyền thống bởi vì trên danh nghĩa Thiên hồng vẫn là
người có quyền uy cao nhất ở Nhật Bản.

5


 Là thời kỳ mà cơ sở kinh tế của đất nước vẫn chủ yếu dựa vào sản xuất nông
nghiệp tự nhiên vừa có sự dung dưỡng những nhân tố phát triển của kinh tế
hàng hoá, giao lưu giữa các trung tâm thương mại trong nước và quốc tế.
Hồ bình và ổn định ở Nhật Bản đã tạo những điều kiện hết sức thuận lợi cho các
ngành kinh tế phát triển. Là một quốc gia châu Á, nền tảng kinh tế chủ yếu của Nhật
Bản thời Edo vẫn chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp tự nhiên. Nhận thức rõ tầm
quan trọng đó, chính quyền Tokugawa đã ban hành nhiều chính sách và thực thi những
biện pháp tích cực nhằm khuyến khích ngành kinh tế này phát triển. Thời Edo, nhờ
đẩy mạnh khai hoang mà diện tích đất canh tác không ngừng được mở rộng. Nhiều
vùng đất hoang khô cằn, đầm lầy… trước đây đã biến thành đất sản xuất cùng với việc
hồn thiện khơng ngừng hệ thống tưới tiêu. Việc sử dụng các loại nông cụ cải tiến và
bắt đầu hình thành tập qn sử dụng phân bón trong canh tác đã đem lại một sản lượng
lương thực cao hơn nhiều so với những thế kỷ trước.
Những biến động trong nền kinh tế nông nghiệp đã phần nào kích thích sản xuất thủ
cơng nghiệp đất đến mức độ phát triển vượt bậc. Trên cả nước đã hình thành nhiều
trung tâm thủ cơng nghiệp lớn. Nhờ có chun mơn hoá và đầu tư kỹ thuật, một số mặt

hàng thủ cơng của Nhật Bản lúc đó đã đạt đến trình độ tinh xảo nổi tiếng thế giới như:
Tơ lụa, luyện kim, đồ gốm sứ, sơn mài… Nếu như vào đầu thế kỷ XVII, Nhật Bản vẫn
phải nhập khẩu tơ lụa từ Trung Quốc thì chỉ mấy thập kỷ sau đó, sau khi theo đuổi
chính sách đóng cửa, trước nhu cầu bức thiết của thị trường ttrong nước, ngành sản
xuất tơ lụa đã đạt được sự tăng trưởng mạnh mẽ, chất lượng và số lượng mặt hàng
không ngừng được nâng cao.
Edo được coi là một thời kỳ đóng cửa đất nước nhưng khoảng 30 năm đầu thế
kỷ XVII, Nhật Bản đã có nhiều quan hệ thương mại với nhiều quốc gia trên thế giới.
Sau chính sách tỏa quốc (sakoku) được thi hành, Nhật Bản vẫn tiếp tục duy trì mối
quan hệ giao thương với đồng thời một số quốc gia trong khu vực

 Là thời kỳ Mạc phủ Tokugawa suy tôn Nho giáo, đề cao vị thế của Shinto giáo,
giữ quan hệ với Phật giáo, nhưng cũng chính trong thời gian đó Kito giáo đã
thâm nhập vào xã hội Nhật Bản và thu hút đơng đảo tín đồ vừa là thời kỳ xuất
hiện những khuynh hướng tư tưởng đồng thời là trường phái học thuật mới, tác
động đến nhiều đẳng cấp trong xã hội như: Quốc học, Khai quốc học, Hà Lan
học,…
6


1.2

Khái quát thời kỳ mậu dịch Châu Ấn Thuyền:

Châu ấn thuyền (shuinsen) là loại thuyền buồm của Nhật Bản có trang bị vũ trang,
được dùng để giao thương hàng hóa với các nước lân bang. Một Châu ấn thuyền
thông thường có tải trọng khoảng 500-750 tấn, nhỏ hơn các tàu buôn tiêu chuẩn châu
Âu ở Đông Á, mớn nước thấp giúp nó dễ dàng hơn khi bn bán ở khu vực cửa sông
hay vùng nước ven bờ, trong khi vẫn đủ rộng để mang nhiều hàng hóa hay vật tư dự
trữ. Những con tàu này được đóng ở nhiều nơi khác nhau trên khắp các lãnh địa

