Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Đề 4 ĐỀ BÀI: Câu 1: Phân tích quan điểm của C.Mác về lượng giá trị một đơn vị hàng hóa?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.01 KB, 10 trang )

ĐỀ BÀI:
Câu 1: Phân tích quan điểm của C.Mác về lượng giá trị một đơn vị hàng hóa?
Theo quan điểm của C.Mác, cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đởi
hàng hóa thì lượng giá trị một đơn vị hàng hóa sẽ biến đổi theo chiều hướng
nào? Giải thích? Quan điểm trên có ý nghĩa như thế nào đối với doanh nghiệp
trong lĩnh vực sản xuất?
Câu 2: Làm rõ mối quan hệ giữa tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Phân
tích ý nghĩa của việc nghiên cứu chu chuyển tư bản.


BÀI LÀM
Câu 1: Phân tích quan điểm của C.Mác về lượng giá trị một đơn vị
hàng hóa?
Theo quan điểm của C.Mác, cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi
hàng hóa thì lượng giá trị một đơn vị hàng hóa sẽ biến đổi theo chiều hướng
nào? Giải thích? Quan điểm trên có ý nghĩa như thế nào đối với doanh nghiệp
trong lĩnh vực sản xuất?

Giá trị của hàng hóa được xét về cả hai mặt là chất và lượng.
Chất giá trị hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa
kết tinh trong hàng hóa. Vậy, lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động
hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định.
Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của
hàng hóa cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi lượng giá trị của
hàng hóa tùy thuộc vào hai nhân tố là Năng xuất lao động và Mức độ phức
tạp của lao động.
Thứ nhất : Năng xuất lao động là năng lực sản xuất cảu lao động ,
được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc
số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. có hai loại
năng xuất lao động là năng xuất lao động cá biệt và năng xuất lao động xã
hội.


Mỗi chủ thể kinh doanh có một lượng hao khí lao động thực tế nhất định
trong q trình sản xuất hàng hóa của họ , đó chính là thời gian lao động cá
biệt. Thời gian lao động cá biệt xác định giá trị cá biệt của hàng hóa . Nhưng
trên thị trường , khơng thể dựa vào giá trị cá biệt của hàng hóa để tiến hành
trao đổi , mà phải dựa vào giá trị xã hội cảu hàng hóa . Giá trị xã hội của hàng


hóa được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết đẻ sản xuất ra hàng hóa
. Vì vậy, năng xuất lao động có ảnh hưởng đến giá trị xã hội cảu hàng hóa
chính là năng xuất lao động xã hội . Năng suất lao động xã hội càng tăng ,
thời gian lao động xã hội cần thiết đẻ sản xuất ra hàng hóa càng giảm , lượng
giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít . Ngược lại năng xuất lao động của xã
hội càng giảm thì thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng háo
càng tăng và lượng giá trị của một dơn vị sản phẩm càng nhiều . Lượng giá trị
của một đơn vị hàng hóa tỉ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và tỉ lệ
nghịch với năng xuất lao động xã hội . Muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng
hóa xuống , thì ta phải tăng năng xuất lao động xã hội.
Năng suất lao động lại tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố như: trinhg dộ của
người lao động , sự phát triển của khoa học kĩ thuật và trình độ ứng dụng tiến
bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất và các điều
kiện tự nhiên.
Thứ hai: mức dộ phức tạp của lao động.
Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hửng nhất định đến số lượng giá
trị của hàng hóa. Có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động
phức tạp .
Lao động giản đơn là lao động mà bất kì một người bình thường nào có khả
năng lao động cũng có thể làm được. Lao động phức tạp là lao dộng đòi hỏi
phải được đòa tạo, huấn luyện thành lao động chuyên mơn lành nghề mới có
thể thực hiện được.
C.Mác đã chỉ rõ: Trong một giờ lao động, người thợ sửa chữa đồng hồ tạo

ra nhiều giá trị hơn người rửa bát. Bởi vì, lao động của người rửa bát là lao
động giản đơn, có nghĩa là bất kì một người bình thường nào, khơng phải trải
qua đào tạo, khơng cần có sự phát triển đặc biệt cũng có thể làm được. Còn
lao động của người thợ sửa chữa đồng hồ là lao động phức tạp địi hỏi phải có


