Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Quan hệ thương mại hàng hóa Việt Nam - Trung Quốc qua biên giới trên bộ thực trạng và giải pháp phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.27 MB, 102 trang )

TRƯỜNG
ĐẠI
HỌC NGOẠI
THƯƠNG
KHOA
KINH TẾ NGOẠI
THƯƠNG
FOREIQN
TCflDE
ÍINIVERSrrr
KHOA
LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề
tài
QUAN Hệ THƯƠNG MỌI HÀNG Hon
VlệT
NOM
-
TRUNG QUỐC ọun
BIÊN
GIỚI
TR€N
BỘ
THỰC
TRỌNG

GIỎI
PHÁP PHÚT
TRIấN
Sinh viên thực hiện : TRỊNH THỊ NGÀ


Lớp
:
NGA
-
K40D
-
KTNT
Giáo
viên hướng dẫn
:
ThS.
NGUYỄN
QUANG
MINH
ViỊ
Ư V
í!
H

sătii
HÀ NỘI - 2005
MỤC
LỤC
LỜI
MỞ ĐẦU Ì
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VẾ PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI HÀNG HOA
QUA
BIÊN GIỚI TRÊN
BỘ
GIỮA

VIỆT
NAM VÀ TRUNG QUỐC 3
Ì.
Ì)

LUẬN
CHUNG
VỀ HOẠT ĐỘNG
THƯƠNG MẠI HÀNG
HOA QUA
BIÊN
GIỚI
TRÊN
BỘ 3
1.1.1)
Đặc
điểm
của
hoạt
động
thương
mại
hàng
hoa qua
biên
giới
trên
bộ.
3
1.1.2)

Vai trò của
hoạt
động
thương
mại
hàng
hoa qua
biên
giới
trên
bộ
lo
Ì
.2)
TÍNH TẤT YẾU VÀ KHẢ NÂNG PHÁT
TRIỂN
HOẠT ĐỘNG
THƯƠNG MẠI
HÀNG
HOA QUA
BIÊN
GIỚI
TRÊN BỘ GIỮA VỆT
NAM VÀ TRUNG QUỐC

11
1.2.1)Tính
tốt
yếu của hoạt
động thương

mại
hàng
hoa qua
biên
giới
trên
bộ
giữa
Việt
Nam

Trung
Quốc
11
1.2.2)
Những
thuận
lợi
và khó khăn cơ
bản của
Việt
Nam
trong
việc
phát
triển
thương
mại
hàng
hoa qua

biên
giới
trên
bộ
với
Trung
Quốc 15
1.3)
THỰC
TIỄN
HOẠT ĐỘNG
THƯƠNG MẠI HÀNG
HOA QUA
BIÊN
GIỚI
TRÊN
BỘ CỦA TRUNG QUỐC
VỚI
MỘT
số
NƯỚC
LÁNG
GIỀNG
21
1.3.1)
Hoạt
động thương
mại
hàng
hoa qua

biên
giới
trên
bộ
giữa
Trung
Quốc
với
Myanmar
22
1.3.2)
Hoạt
động thương
mại
hàng
hoa qua
biên
giới
trên
bộ
giữa
Trung
Quốc
với
LB
Nga
24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI HÀNG HOA
QUA
BIÊN GIỚI TRÊN

BỘ
GIỮA
VIỆT
NAM VÀ TRUNG QUỐC 26
2.1)
ĐẶC
ĐIỂM
KINH TẾ
-

HỘI
CỦA
CÁC
TỈNH
TRÊN ĐỊA BÀN
KHU
Vực BIÊN
GIỚI
VIỆT
-TRƯNG
26
2.1.1)
Đặc
điểm
của 2
tỉnh
biên
giới
Trung
Quốc

tiếp
giáp
vái
Việt
Nam
26
2.1.2)
đặc
điểm
chung
của các tỉnh
biên
giới
phía Bắc
Việt
Nam
tiếp
giáp
với
Trung
Quốc và
hệ thống cửa
khẩu
biên
giới
29
2.2)
HỆ
THỐNG
CHÍNH SÁCH

MẬU
DỊCH
BIÊN
GIỚI
CỦA
VIỆT
NAM VÀ
TRUNG QUỐC
KỂ
TỪ
KHI
HAI
NƯỚC
BÌNH
THƯỜNG
HOA
QUAN
HỆ.30
2.2.1)
Chính sách
mậu
dịch
biên
giới
của
Việt
Nam
với
Trung
Quốc

30
2.2.2)
Chính
sách biên
mậu
của
Trung
Quốc
với Việt
Nam 33
2.3)
THỰC
TRấNG HOấT ĐỘNG
THƯƠNG
MấI
HÀNG
HOA QUA
BIÊN
GIỚI
TRÊN BỘ
VIỆT
NAM-TRUNG
QUỐC 35
2.3.1)
Vài nét về
quan
hệ
thương
mại
Việt

Nam-Trung
Quốc
35
2.3.2)
Tình hình
xuất
nhập
khẩu
hàng
hoa qua
biên
giới
trên
bộ giữa
Việt
Nam

Trung
Quốc
38
2.4)
MỘT
SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ
HOấT ĐỘNG
THƯƠNG
MấI
HÀNG
HOA QUA
BIÊN
GIỚI

TRÊN BỘ
GIỮA
VIỆT
NAM-TRUNG
QUỐC 52
2.4.1)
Những
tác
động
tích
cực
52
2.4.2)
Những
tồn
tại,
hạn chế cần
giải
quyết
56
CHƯƠNG
3:
NHỮNG
GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU
NHẰM
ĐAY
MẠNH
HOẠT
ĐỘNG

THƯƠNG MẠI HÀNG
HOA QUA
BIÊN GIỚI TRÊN
BỘ
GIỮA
VIỆT
NAM VÀ TRUNG QUỐC 65
3.1)
XU
HƯỚNG
VẬN
ĐỘNG
VÀ PHÁT
TRIỂN
CỦA HOấT ĐỘNG XUẤT
NHẬP
KHẨU
HÀNG
HOA QUA
BIÊN
GIỚI
TRÊN BỘ
GIỮA
VIỆT
NAM VÀ
TRUNG QUỐC 65
3.1.1)
Xu
hướng
phát

triển
kinh tế
thương
mại
thế
giới
trong
những
năm
tới
65
3.1.2)
Xu
hướng
phát
triển
của
hoạt
động
xuất
nhập
khẩu
hàng
hoa qua
biên
giới
trên
bộ giữa
Việt
Nam


Trung
Quốc
đến
năm
2010.66
3.2)
QUAN
ĐIỂM

Dự BÁO PHÁT
TRIỂN
HOấT ĐỘNG
XUẤT
NHẬP
KHẨU
HÀNG
HOA
Ở KHU
vực
BIÊN
GIỚI
VIỆT
NAM-TRUNG
QUỐC
68
3.2.1)
Quan
điểm
68

3.2.2)
Dự
báo về
hoạt
động
xuất
nhập
khẩu
hàng
hoa qua
biên
giới
trên
bộ
Việt
Nam-Trung
Quốc
thời
kỳ đến
năm
2010
70
3.3)
MỘT
SỐ
GIẢI
PHÁP CHỦ YÊU
NHẰM
PHÁT
TRIỂN

THƯƠNG MấI
HÀNG HÓA
QUA
BIÊN
GIỚI
TRÊN BỘ
VỚI
TRUNG
Quốc
72
3.3.1)
Đổi
mới
và hoàn
thiện
các chính sách
xuất
nhập
khẩu
72
3.3.2)
Đổi
mới về
tổ
chức
quản

hoạt
động thương
mại

hàng
hoa
tại
khu vực cửa khẩu
biên
giới
Việt
Nam -
Trung
Quốc
74
3.3.3)
Đầu

phát
triển
các
khu
kinh
tế
kinh
tế,
khu
thương
mại
cửa
khẩu

chợ
biên

giới
tại
các
cửa khẩu
77
3.3.4)
Tích
cực
phòng
chống
buôn
lậu

gian lận
thương
mại
82
3.3.5)
Một
số
giải
pháp
đối với
doanh
nghiệp
và các
chẢ
thể kinh
doanh
khác

84
KẾT LUẬN 89
TÀI
LIỆU
THAM KHẢO 91
LỜI
MỞ ĐẦU
Ì.
Tính
cấp
thiết
của
đề
tài:
Trong
bối
cảnh
toàn
cầu
hoa
kinh tế hiện
nay
hội
nhập
vào nền
kinh
tế
khu
vực và
thế

giới
là một yêu
cầu
khách
quan
đối với bất
cứ
quốc
gia
nào
trên con
đường
phát
triển.

vậy, từ nhiều
năm nay
Đảng
ta
đã chủ trương
làm bạn
với
tất
cả các
nước,
tăng
cường
hợp
tác
kinh tế

-thương mại
với tất
cả
các
quốc
gia
ặ mọi châu
lục,
đặc
biệt
là các nước láng
giềng

chung
biên
giới
với Việt
Nam.
Thực
hiện
chủ trương
trên,
gần 15 năm qua kể
từ
khi hai
nước chính
thức
bình thường hoa
quan hệ
năm