daimyo Nhật Bản, kể cả ở trạm giao dịch của người Nhật ở Ayutthaya (vì chất lượng
gỗ Xiêm và vì người Thái đặt hàng). Nhưng phần lớn chúng xuất xưởng ở 1 nơi có
tính quốc tế cao là Nagasaki, kết hợp các thiết kế thân tàu, cánh buồm và cả vũ khí
giữa phương tây, Nhật Bản và Trung Hoa. Trung bình hàng năm Nhật Bản cử đi 14
chuyến thuyền buôn với tổng số thành viên tham gia lên đến 80.000 người. Từ cuối thế
kỷ XVI, đã có nhiều cộng động người Nhật định cư ở nước ngoài và lập nên những
cảng Nhật, phố Nhật.
Thời kỳ mậu dịch Châu ấn thuyền (1592 - 1635) thuyền buôn Nhật Bản đã đến giao
thương trực tiếp với khoảng 18 quốc gia và khu vực lãnh thổ nhưng chủ yếu là khu vực
Đông Nam Á. Thời kỳ này được xem là những viên đá đầu tiên đặt nền móng cho quan
hệ Nhật Bản – Đông Nam Á các giai đoạn sau này.
“Sau thời Kỳ Chiến quốc, để kiểm soát ngoại thương thì Nhật đã xuống lệnh ngăn cấm
thần dân xuất ngoại. Ngã giao thương chính bấy giờ của Nhật Bản là qua vương quốc
Lưu Cầu. Lưu Cầu (Ryukyu) là 1 cường quốc hải thương ở Đông Á thế kỷ 15-16. Họ
chỉ là đảo quốc nhỏ bé, dân số và tài ngun ít ỏi nhưng bù lại, nước này có ưu thế
nằm trên vùng hải lộ nhộn nhịp Đông Á-Đông Nam Á. Nhờ việc chiếm vị trí đẹp trong
giao thương, Lưu Cầu tự biến mình thành quốc gia có ưu thế về thương mại hàng hải,
nơi tàu buôn 3 nước Đông Á và 1 số nước Đông Nam Á khác ghé đến và giao dịch
thường xuyên. Chiều ngược lại, người Lưu Cầu cũng chủ động tìm về Đơng Á hay
Đơng Nam Á để trao đổi buôn bán. Vị thế Lưu Cầu có nét tương tự với Nhật ngày
trước: Đều là những quốc đảo phía đơng và là “mâm dưới” trong hệ thống chư hầu
Trung Quốc (Lưu Cầu thậm chí 10 năm được cống 1 lần). Sau mỗi lần cống, Lưu Cầu
sẽ được triều đình Trung Quốc tặng nhiều vật phẩm giá trị, gồm cả những tàu đi biển
cỡ lớn mà Trung Quốc không dùng do lệnh cấm hải. Với 1 nước nhỏ như Lưu Cầu,
7


lợi ích họ nhận được từ việc tiến cống nhà Minh gần như là vô giá. Nên dù địa thế xa
xôi cách trở hay mang phận chư hầu chiếu dưới, Lưu Cầu vẫn trung thành với Trung
Hoa. Qua thời gian và đi cùng sự cạnh tranh quyết liệt từ các tàu phương tây, hoạt

động thương nghiệp vốn rất thịnh vượng của Lưu Cầu ngày trước nay đã phải chùng
xuống. Vậy nhưng trong mắt Ieyasu, quốc đảo này vẫn là chướng ngại cần xử lý nếu
muốn xâm nhập Đông Nam Á 1 cách vẹn toàn.
Năm 1609, Tokugawa Ieyasu cho phép phiên Satsuma của gia tộc Shimazu tiến
hành viễn chinh Lưu Cầu, với lý do họ đã trợ giúp quá ít cho cuộc xâm lược Triều
Tiên khi được Nhật Bản đề nghị. Sở dĩ phiên Satsuma được trao quyền thực hiện chiến
dịch là bởi gia tộc Shimazu đã có liên kết lâu đời về ngoại giao/kinh tế với quần đảo
Ryukyu qua hàng thế kỷ, nên chỉ họ mới sở hữu hạm đội đủ lớn và đủ gần cho cuộc
viễn chinh, đồng thời nắm rõ những yếu điểm của quân đội Lưu Cầu. Tháng 3/1609,
quân viễn chinh Satsuma nhổ neo với khoảng 100 tàu cùng 3000 quân - lực lượng ko
nhiều, nhưng chừng đó là đủ để đánh gục tiểu quốc Lưu Cầu vốn cũng chỉ có trên
3000 qn bảo vệ đơ thành Shuri. Quân Satsuma đã bắt quốc vương Sho Nei cùng hơn
100 triều thần, án ti đem về Nhật Bản. Lưu Cầu bị buộc trở thành chư hầu của nhà
Shimazu, trong khi vẫn được phép giữ quan hệ triều cống với Trung Quốc. Cho đến
năm 1879 sau cuộc Minh Trị Duy Tân, Lưu Cầu mới bị sát nhập ( tỉnh Okinawa). Sự
việc này đã làm gián đoạn ngôi vị mấu chốt trong chuỗi hải hành của các tàu buôn Lưu
Cầu ở Đông Á và Đông Nam Á.
Sớm nhất là từ năm 1592 dưới thời Hideyoshi, những đội tàu bn Nhật có vũ
trang (Châu ấn thuyền) đã xuất hiện, tuy nhiên thứ làm nên thương hiệu của nó những giấy phép có dấu triện đỏ của Mạc phủ (Ngự châu ấn trạng) thì phải đến 1604
mới ra đời. Vào giai đoạn này cướp biển Nụy Khấu hồnh hành tích cực trên vùng
biển Đông Á và Đông Nam Á, chủ trương cướp phá các thương thuyền dọc ven biên
Trung Hoa và Triều Tiên. Để giao thương với các nước lân cận thì tàu thuyền Nhật
Bản cũng đi qua vùng biên này. Thế nên Tokugawa Ieyasu đã cho ban hành Ngự châu
ấn trạng ( Goshuinjo) cho phép tàu thuyền Nhật Bản có giấy phép hành đặc biệt này
mới được sang các nước khác buôn bán. Và ngược lại, tàu thyền nào muốn vào Nhật
Bản thì cũng phải có giấy phép này của Mạc phủ, tàu thuyền nào khơng có giấy thì
triệt để cấm ngặt. Thông qua chế độ này Mạc phủ muốn bảo đảm an toàn cho các tàu