sự đào tạo, phải có thời gian huấn luyện tay nghề . Vì vậy, trong cùng một
đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra được nhiều giá
trị hơn so với lao động giản đơn.
C.Mác viết: “Lao động phức tạp… chỉ là lao động giản đơn được nâng lên
lũy thừa, hay nói cho đúng hơn, là lao động giản đơn được nhân lên…”.
Như vậy, để cho các hàng hóa do lao động giản đơn tạo ra có thể bình đẳng
với các hàng hóa do lao động phúc tạp tạo ra, trong quá trình trao đổi người ta
quy mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình. Lượng giá trị
của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung
bình.
+ Theo quan điểm của C.Mác cùng với sự phát triển của sản xuất và
trao đổi của hàng hóa thì lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa sẽ giảm đi.
Vì:
Cùng với sự phát triển của xã hội, trình độ của người lao động, sự phát
triển của khoa học kĩ thuật, và trình độ ứng dụng tiến bộ kĩ thuật ngày càng
cao và hiện đại, những công việc nặng nhọc được làm trực tiếp bởi người lao
động giờ đã được thay thế bằng máy móc hiện đại, làm cho năng suất lao
động xã hội ngày càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra
hàng hóa càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít.
+ Ý nghĩa của quan điểm của C.Mác đồi với doanh nghiệp trong lĩnh
vực sản xuất.
-Phân tích nền sản xuất hàng hóa của Việt Nam hiện nay.
Nền sản xuất hàng hóa của Việt Nam hiện nay có nhiều ưu điểm để nâng
cao giá trị của hàng hóa. Tuy nhiên, bên cạnh đó cịn rất nhiều những hạn chế

làm cho hàng hóa của VN có giá trị thấp và giá trị không cao.


Lợi thế của nền sản xuất của VN là nguồn lao động rất nhiều, giá lại
rẻ nên thu hút các nhà đầu tu nước ngoài đầu tư vốn và đặt các nhà máy sản
xuất tại VN, làm cho giá thành của sản phẩm rẻ đi nên có tính cạnh tranh cao
hơn về giá so với sản phẩm nước khác có nguồn lao động giá cao. Và đặc
biệt, người lao động nước ta chăm chỉ, cần cù, sáng tạo. Giá nguyên vật liệu ở
nước ta lại rẻ và dồi dào( nhất là sản xuất lương thực, thực phẩm, vật liệu xây
dựng…), làm giảm chi phí sản xuất nên giá cả của hàng hóa giảm đi, tăng sức
cạnh tranh về giá của hàng hóa.
Bên cạnh những lợi thế của nền sản xuất nước ta thì cịn rất nhiều những
hạn chế làm cho nền sản xuất của VN phát triển chậm, chất lượng hàng hóa
khơng cao, làm giảm sức cạnh tranh với hàng hóa của các nước khác. Một số
những hạn chế đó là: Nguồn lao động lớn, dồi dào nhưng trình độ thấp, hầu
hết có trình độ phổ thơng và thiếu chun gia, Tốc độ cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa của nước ta còn rất chậm, hầu hết là lao động thủ cơng, máy móc sản
xuất của nước ta là lạc hậu so với nước ngồi nên chất lượng hàng hóa khơng
cao, khơng cạnh tranh được so với hàng hóa của nước ngồi.
Với nền sản xuất của VN hiện nay, để có thể phát triển và đứng vững trên
thị trường đầy khó khăn và thách thức , các doanh nghiệp phải có những thay
đổi cụ thể nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hồng hóa.
Từ phân tích về nền sản xuất của VN ở trên cho thấy, việc áp dụng học
thuyết về lượng giá trị của C.Mác với các doanh nghiệp là rất cần thiết, lấy đó
làm cơ sở để doanh nghiệp tìm ra hướng đi cho riêng mình, để biến thách thức
thành cơ hội để có thể đứng vững và phát triển trên thị trường.


Câu 2: Làm rõ mối quan hệ giữa tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Phân
tích ý nghĩa của việc nghiên cứu chu chuyển tư bản?

Các bộ phận khác nhau của tư bản sản xuất không chu chuyển giống
nhau. Căn cứ vào phương thức chu chuyển khác nhau của từng bộ phận tư
bản, người ta chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động.

Tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc,
thiết bị, nhà xưởng, v.v. về hiện vật tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất,
nhưng giá trị của nó bị khấu hao từng phần và được chuyển dần vào sản phẩm
mới được sản xuất ra.
Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và nó
bị hao mịn dần trong q trình sản xuất. Có hai lại hao mịn là hao mịn hữu
hình và hao mịn vơ hình:
Hao mịn hữu hình là hao mịn về vật chất, hao mịn về cơ học có thể
nhận thấy. Hao mịn hữu hình do quá trình sử dụng và sự tác động của tự
nhiên làm cho các bộ phận của tư bản cố định dần dần hao mòn đi tới chỗ
hỏng và phải được thay thế.
Hao mịn vơ hình là sự hao mòn thuần túy về mặt giá trị. Hao mòn vơ
hình xảy ra ngay cả khi máy móc cịn tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện các
máy móc hiện đại hơn, rẻ hơn hoặc có giá trị tương đương nhưng cơng suất
cao hơn. Để tránh hao mịn vơ hình, các nhà tư bản tìm cách kéo dài ngày lao
động, tăng cường độ lao động, tăng ca kíp làm việc, v.v. nhằm tận dụng cơng
suất của máy móc trong thời gian càng ngắn càng tốt.
Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định là một biện pháp quan trọng
để tăng quỹ khấu hao tài sản cố định, làm cho lượng tư bản sử dụng tăng lên,
tránh được thiệt hại hao mịn hữu hình do tự nhiên phá hủy và hao mịn vơ
hình gây ra. Nhờ đó mà có điều kiện đổi mới thiết bị nhanh.


-

Tư bản lưui động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng


nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ, sức lao động, V.V., giá trị của nó lưu
thơng toàn bộ cùng với sản phẩm và được hoàn lại tồn bộ cho các nhà tư bản
sau mỗi q trình sản xuất.
Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bản cố định. Việc tăng tốc
độ chu chuyển của tư bản lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ
chu chuyển của tư bản lưu động tăng lên sẽ làm tăng lượng tư bản lưu động
được sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước; mặt khác, do
tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động khả biến làm cho tỷ suất giá trị
thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư hàng năm tăng lên.
Căn cứ để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu
động là phương thức chuyển dịch giá trị khác nhau của từng bộ phận tư bản
trong quá trình sản xuất.
Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu
Tại Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đánh dấu một bước ngoặt quan
trọng cho nền kinh tế nước ta, từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trước năm
1986 quan hệ ngoại giao của nước ta với các nước trên thế giới rất mờ nhạt,
chủ yếu quan hệ với một số nước anh em như: Liên Xô (cũ), Trung Quốc,
Bungari... với mục đích tiếp tục nhận viện trợ . Nền kinh tế trong nước còn
đang yếu, các doanh nghiệp sản xuất theo lệnh từ cấp trên đưa xuống và cũng
chính Nhà nước tìm cách tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp bên cạnh đó
lạm phát ln là mức phi mã. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước các doanh nghiệp có trách nhiệm duy trì, bảo tồn và
phát triền nguồn vốn hiện có nghĩa là doanh nghiệp tự mình sản xuất kinh
doanh tìm "đầu vào" và "đầu ra" cho doanh nghiệp. Về phía Nhà nước lúc này
chỉ quản lý các doanh nghiệp ở tầm vĩ mơ. Do đó nghiên cứu lý thuyết tuần


hồn tư bản rất có ý nghĩa đối với nước ta trong nền kinh tế thị trường, nhất là

đối với
Thứ nhất: Xác định đường lối sản xuất kinh doanh các thành phần kinh
tế.
Hiện nay nước ta đang tồn tại song song 5 phần kinh tế. Cùng với sự
xuất hiện của những doanh nghiệp mới thành lập đã có rất nhiều doanh
nghiệp làm ăn khơng có hiệu quả dẫn đến phá sản. Ngay từ khi có quyết định
bỏ vốn thành lập doanh nghiệp nhà quản trị phải trả lời được 3 câu hỏi: doanh
nghiệp sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? chỉ khi trả lời
ba câu hỏi này một cách đầy đủ và chính xác nhất thì hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp mới được tiến hành bình thường và liên tục hay nói
cách khác doanh nghiệp góp phần thực hiện q trình tuần hoàn tư bản.
Để trả lời được câu hỏi doanh nghiệp sản xuất cái gì? doanh nghiệp cần
phân tích nhu cầu của thị trường xem thị trường đang thiếu cái gì mà nhu cầu
về mặt hàng ngày đang tăng và nó sẽ mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho doanh
nghiệp trong khả năng vốn hiện có. Sau đó nhà quản trị sẽ bỏ vốn để mua tư
liệu sản xuất như nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, thiết bị sản xuất,
nhiên liệu, nhà xưởng, kho tàng và mua sức lao động (trả lương cho công
nhân). Đây là giai đoạn vốn của doanh nghiệp từ hình thái tiền tệ chuyển sang
hình thái hiện vật. ở giai đoạn này nhà quản trị phải cân đối vốn để mua tư
liệu sản xuất và trả lương cho cơng nhân theo tỉ lệ thích hợp. Nếu thiếu một
trong hai nhân tố đó thì q trình sản xuất sẽ bị gián đoạn làm ảnh hưởng tới
sự tuần hoàn và chu chuyển của tư bản. Dựa vào phân tích tốc độ chu chuyển
của vốn các doanh nghiệp không chỉ lên kế hoạch sản xuất kinh doanh mà còn
phải xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn bằng cách hình thành các quĩ
như quĩ đầu tư, phát triển, quĩ khấu hao, quĩ phúc lợi. Sau một thời gian sản
xuất những quĩ này được đưa ra sử dụng mở rộng sản xuất (theo chiều rộng)