1991, kinh
tế-thương
mại
giữa Việt
Nam

Trung
Quốc không
ngừng
phát
triển.
Với những
đặc thù riêng về sự hấp
dẫn, giao
lưu buôn bán hàng hoa qua
khu vực
biên
giới
Việt
-Trung
đã
thực
sự trở
thành
vấn
đề nóng
bặng,
luôn
thu
hút

sự quan
tâm
của
nhà nước
cũng
như các
doanh
nghiệp
nước
ta.
Sau
khi
các
cửa khẩu
được mở
cửa,
hoạt
động
thương mại nói
chung

hoạt
động
xuất
nhập khẩu
nói riêng đã có sự phát
triển
nhanh
chóng,
tác động tích

cực
đến
việc
phát
triển
kinh tế
-xã
hội
của
các
tỉnh,
đặc
biệt

các
tỉnh

đường
biên
giới
với
Trung
Quốc.
Tuy
nhiên,
kết
quả
đạt
được vẫn chưa
xứng

với tiềm
năng và
thế
mạnh
của hai
nước,
nhiều tồn
tại
vẫn nảy
sinh
không
chỉ
làm ảnh
hưởng
mà còn
cản trở
sự phát
triển
thương mại hàng hoa qua biên
giới
trên bộ
Việt
Nam-
Trung
Quốc,
nhất

khi
Trung
Quốc

gia
nhập
WTO và các thách
thức
trong
quá
trình
hội
nhập
kinh tế
khu vực

quốc
tế
ngày càng
lớn.
Do đó
việc
đánh giá một cách khách
quan,
đầy đủ
thực
trạng
thương
mại
hàng hoa qua biên
giới
trên bộ
với
Trung

Quốc
trong
thời
gian
vừa qua,
làm
rõ những
thành
công,
tồn
tại,
các nguyên nhân và đưa
ra
những
giải
pháp
nhằm phát
triển
quan hệ
thương
mại
hàng
hoa qua
biên
giới
trên bộ
giữa Việt
Nam-Trung
Quốc
trong

thời
gian
tới
là một vấn đề cần
thiết.
Từ
nhận thức
đó,
đề
tài
"Quan hệ
thương
mại hàng hoa
Việt
Nam
-Trung
Quốc qua
biên
giới trên
bộ:
thực trạng

giải
pháp
phát triển"
đã được tác
giả lựa
chọn
làm đề
tài

khóa
luận
tốt
nghiệp.
Ì
2.
Mục
tiêu chính
của
đề
tài:
-
Phân
tích

hệ
thống
hoa
những

sở lý
luận
về
thương
mại
hàng hoa
qua
biên
giới
trên

bộ và
phất
triển
thương
mại
hàng
hoa qua
biên
giới
trên
bộ.
- Đánh giá có hệ
thống
thực
trạng
hoạt
động
thương mại hàng hoa và
hoạt
động
phát
triển
thương
mại
hàng
hoa của
Việt
Nam
với
Trung

Quốc qua
biên
giới
bộ
trong
thời
gian
qua,
trong
đó khóa
luận
đi
sâu vào phân
tích
hoạt
động
tại
một số cửa
khẩu
biên
giới
đường
bộ chính
thuộc
địa bàn các
tỏnh:
Quảng
Ninh,
Lạng
Sơn,

Lào
Cai.
Trên cơ sở dó
rút ra
những
thành
công,
tồn
tại,
nguyên nhân
của
nó và
sự tác
động
của

đối
với kinh tế-

hội của
cả
nước,
của khu vực
các
tỏnh
biên
giới
với
Trung
Quốc.

-
Đề
xuất
các
giải
pháp để phát
triển
hơn nữa
hoạt
động
xuất
nhập
khẩu
hàng hoa của
Việt
Nam ở khu vực
thị
trường
biên
giới
trên bộ
với
Trung
Quốc
trước
những
đòi
hỏi
mới
của

tình
hình
trong
nước

quốc
tế.
3)
Đối
tượng nghiên
cứu
:
Đối
tượng
nghiên
cứu về
nội
dung

các chính
sách,

chế, quyết
định
của
nhà
nước
Việt
Nam về
quan

hệ thương mại hàng hoa qua biên
giới
trên
bộ
với
Trung
Quốc.
Về
thời
gian
nghiên
cứu,
đề
tài tập
trung
vào
hoạt
động
xuất
nhập
khẩu
hàng
hoa
Việt
Nam-Trung
Quốc
qua
biên
giới
trên

bộ
thời
kỳ
1991-2004.
4)
Phương pháp nghiên
cứu
:
Đề tài
được
nghiên cứu trên cơ sở áp
dụng
tổng
hợp các phương pháp
nghiên
cứu
như
:
phương pháp
tổng hợp, so
sánh,
phân
tích
thống
kê,
phương
pháp nghiên
cứu lý
luận,
tham

khảo
qua tài
liệu.
5) Kết cấu của
khoa luận :
gồm 3 chương (ngoài
phần
mở
đầu

kết
luận)
Chương
1:
Khái
quát
về
phát triển
thương mại hàng hoa qua
biên giới
trên
bộ
giữa Việt
Nam

Trung Quốc
.
Chương 2
:
Thực

trạng hoạt
động
thương
mại hàng hoa qua
biên giới
trên
bộ
giữa Việt
Nam và Trung Quốc
.
Chương 3
:
Những
giải
pháp chủ
yếu
nhằm đy mạnh
hoạt
động
thương
mại hàng hoa qua
biên giới trên
bộ
giữa Việt
Nam và Trung Quốc
2
CHƯƠNG

KHÁI QUÁT
VỀ

PHÁT
TRIỂN
THƯƠNG
MẠI
HÀNG
HOA QUA
BIÊN GIỚI TRÊN
BỘ
GIỮA
VIỆT
NAM VÀ TRUNG QUỐC
1.1) LÝ LUẬN CHUNG VẾ HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI HÀNG HOA QUA
BIÊN GIỚI TRÊN
BỘ
1.1.1)
Đặc
điểm
của
hoạt
động
thương mại hàng hoa qua biên giói
trên
bộ
1.1.1.1)
Khái niệm
và các
hình thức
của
hoạt
động

thương
mại hàng
hoa qua
biên giới trên
bộ
* Khái
niệm
Nhìn
chung,
quan
điểm
về
thương
mại
hàng hoa
qua
biên
giới

nhiều
thay
đổi
qua các
thời
kỳ
lịch
sử,
tùy
thuộc
vào cách nhìn

nhận
của
từng
quốc
gia về vai trò của
thương
mại
biên
giới.

thể
tóm
lược
một
vài quy
định
căn
cứ
theo
các văn bản pháp
luật
đã
được
Chính phủ
nước
CHXHCN
Viồt
Nam

CHND

Trung
Hoa ký
kết
như
sau:
-
Theo
"Hiồp
định
tạm
thời
về
viồc
giải
quyết
công
viồc
trên vùng biên
giới
hai
nước
giữa
chính phủ
nước
CHXHCN
Viồt
Nam
và Chính Phủ
CHND
Trung

Hoa"

ngày
7/1
l/1991(chương
V),
hoạt
động
thương mại
tại
khu
vực
biên
giới
bao
gồm
hai
hình
thức
mậu
dịch biên giới

mậu
dịch
địa
phương
với
chủ
thể
kinh

doanh

các tổ
chức kinh
doanh có quyền
kinh
doanh
mậu
dịch biên giới

mậu
dịch
địa
phương
của hai
nước.
-
Theo
"Hiồp
định
về
mua
bán hàng hoa

vùng biên
giới
giữa
Chính
Phủ
nước

CHXHCN
Viồt
Nam
và Chính Phủ
CHND
Trung
Hoa" ký
kết
ngày
19/10/1998
(điều
1)
hoạt
động
thương mại
tại
khu vực biên
giới
bao
gồm:
hoạt
động
mua
bán hàng hoa của các doanh
nghiệp
được
xuất
nhập khẩu
hàng
hoa


vùng biên giới theo
quy
định
của
mỗi
bên
và của
các

dân
biên
giới, thông
qua các cửa khẩu
biên giới trên
bộ,
chợ
biên giới
dược
hai
bên
nhất
trí
thoa thuận
mở
theo
quy
định
của
hiệp định

tạm
thi.
Hiồp
định
này
3
đã
cho
phép
điều
chỉnh
thêm
phần
hoạt
động mua bán hàng hoa ở vùng biên
giới
do cư dân
thực
hiện
chưa
được
quy
định
trong
hiệp
định
tạm
thời.
- Mới
đây, theo quyết