8



bn của Nhật và nước ngồi tránh khỏi nạn cướp biển, đồng thời xác lập quyền uy
của mình trong quan hệ quốc tế.

CHƯƠNG 2:NGUYÊN NHÂN VÀ VAI TRÒ CỦA MẬU DỊCH CHÂU ẤN
THUYỀN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI GIỮA NHẬT BẢN
VÀ ĐÔNG NAM Á
2.1. Nguyên nhân Nhật Bản tăng cường giao lưu và quan hệ thương mại với
Đông Nam Á:
Trước đó khoảng năm 1593, Tướng quân Tokugawa Ieyasu đã có ý định thơng
sứ với các nước lân cận, một phần để thông thương, một phần để ra oai bá cáo cho các
lân bang biết rằng ông đã thống nhất nước Nhật. Tokugawa Ieyasu cho ban hành
giấy Goshuinjo (Ngự châu ấn trạng) tức giấy phép thông hành đặc biệt của Mạc
phủ cho phép các tàu thuyền ra ngoại quốc đi bn. Nhật triều cũng địi các tàu thuyền
đến Nhật cũng phải có giấy phép của Mạc phủ. Tàu thuyền nào khơng có giấy thì triệt
để cấm ngặt. Về mặt hình thức Goshuinjo rất dễ nhận diện vì dấu son đỏ đóng trên
giấy; cịn con tàu có cấp giấy đó thì gọi là Shuinsen (Châu ấn thuyền). Sự kiện đó đánh
dấu "Thời đại Châu ấn thuyền." Dưới sự kiểm soát của chính quyền, nạn hải tặc vốn
hồnh hành ở Đơng Á giảm nhiều. Theo đó lưu thương nhân Nhật xuất hiện trên
thương trường khắp Đông Á kể cả Việt Nam.
Sau thời gian dài nội chiến, đất nước thống nhất, xã hội thái bình, nhu cầu
hưởng thụ tăng cao thơi thúc các thương nhân bn bán với nước ngồi để đáp ứng các
nhu cầu mới của xã hội. Mặt khác, ở Nhật đã hình thành các phố thương mại lớn như
Edo, Kyoto, Sakai, Osaka, Hirado… tầng lớp thương nhân giàu có và các daimyo tham
gia hoạt động thương mại cũng xuất hiện ngày càng nhiều, có khả năng tham gia vào
các hoạt động thương mại quốc tế.
Lúc bấy giờ Nhật Bản là nước sản xuất vàng, bạc, đồng nhiều nhất Đông Á.
Đương thời, trừ NB thì thế giới chỉ sản xuất được 390-420 tấn bạc, nhưng có lúc Nhật
Bản sản xuất được 30-40% lượng bạc tồn thế giới. Nhờ đó, Nhật Bản có tiền và hàng
để trao đổi với các nước, có thể mua bán được khối lượng hàng lớn và quý của các

nước.
Đây là thời kỳ đại hàng hải, các thuyền buôn lớn của phương Tây ồ ạt sang
châu Á bn bán. Nhờ đó mà người Nhật đã nhanh chóng tiếp thu kỹ thuật đóng tàu,
kỹ thuật hàng hải và mua của người phương Tây các kỹ thuật phục vụ hàng hải. Điều
9