hoặc cải tiến máy móc, nhập thêm dây chuyền hiện đại để tăng năng suất lao
động (mở rộng theo chiều sâu).

Thứ hai: Tiết kiệm được tư bản ứng trước.
Sau một thời gian dài hoạt động máy móc sẽ bị hao mòn dần do chuyển
một phần giá trị vào sản phẩm. Ngồi việc cải tiến máy móc, nhập thêm
những dây chuyền sản xuất tiên tiến, hiện đại các doanh nghiệp phải dựa vào
kinh nghiệm sản xuất kinh doanh mà dự tính trước những công việc bảo
dưỡng, tiểu tu, trung tu, đại tu tài sản cố định sau những khoảng thời gian
hoạt động nhất định, cũng như việc sửa chữa hư hỏng thơng thường và bất
thường có thể xảy ra.
Ngồi ra, để tránh hao mịn vơ ích, nhất là hao mịn vơ hình doanh
nghiệp phải ra sức tiết kiệm các chi phí bảo quản và sửa chữa bằng cách nâng
cao ý thức người lao động đối với việc sử dụng máy móc, tăng cường sử dụng
hết công suất máy thiết kế để thu hồi vốn nhanh và thu nhiều lợi nhuận trong
thời gian ngắn nhất.
Thứ ba: Đưa ra các giải pháp để tăng tốc độ chu chuyển vốn.
Muốn quay vòng vốn nhanh để tiếp tục một chu kỳ sản xuất mới các
doanh nghiệp phải ra sức rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thơng vì
nó là thành phần tạo nên thời gian chu chuyển của vốn. Các doanh nghiệp ở
nước ta trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thường đưa ra
những giải pháp sau đây để rút ngắn thời gian sản xuất.
+ Áp dụng khoa học - kỹ thuật hiện đại để tăng năng suất lao động. Bên
cạnh việc nhập khẩu một số dây chuyền nước ngồi có cơng nghệ tiên tiến các
doanh nghiệp khơng nên bỏ qua những dây chuyền sản xuất có khả năng sử
dụng bằng cách bán lại cho những doanh nghiệp cần nó.


+ Mở rộng quan hệ để liên doanh, liên kết. Việt Nam là một trong những
nước nghèo nhất trên thế giới do đó liên doanh liên kết là con đường ngắn
nhất để bắt kịp với sự tiến bộ của xã hội.
+ Cải tiến bộ máy tổ chức và quản lý lao động. Hiện nay một số doanh
nghiệp nhà nước có cơ cấu tổ chức quản lý cồng kềnh dẫn đến giải quyết công

việc bị chồng chéo lên nhau,vi phạm quyền hạn và trách nhiệm của người này
với người khác. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải giảm lực lượng lao động
gián tiếp khơng có năng lực để bộ máy được gọn nhẹ linh hoạt, tuân thủ chế
độ một thủ trưởng. Mặt khác lực lượng lao động trực tiếp là người sản xuất ra
sản phẩm nên phải bố trí ca kíp làm việc hợp lý cho mọi người để có thời
gian nghỉ ngơi. Thực hiện chế độ làm việc 40 giờ một tuần đồng thời trả
lương xứng đáng cho người lao động đã bỏ sức ra, khuyến khích người lao
động làm việc có năng suất, hiệu quả bằng những phần thưởng vật chất và
tinh thần.



×