định
số
252/2003/QĐ-TTg ngày
24/11/2003
của
Thủ
tướng
Chính Phủ về
quản
lý buôn bán hàng hoa qua biên
giới
với
các
nước

chung
biên
giới
có quy
định:
(diềul)
hoạt
động buôn bán hàng hoa
qua
biên
giới
gồm
"hoạt
động mua
bán,

trao
đổi
hàng hoa của cư
dân
biên
giới; buôn
bán
tại
các chợ
biên giới,
chợ cửa
khẩu,
chợ
trong
khu
kinh
tế cửa
khẩu

hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hoa
qua
biên giới".
Như
vậy,

thử
đưa
ra
một cách

hiửu
chung
nhất
về
hoạt
động thương
mại
hàng hóa
qua
biên
giới
như
sau:
Thương mại hàng hoa qua
biên giới trên
bộ

hoạt
động mua bán,
trao
đổi
hàng hoa của
các
doanh nghiệp
và cư
dân
được
tiến
hành
trực tiếp

tại
khu vực
biên giới đường
bộ
giữa
hai
nước.
Thương mại hàng hoa qua biên
giới
trên bộ
giữa
các nước không chỉ
đơn
thuần là
hoạt
động buôn bán hàng hoa qua các
cửa
khẩu
biên
giới
mà nó
có phạm
vi
rộng
hơn,
bao trùm các
hoạt
động
xuất
nhập

khẩu
hàng hoa được
diễn
ra
ở dọc khu vực biên
giới
hai
nước,

thử
là ở các cặp chợ biên
giới
hay
thậm
chí ở các
đường
mòn biên
giới
với
khối
lượng
và giá
trị
xác định
theo
quy định
của
Nhà nước
hoặc
chính

quyền
địa
phương nơi có
cửa
khẩu,
chợ
hay
đường
mòn biên
giới Đây

hình
thái
mở đầu của mậu
dịch
quốc
tế
và là
bộ
phận
quan
trọng trong
hoạt
động
kinh
tế
đổi
ngoại của mỗi
nước.
* Các hình

thức
:

thử nói,
thương mại hàng hoa qua biên
giới
trên bộ bao bom các
hình
thức

bản sau :
Một

xuất nhập khẩu chính ngạch:
đây

hoạt
động thương
mại
được
tiến
hành
theo tập
quán và thông
lệ
quốc
tế
tại
khu vực biên
giới

giữa
các
nước

theo
đó các
doanh
nghiệp
hoặc

nhân căn cứ vào
hiệp
định thương
mại giữa
các Chính Phủ đử ký
kết
hợp đồng
xuất
nhập
khẩu
hàng
hoa

chịu
sự
quản

của
các cơ
quan


thẩm
quyền
của
hai
bên
tại
biên
giới.
Họ
phải
tự
cân
bằng
xuất-
nhập,
tự
hạch
toán
lỗ
lãi và tuân
thủ
mọi quy định về
thương
mại
hàng
hoa qua
biên
giới
bộ

của cả
hai
quốc
gia.
4
Đặc
điểm
của
xuất
nhập khẩu
chính
ngạch
thường có quy mô lô hàng
lớn,
đáp ứng cho
những đoạn
thị
trường
lớn,
nghiệp
vụ
phức
tạp,
thời
gian
kéo dài và kém
linh
động nhưng thường
chiếm
tỉ

trựng
lớn
trong
kim
ngạch
xuất
nhập khẩu

mỗi khu vực
biên
giới.
Theo
Chỉ
thị
số
94/CT
ngày
25/3/1992
về "Tổ
chức

quản

thị
trường
vùng biên
giới
Việt
-Trung
trong

tình
hình
mới",
những
hàng
hoa
xuất
nhập khẩu
qua biên
giới
theo
giấy
phép
của
Bộ thương mại được
gựi
là mậu
dịch
(xuất
nhập
khẩu)
chính
ngạch.
Những hàng
hoa
xuất
nhập khẩu
chính
ngạch
phải

lưu thông qua các
cửa khẩu quốc
tế
và quốc
gia,
dồng
thời
phải
chấp
hành
đầy
đủ
các
thủ tục
xuất
nhập khẩu
theo
thông
lệ

tập
quấn quốc
tế.
Mặc dù
cho
đến
nay,
Nhà
nước
đã bãi

bỏ
hình
thức
giấy
phép
xuất
nhập khẩu
nhưng
vẫn
chưa
có một văn bản nào quy
định
lại
thế
nào

mậu
dịch
chính
ngạch.
Hai

xuất
nhập khẩu
tiểu ngạch:
hình
thức
này thường được
tiến
hành

giữa
các thương nhân
tại
khu vực
biên
giới
giữa hai
nước trên cơ
sở của
nguyên
tắc tự
tìm
kiếm
nguồn
hàng,
khách
hàng,
tự
đàm
phán,
tự
chịu
trách
nhiệm
về
kết
quả
kinh
doanh
.

Xuất
nhập khẩu
tiểu
ngạch

hoạt
động
xuất
nhập khẩu
của
những
người
kinh
doanh
nhỏ.
Đặc
điểm

bản của
hoạt
động này
là những
lô hàng
có quy mô
nhỏ,
dễ
tiến
hành,
tiến
hành

nhanh
chóng,
có tính
linh
hoạt
cao,
nghiệp
vụ đơn
giản,
tiến
hành
theo
thói
quen

tập
quán
kinh
doanh
của
từng
cửa
khẩu,
khi

tranh
chấp
thương mại thường
tự
giải

quyết với
nhau.
Đây là hình
thức
kinh
doanh
có tính đặc thù
tại
các khu vực biên
giới,
chủ
yếu
do cư dân
tại
các khu vực biên
giới tiến
hành,
nhưng
lại
giữ
một vị trí
quan
trựng
trong
hoạt
động thương
mại
hàng hoa
qua
biên

giới
trên
bộ ở mựi
quốc
gia,
làm tăng đáng kể
kim ngạch
xuất
nhập
khẩu,
thúc đẩy nền
kinh
tế
đất
nước,
đặc
biệt

kinh
tế
của
các
địa
phương
khu vực
biên
giới
phất
triển
.

Cũng
theo
quy định của Chỉ
thị
trên,
hàng hoa
xuất
nhập khẩu
theo
giấy
phép
của
Uy
ban
nhân dân
tỉnh
gựi

mậu
dịch
tiểu
ngạch.
Ba

trao
đổi
hàng
hoa cửa cư dân
biên giới:
đây

là hoạt
động
trao
đổi
hàng hoa
giữa
dân cư các địa phương biên
giới
với
dân cư nước láng
giềng
trong
phạm
vi
địa lý quy
định
dực
theo
đường
biên
giới,
được
thực
hiện
tại
các
5
cặp
đường
mòn, cặp chợ

đường
biên do
hai
nước
dồng
ý mở. Hàng hoa đem
ra
trao
đổi
thường do
tự sản
xuất
ra,
không có tính
chất
mua đi bấn
lại.
Hình
thức
buôn bán này nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân
dân vùng biên
giới,
do
điều
kiện
đừa hình không
thuận
lợi,
hàng hoa không
thể

chuyển từ miền
xuôi lên được
hoặc
nếu được thì
chi
phí
rất
cao,
trong
khi
việc
qua
lại
biên
giới
để mua hàng
rất
dễ dàng, hàng hoa
tại
các chợ vùng
biên
giới
sẵn
có và giá
rẻ.
Tuy
nhiên sự phân
biệt
trẽn
không

phải
lúc nào
cũng
rõ ràng.
Nhiều
khi
hàng chính
ngạch
dược
chuyển
qua
cấc
cửa
khẩu
dành cho buôn bán
tiểu
ngạch,
điều
đó phụ
thuộc
vào mức
thuế
của
các
loại
hàng hoa
trong
từng
thời
điểm

khác
nhau.
Hơn
thế
nữa, quan niệm
của
hai
nước
Việt
Nam và
Trung
Quốc
đối với
hàng hoa
xuất
nhập khẩu
qua biên
giới
cũng
khác
nhau.
Đối
với
Trung
Quốc, thương mại
quốc
tế
được phân
chia
làm

hai
loại:
mậu
dừch quốc gia
(quốc
mậu) và mậu
dừch
biên
giới
(biên mậu).
Theo
văn
bản
"Biện
pháp tạm
thời
quản

ngoại tệ
mậu
dừch
biên
giới"
do cục
quản

ngoại
tệ
của
Trung

Quốc ban hành năm 1997 thì mậu
dừch
biên
giới
được
giải
thích bao gồm: mậu
dừch chợ
cư dân biên
giới,
mậu
dừch
tiểu
ngạch
biên
giới,
hợp
tác
kinh
tế-kỹ
thuật
đối ngoại
của khu vực biên
giới.
Do
quan niệm
khác
nhau
nên có
những

lô hàng qua biên giói mà
Việt
Nam
gọi
là chính
ngạch
thì
phía
Trung
Quốc
lại
xem

hàng biên mậu. Đây

một
trong
những
nguyên nhân
dẫn
đến
những
khác
biệt
trong
các con số
thống

giữa hai
nước

Việt
Nam và
Trung
Quốc
về
hàng hoa
xuất
nhập khẩu
qua biên
giới.
1.1.1.2)
Đặc điểm của
hoạt
động thương mại hàng hoa qua
biên
giới trên
bộ
Hoạt
động thương mại thương mại qua biên
giới
trên bộ là một
hoạt
động
thương mại
quốc
tế,
cho nên nó
mang
đẫy đủ các đặc
điểm

chung
của
hoạt
dộng
thương mại
quốc
tế,
ngoài
ra
nó còn có đặc
điểm
riêng của
hoạt
động
thương mại hàng hoa
tại
các
đường
biên
giới
bộ.
Việc
nghiên cứu và
phân tích một cách hệ
thống,
đầy đủ các đặc
điểm
của
hoạt
động thương mại

hàng hoa qua biên
giới
trên bộ
tạo
cơ sở
vững chắc
để đưa
ra
các
biện
phấp
thích hợp phát
triển
hoạt
động thương mại hàng hoa qua biên
giới
trên bộ
6
trong
điều
kiện
cụ
thể nhất
định.

thể
nêu
ra
một số đặc
điểm

chính của
hoạt
động này

:
- Thứ
nhất

chủ
thể
kinh doanh
rất
đa
dạng:
tham
gia
vào
hoạt
động
kinh
doanh
xuất
nhập khẩu
thường

các
doanh
nghiệp
có quy
mô,

có trình
độ
nghiệp
vụ,

kinh
nghiệm
trong
hoạt
động
xuất
nhập khẩu

phải

"các
doanh
nghiệp thuộc
các thành
phần
kinh
tế
được
thành
lập theo
quy định
của
pháp
luật


phải
đăng ký

số
kinh
doanh
xuất
nhập khẩu
tại
cục
hải
quan
tớnh,
thành
phố".
Nhưng
hoạt
động
xuất
nhập khẩu
tại
các khu vực cửa
khẩu
biên
giới,
các chủ
thể
kinh
doanh
rất