này cho phép thương nhân người Nhật có khả năng bn bán lớn ở nước ngồi. Các
thương nhân Nhật Bản chủ yếu xuất khẩu bạc, kim cương, đồng, kiếm và các đồ tạo
tác khác, đồng thời nhập khẩu lụa Trung Quốc cũng như một số sản phẩm Đông Nam
Á (như đường và da hươu). Hạt tiêu và gia vị hiếm khi được nhập khẩu vào Nhật Bản,
nơi mọi người không ăn nhiều thịt do người địa phương ưa chuộng hệ thống tín
ngưỡng Phật giáo. Các cảng Đơng Nam Á là nơi gặp gỡ của các tàu Nhật Bản và
Trung Quốc.
Xưa nay bạn hàng lớn nhất của Nhật Bản là Trung Quốc nhưng giữa thời Minh,
triều đình đã ban hành chính sách hải cấm (Haijin), mậu dịch giữa Nhận Bản và Trung
Quốc bị đình trệ. Người Nhật phải tìm thị trường mới để mua các sản phẩm cùng
chủng loại và chất lượng với sản phẩm Trung Quốc, nhất là tơ lụa và đồ gốm sứ.
Đương thời chỉ có thị trường Đơng Nam Á, đặc biệt là Việt Nam mới đáp ứng được
điều đó. Điều này giải thích tại sao vào thời kỳ này, Nhật tập trung buôn bán với khu
vực Đông Nam Á.
2.2 Vai trò của mậu dịch Châu Ấn Thuyền đối với sự phát triển thương mại
giữa Nhật Bản và Đông Nam Á:
Hoạt động buôn bán giữa Nhật Bản với Đơng Nam Á đã có những tác động to
lớn về mặt kinh tế đối với cả hai bên. Các hoạt động bn bán góp phần thúc đẩy sự
phát triển của ngành khai thác nông lâm sản ở Đông Nam Á do ở thị trường Nhật Bản,
các mặt hàng nông, lâm, hải sản vốn rất được ưa chuộng. Việc xuất khẩu một số mặt
hang như đường, tơ lụa… cũng đã thúc đẩy sự phát triển của ngành nông nghiệp, thủ
công nghiệp của Đơng Nam Á. Về phía Nhật Bản, sau khi thực hiện chính sách đóng
cửa, việc bn bán với Việt Nam nói riêng và các nước Đơng Nam Á nói chung đã

giúp Nhật Bản giữ mạch nối kinh tế, đồng thời duy trì kênh thơng tin đa dạng với thế
giới bên ngồi. Việc ưa chuộng nhập khẩu các loại khống sản từ Nhật Bản như đồng,
bạc, lưu huỳnh… của Đông Nam Á đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của các ngành
khai khống của Nhật Bản. Khơng chỉ riêng ngành khai thác khống sản, thủ cơng
nghiệp cũng ngày càng phát triển và đa dạng hóa hơn nhằm tạo ra những sản phẩm thủ
công nghiệp tinh xảo như quạt, dù, gương, các sản phẩm sơn mài cung cấp cho thị
trường Đông Nam Á. Sự phát triển, hưng thịnh của thủ công nghiệp, thương nghiệp
cũng đã thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp, để đáp ứng nhu cầu cung cấp nguyên
liệu cho các ngành sản xuất ở nhiều vùng của Nhật Bản đã hình thành các vùng chuyên
10


canh, một đặc trưng riêng của kinh tế nông nghiệp Nhật Bản lúc bấy giờ. Từ đó, kinh
tế nơng nghiệp đã vượt qua khuôn khổ tự cung, tự cấp và bước đầu có tính chất hàng
hố tiền tư bản chủ nghĩa.
Thơng qua chính sách Châu ấn thuyền, các thương gia và những người nhập cư
Nhật Bản đã đến và định cư lâu dài tại các thương cảng phồn thịnh của một số quốc
gia ở khu vực Đông Nam Á như: Philippines (Dilao và San Miguel), Việt Nam (Hội
An), Thái Lan (Ayutthaya) và Campuchia (Phnom Penh và Pignalhu). Tại các thương
cảng này, những cư dân Nhật Bản luôn sống cùng nhau tại những khu định cư đặc biệt
được chính quyền sở tại ban cấp, gọi là các Nihonmachi (Nihonmachi có nghĩa là phố
Nhật). Mặc dù chỉ tồn tại trong một đến hai thế hệ tại các thương cảng sầm uất nhất
của Đơng Nam Á, nhưng Nihonmachi khơng chỉ đóng vai trị tối quan trọng vào đầu
thế kỷ XVII, mà còn gắn kết mạng lưới thương mại suốt những thập niên cuối của thế
kỷ này và lan tỏa văn hóa Nhật Bản một cách sâu rộng. Thông qua mối giao lưu kinh
tế, văn hóa suốt nửa thế kỷ này, Nhật Bản đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ký ức của
nhiều dân tộc Đông Nam Á. Cho đến nay, nhiều giá trị vật thể, phi vật thể vẫn tiếp tục
được gìn giữ và bảo tồn.
Trong quá trình tồn tại của mình, từ đầu thế kỷ XVII cho đến những năm 1640,
các Nihonmachi ln giữ vai trị quan trọng trong hoạt động ngoại giao giữa Nhật Bản

với các nước Đông Nam Á. Mối quan hệ giữa cộng đồng với hoạt động ngoại giao và
buôn bán tương hỗ mật thiết, nếu hoạt động ngoại giao có vấn đề tất yếu sẽ dẫn đến
việc giao thương gặp cản trở. Như vậy, các Nihonmachi trở thành nhân tố gắn kết mối
quan hệ giao thương giữa Nhật Bản với Thái Lan, Việt Nam, là cơ sở để đẩy mạnh
hoạt động buôn bán, đảm bảo cho ngoại giao và thương mại. Trường hợp dị biệt ở
Thái Lan là ngoại giao - thương mại và quân sự.
Nếu không có mậu dịch Châu ấn Thuyền sẽ khơng có Nihonmachi, do vậy sự
suy tàn của hoạt động mậu dịch trực tiếp, chủ động giữa Nhật Bản và Đông Nam Á từ
1641 trở đi cũng đánh dấu sự suy tàn của hệ thống Nihonmachi. Do đó, Nihonmachi
nói riêng và mậu dịch Châu Ấn Thuyền nói chung có vai trị quyết định đối với hoạt
động mậu dịch trực tiếp giữa Nhật Bản với Đông Nam Á giai đoạn đầu thế kỷ XVII và
là cầu nối đối với hoạt động mậu dịch gián tiếp giai đoạn cuối thế kỷ XVII.

11


CHƯƠNG 3: QUAN HỆ THƯƠNG MẠI GIỮA NHẬT BẢN VÀ VIỆT
NAM THỜI CHÂU ẤN THUYỀN
3.1. Quan hệ giao thương giữa Nhật Bản và Đàng Ngồi:
Với vị trí đầu mối giao thông thuận lợi trên trục sông Hồng, Phố Hiến như một
cảng biển nằm sâu trong cửa sông, đồng thời là tiền cảng của kinh thành Thăng Long,
lại nằm giữa vùng đồng bằng phía Nam châu thổ sơng Hồng đơng đúc dân cư và trù
phú về kinh tế. Đầu thế kỷ XVII, Phố Hiến đã dần dần nổi lên như một đơ thị – cảng
trung tâm của Đàng Ngồi.
Q trình hình thành và phát triển Phố Hiến là một hiện tượng khá đặc biệt trong lịch
sử đơ thị Việt Nam. Nó hưng thịnh rất nhanh và suy tàn cũng mau chóng, chỉ trong
vòng một thế kỷ và để lại dấu vết mờ nhạt. Câu ca dao “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố
Hiến” đã nói lên thời thịnh đạt của Phố Hiến vào giai đoạn cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ
XVII.
Nhà nước Việt Nam ở Đàng Ngoài một mặt thi hành chính sách mở cửa, mặt khác vẫn

cảnh giác với số thương nhân nước ngồi nên có những quy định hạn chế họ lưu trú ở
Thăng Long. Thông thường, Nhà nước chỉ cho thương nhân ngoại quốc buôn bán ở
đây, rồi lại trở về trú ngụ ở một nơi quy định, gọi là thương điếm. Phố Hiến là nơi đặt
Hiến ty làm nhiệm vụ canh phịng, kiểm sốt, thu thuế tàu buôn qua lại đồng thời là
một cảng sông neo đậu tàu thuyền và cho phép người nước ngoài được đặt thương
điếm. Do đó Phố Hiến có điều kiện phát triển nhanh.
Thương nhân nhiều nước châu Á có mặt ở Phố Hiến khá đông và lưu trú ở đây lâu dài.
Thương nhân đến sớm nhất là người Trung Quốc, Nhật Bản, Xiêm, Inđơnêxia. Cũng vì
thế mà Phố Hiến cịn có tên là “Vạn Lai Triều”.
Trong 30 năm đầu của thế kỷ XVII – thời kỳ thịnh vượng Shuinsen – nhiều thuyền
Nhật Bản đã cập bến Phố Hiến. Căn cứ nguồn gốc địa danh, có nhà nghiên cứu cho
rằng: “Cùng với người Trung Quốc, có lẽ cịn sớm hơn lúc người Trung Quốc đến làm
ăn buôn bán đại trà ở Phố Hiến, tại đây đã có mặt người Nhật Bản”. Từ 1604 – 1635,
trong số 229 Shuinsen buôn bán với Đông Nam Á có 51 thuyền đến Đàng Ngồi
(Tonkin), trong đó có thương cảng quan trọng Phố Hiến.
12


Hoạt động kinh tế ở Phố Hiến rất nhộn nhịp vì là nơi đầu mối của nội thương Đàng
Ngồi và trung tâm buôn bán của thương nhân ngoại quốc. Sách “Hịa Hán Tam Tài
Đơ Hội” (Nhật) đã ghi chép cụ thể những mặt hàng xuất khẩu từ Phố Hiến sang Nhật.
Đó là: Lĩnh, đũi, sa, nhiễu, nhung, tơ, bơng vải, sa tanh, sơn, quế, nhãn, hoắc hương,
lưu huỳnh, thiếc, cau, đồ sứ, đồ sơn. Các tài liệu Nhật còn bổ sung vào danh sách này:
riêng tơ lụa có tới 10 loại và các loại hàng khác, như gạo, hồ tiêu, vây cá, đường và cả
vàng nữa. Nhưng tơ lụa vẫn là mặt hàng chủ yếu ở đây, được Chúa Trịnh dùng làm
“vũ khí cấm vận kinh tế” với Chúa Nguyễn do ngoại thương Đàng Trong gắn liền với
mặt hàng này mà sản lượng lại ít.
Tơ, lụa cũng là hàng nhập khẩu chủ yếu của người Nhật và Nhật Bản là thị trường lớn.
Vì vậy, thương nhân Nhật nắm bắt khá vững thị trường tơ lụa về giá cả, chất lượng
cũng như thời điểm thu mua. “Tơ mới”, hay “tơ tươi”, sản xuất từ tháng 4 đến tháng 6,