đa
dạng,
bao
gồm
nhiều
loại
hình:
doanh
nghiệp
quốc doanh,
các công
ty
TNHH,
công
ty
cổ
phần,
các hộ
kinh
doanh

thể
và cả các thương nhân nước ngoài đến
tham
gia.
Các
đối
tượng
này
không

còn
giới
hạn
trong
địa
bàn vùng và các
tớnh
biên
giới

đã
mở
ra
các
tớnh,
thành
trong
cả
nước.
Trong
đó
các công
ty
TNHH,
cổ
phần

các hộ
kinh
doanh


thể
chiếm
một
tỷ
trọng
khá
lớn
làm
cho
hoạt
động
kinh
doanh
xuất
nhập khẩu
tại
các cửa
khẩu
biên
giới trở
thành da
dạng, phong
phú

cũng
trở
nên
rất
phức

tạp.
-
Thứ
hai

điều kiện kinh
doanh
tương
đối
thuận
lợi:
một đặc trưng

bản của
hoạt
động thương mại
quốc
tế

các bên
tham
gia
mua
bán

các
quốc
gia
khác
nhau,

nhiều
khi
có phạm
vi
địa lý
rất
xa
nhau,

tập
quán
mua
bán khác
nhau,
thể
chế
chính
trị,
văn hoa và
luật
pháp khác
nhau,
do đổ
tạo
nên
những
rủi
ro
và khó khăn
chung

trong
hoạt
động thương
mại quốc
tế
như:
quá trình nghiên cứu
tiếp
cận
thị
trường,
giao
dịch,
đàm
phán

kết
hợp
đổng

tổ
chức
thực hiện
các hợp đổng đó.
Còn
hoạt
động thương mại hàng hoa qua biên
giới
trên
bộ có một

thuận
lợi

bản là
hai
bén có
chung
đường
biên
giới
trên
bộ
với
nhau,
có một
mối quan
hệ gắn

lâu
đời
của
dân cư
hai
bên vùng biên
giới,
thậm
chí

những
tập

quán văn hoa khá tương đồng
nhau

giữa
hai
quốc
gia
thường

kết
các
hiệp
định
và có các
thoa thuận
khác
để
tạo
điều
kiện
phát
triển
thương mại
giữa hai
quốc
gia
nói chung
và phát
triển
thương mại

tại
khu
vực
7
biên
giới
nói
riêng.
Do đó
hoạt
động thương mại
tại
khu vực biên
giới

những
thuận
lợi

bản sau
:
+
Tiến
hành các
nghiệp
vụ
xuất
khẩu
đơn
giản


thuận
tiện.
+
Thuận
lợi
trong
vấn
đề nghiên cứu
tiếp
cận
thị
trường và
hoạch
định
các
chiến
lược
kinh
doanh .
+
Thuận
tiện
trong
quá trình vận
chuyển
bảo
quản
hàng
hoa,

chi
phí
vận
chuyển

chi
phí bảo
quản
thấp,
điều
này có ý
nghĩa quan
trỷng
đối với
những
mặt hàng có
tỷ
trỷng
chi
phí vận chuyển
và bảo
quản
trong
giá thành
cao.
Giảm được
chi
phí
này
sẽ

nâng
cao
được
khả
năng
cạnh
tranh
cho những
mặt
hàng
này.
Lợi
thế
cạnh
tranh
này các
quốc
gia

xa
không
thể

được.
- Thứ ba

phương
thức kinh
doanh
linh hoạt:

hoạt
động
xuất
nhập
khẩu
tại
các khu vực cửa
khẩu
biên
giới
áp
dụng
nhiều
phương
thức
kinh
doanh
khác
nhau
như
xuất
nhập khẩu
trực
tiếp,
xuất
nhập khẩu
thông
qua
các
đại

lý,
môi
giới,
mua bấn
đối
lưu,
gia
công
quốc tế Điểm
đáng chú ý là
nhiều
khi
quy
trình
xuất
nhập khẩu
không được áp
dụng
và tuân
thủ
một cách
nghiêm
ngặt,

đối với
những
lô hàng nhỏ
hoặc
đối với
một số

đối
tượng
kinh
doanh
nhất
định
người
ta
tiến
hành
theo
thói
quen,
theo tập
quán buôn
bán
tại
các
cửa khẩu
biên
giới.
- Thứ


quy mô
hoạt
động
rất
khác nhau:
hoạt

động
xuất
nhập
khẩu
tại
các
cửa khẩu
biên
giới
có quy mô
rất
khác
nhau.

thể

những

hàng
xuất
nhập khẩu
có quy mô
rất lớn,
được
tiến
hành bài bản
theo
đúng
quy
trình

xuất
nhập
khẩu,
áp
dụng
nghiêm
ngặt
các quy định và
luật
pháp
quốc
tế,
hạn
chế
thấp nhất
các
rủi
ro

thể
xảy
ra.
Ngoài
ra,
những
lô hàng
có quy mô nhỏ
cũng chiếm
một
tỷ

trỷng
rất lớn,
nhiều khi

những lô
hàng
nhỏ
chỉ
đáp ứng nhu
cầu cho
một
tập
khách hàng
rất
nhỏ ở
khu vực
biên
giới.
Những

hàng này không yêu
cầu
nghiêm
ngặt
về
chất
lượng
nghiệp vụ,
tiến
hành đơn

giản,
tính
linh
hoạt cao,
khả
năng
đổi
mới mặt hàng
nhanh, nguồn
hàng
cũng
rất
đa
dạng phong
phú khác
nhau,
chỉ
thích hợp
xuất
nhập khẩu
qua cửa khẩu
biên
giới.
Và đây
là những đặc
thù
của
hoạt
động thương
mại


khu
vực
biên
giới.
- Thứ năm

mặt hàng
kinh
doanh đa dạng và phức
tạp:
mặt hàng
kinh
doanh
xuất
nhập khẩu cũng
rất
đa
dạng

phức
tạp,
có tính
linh
hoạt
8
cao.
Nó có
thể


những
mặt hàng được sản
xuất
tại
các khu cửa
khẩu
biên
giới,
tại
cấc
tỉnh
biên
giới, tại
các
tỉnh
trên toàn
quốc,
thậm
chí
tại
các
quốc
gia
khác.
Cơ cấu hàng hoa
trao
đổi
có tính
chất
bổ

sung
ưu
thế
và hỗ
trợ
cho
nhau.Và
những
mật hàng này
cũng

nhiều
mức
chất
lượng
khác
nhau,
phù
hợp với
trình đờ và
lợi
thế của
mỗi
nước.
Đặc
biệt,
hoạt
đờng
xuất
nhập

khẩu
tại
các cửa
khẩu
biên
giới

thể
mua bán
những
hàng hoa có
thời
gian
bảo
quản
ngắn,
dễ hư
hỏng
hoặc
suy
giảm
chất
lượng
như hàng
rau
quả và các
thực
phẩm tươi
sống
- Thứ sáu


phương
thức
thanh toán
linh
hoạt nhưng đầy
rủi ro:
trong
mua bán
quốc
tế,
để hạn chế
rủi
ro có
thể
xảy ra các
doanh
nghiệp
thường
chọn
ngoại tệ
mạnh
để làm đồng
tiền
thanh
toán và thường
tiến
hành
thanh
toán qua hệ

thống
các ngân hàng
với
các phương
thức thanh
toán như
chuyển
tiền,
nhờ
thu,
L/C
Tuy vào quy mô và tính
chất
của thương vụ mà
lựa
chọn
các phương
thức thanh
toán phù hợp để đảm bảo an toàn cho quá trình
thanh
toán
với chi
phí
thấp nhất.
Hoạt
đờng
thanh
toán
xuất
nhập

khẩu
ở khu vực
biên
giới
ngoài
những
đặc
điểm
trên còn có
những
đặc
điểm
riêng
biệt
như
thanh
toán không thông qua hệ
thống
ngân hàng mà
theo
phương
thức thanh
toán
trực
tiếp
giữa
người
bán và
người
mua (có

thể
trả
ngay
hoặc
trả
chậm) và
sử
dụng
đồng
tiền
thanh
toán của nước
người
bán và
người
mua,
chiếm
mờt
tỷ
trọng
khá
lớn
trong
các
hoạt
đờng mua bán ở khu vực biên
giới.
Nó đảm
bảo
tính

linh
hoạt
cho
hoạt
đờng mua bán,
nghiệp
vụ
tiến
hành đem
giản
nhưng
lại
dễ xảy
ra
rủi
ro.
- Thứ bẩy

dễ phát
sinh
hiện tượng buôn lậu và gian lận thương mại:
do
điều
kiện
thương mại
thuận
lợi tại
các cửa
khẩu
biên

giới, lại
được Nhà
nước
áp
dụng
các chính sách
khuyến
khích phát
triển
kinh
tế
và đầu
tư.
Hơn
nữa,
địa hình các khu vực biên
giới
thường
rất
hiểm
trở,
phức
tạp,
hoạt
đờng
thương mại
tại
các cửa
khẩu
biên

giới lại
rất
đa
dạng
về
nhiều mặt,
cho nên
rất
dễ phát
sinh
các
hiện
tượng
buôn
lậu
qua biên
giới,
gian lận
thương mại
và các
tệ
nạn khác.
Tóm
lại,
hoạt
đờng thương mại
tại
các cửa
khẩu
biên

giới

những
đặc
điểm
riêng
biệt
của
nó,
do đó cần
phải

những
biện
pháp tác đờng phù hợp
với
các đặc
điểm
trong
những
điều
kiện
cụ
thể
để có
thể
phát
triển
mờt cách
9

hiệu
quả
nhất hoạt
động thương mại hàng hoa qua biên
giới
trên
bộ.
Do đặc
điểm
về chủ
thể
kinh
doanh,
về mặt hàng
kinh
doanh,
tính đa
dạng
về phương
thức
và quy mô, mức độ
thuận
tiện
trong
hoạt
động
kinh
doanh
nên
hoạt