họ mua với giá 140 – 160 lạng/tạ, “tơ già” hay “tơ cũ” thu hoạch từ tháng 10 – 12 là
“tơ trái mùa”, họ chỉ mua 100 – 110 lạng/tạ. Bởi vì, tàu của thương nhân Nhật thường
rời bến trước 20 tháng 7 và năm sau mới trở lại, nên tơ cũ giảm giá hơn tơ mới. Để
đảm bảo cung ứng đầy đủ nguồn hàng, thương nhân Nhật thường đặt tiền trước; do đó,
họ thường mua được nhiều tơ, lụa.
Hiện tượng bn bán tấp nập cũng thể hiện khá rõ ở Kinh kỳ Thăng Long. Kinh đô
Thăng Long được gọi là Kẻ Chợ, có nghĩa là “chợ”, “chợ phiên”: Bởi vì trong xứ có
sản vật gì tốt, ngoại quốc có hàng đem vào bán đều đưa đến đây cả, một tháng có hai
phiên chợ to vào ngày mồng một và mười lăm.
Đạo lệnh năm Canh Dần thứ hai, niên hiệu Khánh Đức (1650) về việc cấm ngoại kiều
ở lẫn với dân Việt ghi rõ:
Khi có những tàu người các nước Hoa Lang, Ơ Lan và Nhật Bản đến cửa bể nước ta
thì trong kinh phải sai viên thể sát trước đi do thám tình hình, rồi cho bọn họ được ở
những địa phận các làng Thanh Trì, Khuyến Lương… lại chọn người bản quốc làm
thông sự, hiểu dụ viên trưởng tàu để giữ gìn lễ phép, để đến Kinh lễ mừng.
Điều lệ ghi nhận việc nhà nước cho phép tàu Nhật Bản cùng các tàu nước khác được
vào hai bến Khuyến Lương và Thanh Trì, nằm ở phía đơng nam, cách Kinh đơ 10km
theo đường chim bay. Thực ra, đạo lệnh trên là sự công nhận thực tại từ đầu thế kỷ
13


XVII. Như vậy, tàu Nhật đã thường xuyên lui tới Đàng Ngồi và Kinh đơ – Kẻ Chợ là
địa điểm hoạt động quen thuộc của người Nhật. Thời điểm từ lúc ban hành đạo lệnh
trên đến khi nước Nhật “đóng cửa” đã trải qua gần 15 năm, nên chỉ còn lại một số
Nhật kiều đang dần hòa nhập vào cộng đồng người Việt mà thôi.
Do sự chuyển biến lớn trên thế giới và trong nước, Chúa Trịnh đã thấy sự cần thiết mở
cửa để đón tiếp thương nhân nước ngồi ở những nơi trước đây vốn nghiêm cấm. Ở
Đàng Ngoài, Phố Hiến, Kẻ Chợ là nơi thường xuyên có tàu Shuinsen đến buôn bán.
 Kết luận:
Vào thế kỷ XVII, kinh tế hàng hóa Việt Nam có một bước phát triển mới làm cơ sở

vững chắc cho sự ra đời của thành thị ở Việt Nam và trở nên phồn thịnh. Do ảnh
hưởng của bối cảnh quốc tế và chính sách ngoại thương khá mạnh dạn của Chúa Trịnh
mở cửa đón chào các tàu buôn của phương Tây, Trung Quốc, Nhật Bản, tạo nên một
dấu ấn mới đậm nét trong bức tranh kinh tế – xã hội Việt Nam.
Đàng Ngoài cũng bị lôi cuốn vào những hoạt động thương mại quốc tế đang diễn ra
hết sức nhộn nhịp ở Đông Nam Á. Trong bối cảnh đó, nhiều cảng thị ven biển và nội
địa được hình thành và phát triển mạnh mẽ, như: Vân Đồn, Phố Hiến, Kẻ Chợ, Phục
Lễ đã trở thành những đầu mối giao thương quan trọng ở Đàng Ngoài hoặc là trung
tâm ngoại thương của khu vực.
3.2. Quan hệ giao thương giữa Nhật Bản và Đàng Trong:

 Thời điểm bắt đầu quan hệ Mậu dịch giữa Nhật Bản và Đàng Trong:
Theo như ta đã tìm hiểu thì thương nhân Nhật Bản buôn bán với cả Đàng Trong lẫn
Đàng Ngồi nhưng khi so sánh giữa hai Đàng thì Đàng Trong chiếm ưu thế hơn khá
nhiều.
Cụ thể đó là từ thế kỉ XIV đến giữa thế kỉ XVI, lần đầu tiên triều đình Trung Quốc ban
bố sắc lệnh “hải cấm” đối với Nhật Bản. Nhưng sau đó, do những biến động chính trị
trong nước, các sứ thần Nhật Bản cũng khơng được cử sang Trung Quốc. Vì vậy các
thương nhân đã phải thông thương với nhau bằng con đường bất hợp pháp qua các
thương cảng thứ ba ven biển Đông Nam Á như Hội An ở Việt Nam, Pinhalu ở
Campuchia hay Manila. Do đó có thể nói mối quan hệ buôn bán thông thương giữa
14


Nhật và Trung Quốc là nguyên nhân khách quan tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự
phát triển Mậu dich Nhật Bản với chính quyền Đàng Trong tại thương cảng Hội An.
Tiếp theo sau đó, bắt đầu từ cuối thế kỉ XVI, thuyền buôn Nhật Bản rời Macao đi Giao
Chỉ (Giao Chỉ ở đây có nghĩa là Đàng Trong), sự kiện hai thương nhân Nhật Bản
Suetsugu và Funamoto ghé thuyền vào Cửa Đại – Hội An được xem là cột mốc quan
trọng trong mối quan hệ mậu dịch đối ngoại giữa triều đình Nhật Bản và Chúa Nguyễn

ở Đàng Trong.
Trong những năm đầu thế kỉ XVII, từ 1604 đến 1635, quan hệ Nhật Bản với Đàng
Trong từng bước được thiếp lập, chính quyền hai bên thường xuyên trao đổi văn thư
nhằm mở rộng quan hệ cũng như khuyến khích việc phát triển ngoại thương của cả hai
nước.
 Các mặt hàng nổi tiếng của Đàng Trong:
Bên cạnh yếu tố địa hình và chính sách ngoại giao cởi mở của chúa Nguyễn, những
đặc sản quý hiếm xuất xứ từ Đàng Trong tại Hội An chính là điều kiện thu hút các
thương gia quốc tế tập trung tại nơi đây.
-

Ta có thể kể đến Dinh Quảng Nam là một vùng nghề làm tơ phát triển và có sản
lượng tơ lụa khá lớn đủ dùng trong nội địa và xuất khẩu.

-

Ngồi ra cịn có đường – một mặt hàng xuất khẩu quan trọng từ Hội An hay
một đặc sản mà từ thời xa xưa chỉ dùng để tiến cống cho vua chúa là yến sào.

-

Bên cạnh đó cịn có những mặt hàng vơ cùng giá trị và quý hiếm khác như quế,
kì nam và trầm hương. Vàng cũng là một sản phẩm xuất khẩu lớn của Đàng
Trong tại Hội An. Các thương gia đến Hội An đã không ngớt lời khen ngợi rằng
“ Đàng Trong là xứ sở của vàng, vàng ở đây tốt đẹp nhất, tinh khiết nhất thế
giới”.

-

Hội An cịn đóng vai trò quan trọng về trao đổi các mặt hàng gốm sứ tại những

chợ quốc tế hằng năm. Và để minh chứng rõ ràng hơn cho tầm quan trọng của
các mặt hàng gốm sứ, ta có thế nhắc đến những cuộc khai quật đã phát hiện ra
đồ gốm sứ Hizen của Nhật Bản tại một di chỉ khảo cổ thuộc thị xã Hội An vào
những năm 1993-1994 hay việc phát hiện ra đồ gốm sứ Chu Đậu- Hải Dương
tại xác con tàu cổ đắm tại Cù Lao Chàm.

15


Và đó cũng là một trong những lí do khiến Hội An trở thành thương cảng mậu dịch
quốc tế và là cửa ngõ thương mại quan trọng của xứ Đàng Trong thời kì trung đại.
 Hoạt động giao thương giữa Đàng Trong và Nhật Bản hoàn toàn chấm dứt:
Tuy nhiên, thời kỳ bang giao chính trị và thương mại tốt đẹp ấy cũng khơng kéo
dài được bao lâu. Vì vào năm 1633, Mạc phủ Nhật Bản cắt đứt quan hệ giao thương
với Hà Lan và Bồ Đào Nha với lý do chế độ Châu Ấn thuyền của họ bị vi phạm bằng
hành động cướp bóc và đối xử bất bình đẳng ở nước ngồi. Mạc phủ ra lệnh cấm cơng
dân nước họ khơng được đi ra nước ngồi bằng đường biển với bất kỳ lý do nào và
buộc kiều bào Nhật đang sống và làm ăn ở nước ngoài phải hồi hương trong phạm vi
thời hạn nhất định, nếu không chấp hành sẽ bị nghiêm trị. Hai năm sau, năm 1635,
chế độ “Châu ấn thuyền” cũng hồn tồn bị xóa bỏ, từ đó khơng cịn một thương
thuyền nào của Nhật bản rời cảng nước mình để ra nước ngồi, kể cả đến cảng Hội An.
Và đến năm 1639, Nhật Bản hồn tồn đóng cửa đối với thế giới bên ngồi. Người
Nhật buộc phải rời Hội An để hồi hương hàng loạt. Và việc hồi hương của họ đã gây
nên bao cảnh chia ly, tan vỡ, cũng như là để lại nhiều đau thương cho cả người đi lẫn
người ở lại.
Sau cuộc hồi hương hàng loạt của người Nhật, các cơ sở kinh doanh ở Hội An
phần lớn đã được các thương gia người Hoa mua lại để phát triển hoạt động bn bán
của mình. Ban đầu, “phố Nhật” hầu như được giữ gìn nguyên trạng. Dần dần về sau
người Hoa, người Việt đã xây dựng chồng lên đó những cơng trình kiến trúc mới. Sau
đó thì những cuộc chiến tranh thời Trịnh – Nguyễn và Tây Sơn tàn phá. Người Việt và