động
mua bán
tại
các khu cửa
khẩu
có tính
linh
hoạt
rất
cao.
Nó có khả năng
thay
đổi rất
nhanh
và tuân
thủ theo
nguyên
tắc
"tăng
tốc" trong kinh
doanh
thương
mại
quốc
tế.

nghĩa
là nhu cờu
thực tế
của

thị
trường
thay
đổi
một thì nhu
cờu
về
xuất
nhập khẩu

thể thay đổi nhiều
lờn.
Các
doanh
nghiệp
cờn
hiểu

nguyên
tắc
này,
nếu không dễ
bị cuốn
theo
dẫn đến
những
rủi
ro
đáng kể.
1.1.2)

Vai
trò của
hoạt
động thương mại hàng hoa qua biên
giới
trẽn
bộ
Không
thể
phủ
nhận
được
vai
trò vô cùng
quan
trọng
của
hoạt
động
trao
đổi
hàng hoa
giữa
các
quốc
gia

chung
đường biên
giới

trên bộ
với
nhau.

thể
nói,
nếu hợp tác
trao
đổi
hàng hoa
với
các
quốc
gia
trên
thế
giới
là một yêu cờu
tất
yếu khách
quan
trên con đường phát
triển
nền
kinh
tế
đất
nước,
thì hợp tác
kinh

tế

trao
đổi
hàng hoa
với
quốc gia

chung
đường
biên
giới
là bước đờu tiên
tập
duyệt
trong
lộ
trình
trao
đổi
hợp tác
với
các
quốc
gia
khác
trong
khu vực và trên toàn
thế
giới.

Thông qua
việc
mua bán
tại
các cửa
khẩu
biên
giới

thể
gián
tiếp
hoặc
trực
tiếp
mở
rộng
buôn bán
với
các
quốc gia
khác, đặc
biệt

những
quốc
gia

chung
đường biên

giới
hoặc

quan
hệ thương mại
tốt
với
nước
bạn, từ
đó có
thể
mở
rộng
buôn bán
với
các nước
trong
khu vực và
thế
giới.
Thêm vào đó,
hoạt
động này góp
phờn
tích cực
trong việc
phát
triển
hoạt
động thương mại

quốc tế
của đất
nước,
làm tăng đáng kể kim
ngạch
xuất
nhập
khẩu.
Với
tính
linh
hoạt,
đa
dạng
của
hoạt
động
xuất
nhập khẩu
tại
các cửa
khẩu
góp
phờn
mở
rộng thị
trường
quốc
tế,
phát

triển
sản
xuất
trong
nước, chuyển dịch

cấu
kinh tế.
Đặc
biệt,
với
việc
xuất
nhập khẩu những
mặt hàng có
thế
mạnh,
chúng
ta

thể
phát huy được
lợi
thế
so sánh, sử
dụng
triệt
để các
nguồn
lực,


điều
kiện trao
đổi
kinh
nghiệm, cũng
như
tiếp
cận được các thành
tựu khoa
học
công
nghệ
tiên
tiến
của nước bạn để phát
triển
kinh
tế đất
nước và các địa
phương ở
khu
vực biên
giới.
10
Ngoài
ra,
hoạt
động này không
những

tạo
điều
kiện
phát
triển
kinh
tế
đất
nước,
kinh tế
địa phương

còn
tạo
việc
làm, tăng
thu
nhập
cho
người
lao
động

các
tỉnh
biên
giới,
từ
đó
kết

hợp hài hoa
giữa
tăng trưởng
kinh
tế
và công
bằng

hội,
góp
phần
tạo
nên sử cân
đối
đồng đều về
kinh tế giữa
thành
thị
và các
tỉnh
miền
núi.
Hơn
nữa, thửc hiện
mua
bán
tại
các cửa
khẩu
giúp

doanh
nghiệp

khả năng
cạnh
tranh
cao
hơn,
nhạy
bén hơn,
buộc
các
doanh
nghiệp phải
luôn
đổi
mới
để
thích
nghi với
điều
kiện
thị
trường ngày
càng yêu cầu cao hơn và
khắt
khe hơn.
Cuối
cùng,
thông qua

hoạt
động buôn bán
tại
các cửa
khẩu
để
mở
rộng
và phát
triển
tình đoàn
kết
hữu
nghị
giữa
các
dân
tộc,
góp
phẩn
thửc hiện
đường
lối
đối ngoại
của
Đảng
và Nhà
nước,
bảo vệ an
ninh


toàn vẹn lãnh
thổ
của
đất
nước.
1.2) TÍNH
TẤT YẾU VÀ KHẢ
NĂNG PHÁT TRIỂN
HOẠT
ĐỘNG
THƯƠNG
MẠI
HÀNG
HOA QUA
BIÊN GIỚI TRÊN
BỘ
GIỮA
VIỆT
NAM VÀ
TRUNG QUỐC
1.2.1)Tính tát yếu của
hoạt
động thương mại hàng hoa qua biên
giới
trên bộ
giữa
Việt
Nam


Trung
Quốc
Ngày
18/1/1950
hai
nước
Việt
Nam dân
chủ
cộng
hoa

cộng
hoa
nhân dân
Trung
Hoa
chính
thức
thiết
lập
quan
hệ
ngoại
giao.Tháng
4/1952,
hai
nước thông qua "BỊ
vọng
lục

mậu
dịch";
những
năm
sau
đó
lại

tiếp
các
nghị
định về buôn bán như Nghị định thư buôn bán
tiểu
ngạch
biên
giới
Việt
-Trung
năm
1955,
Nghị định thư
trao
đổi
hàng hoa biên
giới
Việt
-Trung
năm
1957
Buôn bán qua biên

giới giai
đoạn
1959-1979
được
thửc hiện
chủ
yếu
thông qua các
nghị
định thư được

kết
hàng
năm
giữa
Chính Phủ
hai
nước,
trong
đó ấn
định
mở 3
cặp cửa
khẩu
và 28
điểm
trao
đổi
hàng hoa.
Theo

thoa thuận,
có 2
hình
thức
buôn bán là
tiểu
ngạch
(giữa
nhân dân
hai
bên vùng biên
giới)

các công
ty
quốc
doanh
của các địa phương
hai
bên
dọc
đường
biên.
Từ
những
năm
1965-1975,
hoạt
động
giao

lưu
kinh tế
ngoài
mục
đích
trao
đổi,
thương mại
còn
mang
tính
chất
viện
trợ
cho
Việt
Nam
chống
Mỹ
cứu
nước.
Lúc này
trên biên
giới
đã có 28
cặp cửa
khẩu
(trong
đó có 4
cứa

li
khẩu
quốc
tế,
10
cặp cửa khẩu quốc
gia

14 cặp cửa khẩu
tiểu
ngạch)
1
.
Nhà
nước
Việt
Nam
thực hiện
chính sách độc
quyền
ngoại
thương,
ngoại
hối,

quan quản

xuất
nhập khẩu


khu vực
biên
giới
gồm 4 thành
phần:
Thương
nghiệp (quản
lý mậu
dữch
xuất
nhập
khẩu),
Ngân
hàng,
Hải quan
và Công an

trang.
Tháng 2/1979
chiến tranh
biên
giới
phía bắc
xảy
ra,
từ
đó
quan
hệ
giao

lưu
giữa hai
nước
bữ
gián
đoạn.
Đến tháng
11/1988
hai
nước
tiến
hành
mở
cửa
lại
biên
giới
và ngày
7/11/1991
hai
nước chính
thức
bình thường hoa
quan
hệ
bắt
đầu một
thời
kỳ phát
triển

mãnh mẽ
trong
quan
hệ thương mại
giữa
hai
nước nói
chung

trong hoạt
động mậu
dữch
biên
giới
nói
riêng.
Sự
phát
triển
mới
này

một
tất
yếu
do
những
nguyên nhân
chủ yếu sau
đây :

1.2.1.1)
Nguyên nhân
khách
quan

thể nói,
xu
hướng
quốc
tế
hoa

khu vực
hoa đang
diễn ra
trên
tất
cả
các
lục đữa,
sự
hợp
tác
kinh
tế
trên
thế giới
hiện
nay phát
triển

hơn bao
giờ
hết.
Hợp tác khu vực để liên
kết kinh tế
cùng phát
triển
và khu vực hoa là
nhữp cầu cần
thiết
để đi đến toàn
cẩu
hoa.
Việt
Nam-Trung Quốc nằm
trong
khu
vực ổn đữnh
nhất
và có
tốc
độ tăng trưởng
kinh
tế
cao
nhất thế
giới.
Quanh khu
vực, nhiều
tam giác tâng

trưởng,
một hình
thức
hợp tác
kinh
tế
khu
vực mới ở Châu Á-Thái Bình Dương, đã hình thành tam giác
như:
tam
giác
Singapo
-
Malaixia
-
Indonesia
hay tam giác
biển
vàng
nối
Đài
Loan,
Hàn Quốc
với
miền
Đông Nam
Trung
Quốc.
Nhiều
vùng tâng trưởng

tiểu
khu
vực cũng
bắt
đầu hình thành như
tiểu
vùng sông MêKông
(3
nước Đông
Dương, Thái
Lan,
Mianma,
Trung Quốc),
tiểu
vùng sông
Tumen
(Trung
Quốc,
Nga,
Nhật,
Mông cổ
).
Mối
quan
hệ
Việt
-Trung cũng
không
thể
tránh

khỏi
xu
thế
này.
Hơn
nữa,
do nhân dân
hai
bên vùng biên
giới
có mối
quan
hệ lâu
đời
mật
thiết,
thậm chí là mối quan
hệ họ hàng
ruột
thữt,
nhiều
khu vực

phong
tục,
tập
quán
giống
nhau.
Khi


chiến tranh
biên
giới
nổ
ra
các mối
quan
hệ
này
cũng bữ
gián
đoạn,
do đó nhân dân
hai
vùng biên luôn
mong
mở
cửa
biên
giới
dể
họ có
thể
qua
lại
thăm thân nhân.
1
Theo
"

Đổi
mới quản lý
nhà
nước
về
hoạt
động
xuất
nhập khẩu
trên
đữa
bàn
các
tinh
biên
giới
Việt
Nam-
Trung
Quốc"
/
trang
86
(
Lương Đãng
Ninh)
12
Một
nguyên nhân
nữa

xuất
phát
từ
lợi
ích của
việc
mở
cửa

thực hiện
các
hoạt
động mậu
dịch
biên
giới.
Khi
mở
cửa khu vực
biên
giới,
hàng hoa
từ
Trung
Quốc sẽ
sang
Việt
Nam và
trước
mắt

giẹi
quyết
được tình
trạng
thiếu
thốn
của
nhân dân khu vực
này.
Hơn
nữa,
với
hàng hoa có giá
rẻ,
hình
thức
đẹp,
mặc dù
chất
lượng
chưa cao
song
lại
phù hợp vói
thu
nhập

sức
mua
không

chỉ của
cư dân biên
giới
mà cẹ cư dân nông thôn và thành
thị

thu
nhập
thấp.
Mặt
khác,
khu vực
biên
giới

tự
cẹi thiện
và nâng
cao đời
sống
thì
ngân sách nhà nước
sẽ bớt đi
phần
gánh
nặng.
Hiện
nay
Việt
Nam và

Trung
Quốc đều

thành viên
của
Diễn
đàn hợp
tác
kinh tế
Châu Á-Thái Bình Dương
APEC,
đều có
nghĩa
vụ
thực hiện
các
cam
kết
trong
chương trình hành động riêng và chương trình hành động
tập
thể
của các nước
APEC
nhằm xây
dựng
một khu vực Châu Á-Thái Bình
Dương
tự
do về thương mại và đẩu

tư.
Và như
vậy,
việc
tự
do lưu
chuyển
hàng hoa
giữa
Việt
Nam và
Trung
Quốc qua biên
giới
trên bộ là
tất
yếu
không
thể
thiếu
nhằm
thực hiện
tự
do hoa thương mại và đầu tư
nội
bộ
khối
trong
khoẹng
thời

gian
không chậm hơn năm
2020.
1.2.1.2)
Nguyên nhãn chủ quan
Về phía
Trung
Quốc,
mậu
dịch
biên
giới
được
coi

bước đi đầu tiên
mang
tính
chất
mở
đường
cho
chiến
lược mở
cửa
ven biên
giới
đất
liền
của

Trung
Quốc.
Năm
1978,
sau
hội
nghị
Trung
ương
khoa
li
của
Đẹng
Cộng
sản
Trung
Quốc,
chính phủ
Trung
Quốc
bắt
đầu mở
cửa từ từ
từng
khu
vực hình
thành
"thê
mở cửa
đối

ngoại nhiều tầng
nấc,
ra mọi
hướng, theo
phương
châm mở cửa
từ
điểm
tới
tuyến,
từ
tuyến
tới
diện".
Cụ
thể
là mở cửa toàn
phương
diện,
nhiều
hình
thức, nhiều tầng:
từ
đặc khu
kinh tế
đến thành phố
mở
cửa ven
biển-
mở

cửa
nội
địa

ven
biên
giới
đất
liền.
Phương châm của
chiến
lược mở
cửa
ven biên
giới
được xác định
chung
là: lấy
mậu
dịch biên
giới
dẫn
đường,
coi
hỗp
tác
kinh
tế

trọng điểm,

lấy
khu vực
lục
địa
làm chỗ
dựa, coi
việc khai thác
thị
trường
các
nước
xung quanh làm mục
tiêu.
Việt
Nam giáp
với
2
tỉnh
Quẹng Tây và Vân Nam của
Trung
Quốc -2
tỉnh
nằm
trong
vành đai
kinh tế "đại
Tây
Nam"của
Trung
Quốc bao gồm Tứ Xuyên,

Vân Nam, Quý Châu, Tây
Tạng
và Quẹng
Tây.
Trong
đó Quẹng Tây được
13
xem là hành
lang
ra
biển
cho toàn bộ vùng Tây Nam này. Như
vậy,
tăng
cường
giao
lưu
kinh tế với Việt
Nam không chỉ có ý
nghĩa
đối với
sự phát
triển
của bản thân 2
tỉnh
trên mà còn phát huy tác
dụng
đối với
sự phát
triển

của
toàn vùng Tây Nam
rộng
lớn.
Về phía
Việt
Nam, Chính sách của
Đảng
và Nhà nước
ta
là kiên trì
thực hiện
đưòng
lối
kinh tế
mở và
hội
nhập
kinh tế thế
giới.
Việt
Nam chủ
trương làm bạn
với tất
cả các nước trên cơ sở bình
đẳng,
tôn
trửng
chủ
quyền

của
nhau

hai
bén cùng có
lợi,
vì vậy
nếu
quan
hệ
Việt
-Trung
vẫn căng
thẳng
thì không
thể thực hiện
được chính sách
đối ngoại
của mình. Mở cửa biên
giới
được
coi là
bước
đi
đáu
tiên
để
tiến tới
bình thường hoa
quan

hệ
giữa hai
nước.
Ngoài
ra,
để đảm bảo an
ninh
quốc
phòng, vùng biên
phải
là khu vực
ổn
định về
kinh tế
và chính
trị.
Do tình hình đòi
hỏi Việt
Nam và
Trung
Quốc
phải
mở
lại
các cửa
khẩu
biên
giới
để nhân dân vùng biên được
tự

do buôn
bán, trao đổi
hàng hoa nhằm
phục
vụ nhu cầu tiêu dùng và của sản
xuất, tạo
điệu
kiện
nâng cao
đời
sống
kinh tế
của các
tỉnh
biên
giới,
từ
đó mới có
thể
ổn
định
đời
sống.
Cuối
cùng, mở
rộng
giao
lưu
kinh tế
ở khu vực biên

giới
là một cách
giúp nhân dân
Trung
Quốc
hiểu
rõ hơn về chính sách của
Đảng
và Nhà nước
ta
là luôn
mong
muốn
chung
sống
hoa bình và cùng
nhau
phát
triển
kinh tế,
xoa
bỏ
những
nghi
ngờ thù
địch
do quá khứ để
lại,
khắc
phục


củng
cố mối
quan
hệ hữu
nghị
truyền
thống
vốn có của nhân dân 2 nước nói
chung

nhân dân 2 vùng biên
giới
nói riêng
theo
đúng phương châm:" láng
giềng
hữu
nghị,
hợp tác toàn
diện,
ổn định lâu
dài,
hướng
tới
tương
lai
".
Như
vậy, trong

xu
thế
hợp tác phát
triển,
thực hiện tự
do hoa thương mại
giữa
các nước trên
thế
giới,
nhất

với
quan
hệ đặc
biệt
của
hai
nước láng
giềng
hữu
nghị
giữa Việt
Nam và
Trung
Quốc,
hoạt
động
xuất
nhập

khẩu
hàng
hoa
qua biên
giới
trên bộ
giữa
2 nước được
diễn ra
như một
tất
yếu.
Một
điều
cần
nhấn
mạnh

hiện nay, kinh tế thế
giới
và mậu
dịch
toàn
cầu
đang phát
triển
với tốc
độ
nhanh.
Các cam

kết
đa phương và toàn cầu đã
và đang làm cho biên
giới
quốc
gia
về thương mại và đầu tư dần đến không
tồn
tại,
các
doanh
nghiệp
được
tự
chủ
kinh
doanh
và phát
triển

tất
cả các
nước.
Nếu không đẩy
mạnh
hoạt
động
xuất
nhập
khẩu

giữa hai
quốc
gia
láng
14
giềng
Việt
-Trung,
cả
hai
nước sẽ không
thể
dấp ứng được yêu cầu
chung
của
quá trình phát
triển
thương mại và mậu
dịch
toàn
cầu.
1.2.2)
Những
thuận
lợi
và khó khăn cơ
bản của
Việt
Nam
trong việc