người Hoa cũng tái thiết đô thị Hội An theo khả năng và cách của riêng mình. Nhiều
nhà cửa, hiệu bn, hội qn, cơng trình tín ngưỡng đã được dựng lên theo phong cách
kiến trúc của họ như Chùa Kim Sơn - Hội quán Phước Kiến, hay là Chùa Ơng Bổn,
Đình Ơng Voi,... Và điều đó vơ tình đã xóa đi mãi mãi dấu tích “phố Nhật” ngày xưa
tại phố cổ Hội An nơi đây.
Tuy quan hệ giao thương giữa Nhật - Việt ở Hội An diễn ra trong thời gian ngắn,
nhưng sự có mặt của người Nhật đã đóng vai trị quan trọng trong hoạt động giao
thương bn bán ở Hội An, tạo điều kiện để đô thị Hội An phát triển ngày càng hưng
thịnh.

16


 Tổng kết:
+ 1604 – 1635, triều đình nhà Nguyễn ở Đàng Trong đã thành công trong việc tận
dụng hệ thống Châu Ấn thuyền nhằm thiết lập quan hệ ngoại giao với Mạc Phủ
Tokugawa, thu được những lợi thế đáng kể.
+ Hội An đã trở thành thương cảng giữ vai trị mắt xích trung chuyển hàng hóa trọng
yếu của các thương nhân Nhật Bản với mạng lưới hải thương trong khu vực Châu Á và
thế giới bên ngoài.
 Quan hệ giữa Nhật Bản và Việt Nam đã được thiết lập sớm và tồn tại qua nhiều
thế kỉ.

17


KẾT LUẬN
Trong q trình hoạt động bn bán, thuyền bn từ Đông Nam Á đến Nhật Bản
luôn đi theo chu trình hoạt động của gió mùa. Những thuyền bn đến Nhật Bản vào
khoảng tháng 6 hay tháng 7 hàng năm và trở về vào khoảng tháng Giêng hay tháng

Hai. Về cơ cấu mặt hàng buôn bán, các mặt hàng thường được nhập về từ Nhật Bản
như: bạc, đồng, gốm sứ, lưu huỳnh, sản phẩm sơn mài… Trong đó, bạc khơng chỉ
dùng để mua bán các loại hàng hóa, mà ngay bản thân nó cũng là một loại hàng hóa,
các thương nhân Hà Lan, Trung Quốc thường buôn bạc từ Nhật Bản đến các nước
Đơng Nam Á. Cịn các mặt hàng mà thuyền từ Đông Nam Á thường đưa đến Nhật Bản
chủ yếu là nông lâm thủy sản như tơ lụa, gỗ quý, gỗ nhuộm vải, đường, sừng tê, da
hươu, hương liệu... Ngồi ra, khi các thuyền bn trở về, thường hay ghé vào các
thương cảng Trung Quốc để bán bớt đồng và một số hàng hóa Nhật Bản, và cất thêm
tơ lụa Trung Quốc hoặc tiếp thêm lương thực, nước ngọt.
Thông qua các hoạt động buôn bán này, những thông tin giữa các bên vẫn được
duy trì và phát triển, tạo điều kiện cho việc thiết lập các mối quan hệ ngoại giao, kinh
tế, chính trị, văn hóa sau này.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Thức, Giáo trình tiến trình lịch sử Việt Nam
2. Thời kỳ Tokugawa trong lịch sử Nhật Bản – PGS TS Nguyễn Văn Kim
3. Tìm hiểu về Châu ấn thuyền – Phạm Duy, nhóm nghiên cứu lịch sử
4. Đại Nam thực lục tiền biên (1962), Viện sử học Hà Nội
5. Nguyễn Quốc Hùng, Giáo trình Lịch sử Nhật Bản, NXB Thế Giới.
6. TS Trần Đức Anh Sơn, Mối quan hệ giữa Nhật Bản với Đàng Trong (Việt
Nam) trong các thế kỷ XVI – XVIII qua những tư liệu và hiện vật đang lưu
giữ tại Nhật Bản, Khoa Văn Học Trường Đại học KHXH&NV.
7. Christophoro Borri (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621, NXB TP.HCM.

19




×