phát
triển
thương
mại
hàng hoa qua biên
giới
trên bộ
với
Trung
Quốc
1.2.2.1)
Những
thuận
lợi

bản
Sau khi
bình thường hoa
quan
hệ
giữa
Việt
Nam-Trung Quốc,
hoạt
động
thương mại hàng hoa trên
thị
trường khu vừc biên
giới
hai

nước đã đạt
được
những
kết
quả đáng
kể.
Trong
tương
lai,
hoạt
động này sẽ còn phát
triển
với
tốc
độ cao hơn
nhiều
so
với
hiện
tại.
Điều
này có khả năng
trở
thành
hiện
thừc
do có được
những
thuận
lợi

cơ bản sau :
- Thứ
nhất, chính
phủ
Việt
Nam

Trung
Quốc đều ủng hộ
việc phát
triển thương
mại
hàng
hoa qua
các cửa
khẩu biên giới:
Chính Phủ
Việt
Nam đang chủ trương phát
triển
kinh
tế
theo
hướng
mở
cửa

hội
nhập,
do đó

việc
mở cửa biên
giới
và phát
triển
thương mại hàng
hoa
trên
thị
trường khu vừc biên
giới
với
Trung
Quốc sẽ ngày càng mở
rộng.
Từ
nhiều
năm
nay,
Chính Phủ 2 nước đã ký
rất nhiều
các
Hiệp
định về mậu
dịch
biên
giới
và các
hiệp
định về các vấn đề có liên

quan
đến mậu
dịch
biên
giới
để phát
triển
thương mại hàng hoa trên khu vừc
thị
trường này. Gần đây
nhất
"Tuyên bố
chung
về hợp tác toàn
diện trong
thế
kỷ mới
giữa
Chính Phủ
nước
cộng
hoa nhân dân
Trung
Hoa và Chính Phủ nước
cộng
hoa xã
hội
chủ
nghĩa
Việt

Nam" sẽ là cơ sở
vững chắc
cho
quan
hệ hợp tác
kinh
tế
nói
chung

quan
hệ thương mại hàng hoa qua biên
giới
trên bộ
giữa
2 nước nói riêng
được
phát
triển
với tốc
độ
nhanh
và ngày càng ổn
định.
Đặc
biệt,
trong
chiến
lược phát
triển

kinh
tế-xã
hội
của
Việt
Nam đến
năm 2010 và
chiến
lược
xuất
khẩu
đến năm
2010,
Đảng
ta
chủ trương đẩy
mạnh
phát
triển
hoạt
động
xuất
nhập
khẩu với
các nước nói
chung

với
Trung
Quốc nói riêng. Với

những
thuận
lợi
về từ nhiên và xã
hội
của
hai
nước,
Việt
Nam không
thể
không
quan
tâm đẩy
mạnh
xuất
khẩu
vào thị
trường
đông dân
nhất
thế
giới
(1,2887
tỷ
người
năm
2003)

tốc

độ tâng
trưởng
kinh
tế
cao (bình quân
giai
đoạn
1991-2001

9.5%/năm),
sức tiêu
thụ
hàng hoa
rất
lớn
như
Trung
Quốc.
15
Thêm vào đó, cấc
tỉnh
thuộc
khu vực
thị
trường biên
giới
Việt
Nam-
Trung
Quốc

trong
khi
xây
dựng
chiến
lược phát
triển
kinh
tế-xã
hội

Chương trình
xuất
khẩu
của mình
cũng
rất
chú
trọng
đến
việc
thúc đẩy
hoạt
động
thương mại hàng hoa
với
Trung
Quốc qua các cửa
khẩu
quốc

tế
và cửa
khẩu
quốc
gia
trên địa bàn
tỉnh.
Theo
tinh
thản
Nghị
quyết
Trung
ương 7 về
hội
nhập
kinh
tế
quốc
tế,
các
tỉnh
đang
tiến
hành xây
dựng
Chiến
lược
hội
nhập

kinh
tế
trên phạm
vi
địa bàn
tỉnh
nhằm
thực
hiện
Chiến
lược
hội
nhập
của
cả
nước.
Về phía
Trung
Quốc, phát
triển
mậu
dịch
trên
thị
trường khu vực biên
giới
dược
coi là
bước đi có tính
chất

mở đường cho
chiến
lược mở cửa
ven
biên
giới đất liền
mà mục tiêu chủ yếu của nó là
khai
thác và mở
rộng
thị
trường
sang
các nước láng
giềng,
các nước lân
cận,
các nước
trong
khu vực và các
nước
khác trên
thế giới,
trong
đó mở
rộng
xuất
nhập
khẩu
hàng hoa

với
Việt
Nam và qua
Việt
Nam được đặc
biệt
chú
trọng.
Trung
Quốc
hiện
đang
thực
hiện
hai
chiến
lược phát
triển
kinh
tế
liên
quan
trực
tiếp
đến các nước Đông
Nam Á. Như chúng
ta
đã đề cập
đến,
đó là

chiến
lược "phát
triển
khu vực
Đại
Tây Nam" và "phát
triển
ba
ven",
trong
đó Quảng Tây và Vân Nam là
những
cửa
ngõ mở
ra thế giới
ở phía nam
Trung
Quốc, nơi mà nếu có sự hợp tác
tốt
với
các nước
ASEAN,
Trung
Quốc sẽ có
những
lợi
ích
hết
sức
to lớn.

Ngoài ra có
thể
nhận
thấy
rằng,
các
doanh
nghiệp
thuộc
các thành
phản
kinh
tế của
Trung
Quốc
rất
chú
trọng
đến
việc
làm ăn buôn bán
với
các
doanh
nghiệp
Việt
Nam. Nguyên nhân cơ bản là do
tiềm
năng về lượng hàng
hoa

trao
đổi
của
Việt
Nam là
rất lớn, loại
mặt hàng
phong
phú, cơ cấu mặt
hàng
nhập
khẩu
từ
Việt
Nam có
thể
bổ
sung
cho
nguồn
nguyên
liệu
phục
vụ
sản
xuất

xuất
khẩu
của các

doanh
nghiệp
Trung
Quốc, các hình
thức
mua
bán
trao
đổi
được
thực
hiện
khá đa
dạng
và cơ bản

doanh
nghiệp
Việt
Nam đã
ngày càng gây được uy
tín với
doanh
nghiệp

người
tiêu dùng
Trung
Quốc.
Như

vậy,
phát
triển
thương mại hàng hoa
Việt
Nam
-
Trung
Quốc

chủ
trương
của
cả Chính Phủ
Việt
Nam và
Trung
Quốc. Nó không
chỉ
được các
tỉnh
khu
vực biên
giới
mà cả các khu vực khác
trong
cả nước
quan
tâm.
16

- Thứ
hai,
các
tỉnh
khu vực
biên giới giữa
hai
nước
đều

điều kiện
tự
nhiên
rất
thuận
lợi
:
Việt
Nam có
chung
đường
biên
giới
trên bộ
với Trung
Quốc dài 1350
km
trải
dài
từ

đông
sang
tây qua 7
tỉnh
vùng cao phía Bấc. Với trên 4
triệu
người
tiêu dùng, các
tỉnh
có biên
giới
đất
liền
với Trung
Quốc đã
trở
thành
khu
vực
thị
trường tiêu
thụ
hàng hoa khá
lớn
kể cả hàng hoa sản
xuất
trong
và ngoài khu vực
cũng
như hàng hoa

nhập
khẩu
qua biên
giới
trên bộ
với
Trung
Quốc. Mợc dù có địa hình
phức
tạp,
vói 80%
diện
tích là vùng núi cao,
rừng
rậm
nhưng dây là khu vực có
nhiều
tài nguyên, khoáng
sản,
có khả
năng phát
triển
lâm,
nông
nghiệp,
năng
lượng
và các ngành
kinh
tế

khác.
Đợc
biệt
hơn,
các
tỉnh
có biên
giới
trên bộ
với Trung
Quốc là
vị trí
tiền
tiêu của Tổ
quốc,

vai
trò đợc
biệt
quan
trọng
về an
ninh
quốc
phòng, và là
nơi hàng ngày hàng
giờ
diễn
ra
hoạt

động
xuất
nhập
khẩu
hàng
hoa,
là nơi
giao
lun
kinh
tế,
văn
hoa,

hội giữa
các dân
tộc
của
hai
quốc
gia
láng
giềng.
-
Thứ
ba,
tập
quán buôn
bán


thị
hiếu tiêu
dùng
của cư dân
hai
nước
khá
tương đồng
:
Với
đường
biên trên bộ khá
dài,
cư dân
hai
nước
Việt
-Trung
sống
rất
đông dọc
theo
đường
biên
giới,

từ
lâu đã có mối
quan
hệ mật

thiết
vì họ có
hoàn
cảnh
kinh
tế-xã
hội,
tự
nhiên tương
tự nhau,
có văn
hoa,
ngôn
ngữ, tập
quán
sinh
sống

tập
quán tiêu dùng gần
giống
nhau.
Mợc dù
người
tiêu dùng trên
thị
trường khu vực biên
giới

hai

nước
chịu
sự tác động của các chính sách phát
triển
kinh
tế-xã hội
(nhất
là chính
sách phát
triển
thương mại và mậu
dịch
biên
giới)
của
hai
nước khác
nhau,
song
trên
thực
tế
họ đã có mối
quan
hệ lâu
đời
với
phương châm hỗ
trợ
lẫn

nhau
để cùng
nhau
tồn
tại.
Nhưng
cũng
do sự khác
biệt
trên nên
hoạt
động
thương mại hàng hoa trên
thị
trường khu vực biên
giới
trên bộ vừa có tính đa
dạng
vừa
mang
tính đợc
thù.
Đây là cơ sở để cho các địa phương, các
tỉnh

biên
giới
trên bộ
giữa
Việt

Nam-Trung Quốc có khả năng phát
triển
kinh
tế
theo
hướng
vừa hợp tác vừa bổ
xung
hỗ
trợ
n t»ạ
đểM3ùngì
phát
triển
17
-
Thứ
tư,
hai
nước đều có nhu
cầu
phát triển kinh
tế
theo
xu hướng
hội
nhập:
Phát
triển
thương mại hàng hoa qua biên

giới
trên
bộ
giữa hai
nước
sẽ


sở,
là cầu
nối
để các
tỉnh,
các
doanh
nghiệp
của cả
Việt
Nam và
Trung
Quốc

thể
liên
kết
và hợp
tác.
Đồng
thời
cũng



hội
để
hai
nước thâm
nhập
lửn
nhau

thâm
nhập
vào
thị
trường
các
nước
ASEAN, APEC, EU
và các nước
khấc
trên
thế
giới.
Tóm
lại,

hai
nước đang phát
triển,
Trung

Quốc

Việt
Nam đều
đang
tiến
hành
cải
cách,
mở
cửa

đổi
mới
kinh
tế.
Mặc dù
thời
gian
bắt
đầu

mức độ
cải
cách,
mở
cửa

khác
nhau

nhưng cả
hai
quốc
gia
đểu
rất
cần
môi trường
quốc
tế
hoa bình,
ổn
định
để
phát
triển
kinh tế, hiện
đại
hoa đất
nước

nâng cao vị
thế
trên
thị
trường
quốc
tế trong
điều
kiện hội

nhập
kinh
tế
ngày càng
sâu
sắc.
Với
nỗ
lực
vượt
bậc của
cả
hai
phía,
với
những
lợi
thế
trong
quá
trình phát
triển
thương mại hàng hoa
giữa hai
nước,
với chiến
lược
phát
triển
kinh tế

mở,
ưu
tiên phát
triển
hợp tác

giao
lưu
kinh
tế,
hoạt
động
thương mại hàng hoa qua biên
giới
trên
bộ
giữa Việt
Nam và
Trung
Quốc
sẽ

điều
kiện
để
phát
triển
ở mức
cao.
Đây sẽ là cơ sở

ban
đầu,
có tác
động
quan
trọng trong
quá
trình hợp tác cùng phát
triển
giữa hai
nước
Việt
-Trung,
giữa
các địa phương và
doanh
nghiệp
của
hai
nước.
1.2.2.2)
Những khó
khăn chủ yếu
Phát
triển
thương mại hàng hoa qua biên
giới
trên
bộ
giữa Việt

Nam-
Trung
Quốc
bên
cạnh
những
thuận
lợi

bản
nêu
trên thì
những
khó
khăn,
thách
thức
được
đặt ra cũng
là không
nhỏ.
Nhìn
một
cách khái
quát,
các khó
khăn

bản
phải

kể đến là
:
-
Một
là,
Việt
Nam

Trung
Quốc
tiến
hành
hoạt
động
thương
mại
hàng hoa qua
biên giới trên
bộ
trong điều kiện
cơ sở
vật
chất
kỹ
thuật
còn
yếu
kém:
Khu
vực biên

giới
trên
bộ
của
Việt
Nam
với
Trung
Quốc chủ yếu

các
tỉnh
miền
núi và
miền
núi
cao.
Do
cấu
tạo
địa hình,
đặc
điểm
của
lối
sống
du
canh
du cư và
khả năng

đầu tư có hạn của cả nhà
nước,
các địa
18
phương có biên
giới
và cư dân nên cơ
sở hạ tầng của
các
tỉnh thuộc
khu vực
biên
giới
trên
bộ

rất
yếu
kém.
Đa
số các
huyện,
thị
biên
giới
đều
ở cách
xa cửa
khẩu
và các

trung
tâm
giao
lưu
kinh
tế,
văn hoa
của tỉnh

của
vùng.

nhiều
nơi chưa có đường
ôtô
về
đến
xã,
phương
tiện
giao
thông
hạn chế,
đường xá
đi
lại
khó
khăn,
chủ
yếu là

đường
rải
cấp phối
hoằc
đường
đất
(trừ
một
số
vùng
cửa
khẩu

Lạng
Sơn,
Quảng
Ninh ).
Gần đây Chính Phủ
hai
nước đã chú
trọng
đầu tư nâng
cấp
cải
tạo
đường xá nhằm
tạo thuận
lợi
cho hoạt
động thương mại hàng hoa

qua
biên
giới
trên bộ
giữa hai
nước (nâng
cấp
quốc
lộ
1A
đi
qua
thị

Lạng
Sơn của
Việt
Nam để
nối
Bằng Tường
đi
Nam
Ninh thuộc tỉnh
Quảng Tây-
Trung
Quốc) nhưng vẫn
chỉ
đáp ứng được
phần
nào nhu cầu về vận

chuyển
hàng
hoa
trong
mua
bán,
trao
đổi qua
biên
giới
trên
bộ
của cả
2
nước.
Mằt
khác,
hệ
thống
thông
tin
liên
lạc
được đầu tư
thoa
đáng,
chủ
yếu
chỉ
được sử

dụng
ỏ khu vực thành
thị
nên các thông
tin
kinh
tế-xã hội

thương
mại đều đến
chậm,
nhiều
khi
thiếu
hoàn
chỉnh,
thiếu
chính
xấc
Thêm vào
đó,
cơ sở
vật chất
kỹ
thuật
thương mại
tại
các
tỉnh
có biên

giới
trên
bộ
với Trung
Quốc
rất
nghèo
nàn, lạc hậu, chủ yếu là
nhà
tạm,
điện
nước
không có thường
xuyên,
máy móc
thiết
bị
thô
sơ,
phương
tiện
cân đong

kiểm
tra
chất
lượng sản phẩm, hàng hoa đang ở mức
thủ
công nên
hiệu

quả hoạt
động không
cao.
Tuy
nhiên,
so
với
Việt
Nam
thì

sở
hạ
tầng
kỹ
thuật
của
phía
Trung
Quốc khá hơn do Chính Phủ nước này đang
chủ
trương
kiến
tạo con
đường
từ
các
tỉnh
vùng Tây Nam
Trung

Quốc
ra biển
Đông, xây
dựng
đường
sắt nối
các
tỉnh
Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên
với
các
cảng
phía Đông Nam Á.
Trong
tương
lai
gần,
Quảng Tây
thực
sự sẽ
trở
thành cẩu
nối
các
tỉnh
phía
Nam
Trung
Quốc
với

Việt
Nam, các nước Đông Nam Á và các nước
thuộc
khu vực
châu Á
-
Thái Bình Dương.
-
Hai
là, hoạt động thương
mại
hàng
hoa
tại
các khu vực
biên giới
Việt-Trung được tiến hành trong điều kiện nguồn lực tại
chỗ
rất
hạn chế:
Hiện nay,
nhà nước đang có các chương trình đầu

phát
triển
các khu
vực
thương
mại,
khu vực mậu

dịch
dọc
tuyến
biên
giới
phía
Bắc.
Để
thực
hiện
các chương trình này
cần
huy động
nguồn
lực
khá
lớn của
cả
nước,
đằc
19
biệt
là của các địa phương biên
giới.
Trong
khi
đó,
hầu
hết
các

tỉnh
dọc biên
giới
Việt
-Trung
đều là các
tỉnh
nghèo,
kinh
tế
kém phát
triển,
nguồn
lực
tại
chỗ
vừa yếu vừa
thiếu,
chưa đủ sức
giải
quyết
những
yêu cầu
đỏt ra
cho phát
triển
kinh
tế
tại
chính địa phương của mình. Hơn

nữa,
quá trình
chuyển dịch
cơ cấu
kinh
tế từ
công
nghiệp
-nông
nghiệp
-
dịch
vụ
sang
công
nghiệp
-
nông
nghiệp
-
dịch
vụ ỏ các địa phương biên
giới

rất
chậm
chạp
và gỏp
nhiều
khó khăn.

-
Ba
là,
mặt
bằng
dân
trí
tại
các khu vực
biên giới
còn
rất
thấp
:
Các
tỉnh
có biên
giới
trên bộ
với
Trung
Quốc của
Việt
Nam có dân số
khoảng
4
triệu
người,
đa số là
người

dân
tộc
thiểu
số.
Tỷ
trọng
dân cư
sống

thành
thị
đạt mức trên
21%,
chủ yếu tập
trung
ở các
tỉnh
lỵ,
thị xã, thị
trăn
.còn ở vùng
cao,
vùng
sâu,
vùng xa
thì
mật độ dân cư thưa
thớt.
Với
đa số dân cư

thuộc
các
tỉnh
biên
giới
trên bộ
với Trung
Quốc là
đồng
bào dân
tộc,
đời sống
kinh
tế
và văn hoa ở mức
thấp,
chưa định cư ổn
định
(trừ
Ì số
thị
xã có cửa
khẩu
như Móng Cái-Quảng
Ninh,
Đồng
Đăng-
Lạng
Sơn và
thị

xã Lào Cai
),
nên khả năng sản
xuất,
tiêu
thụ

xuất
nhập
khẩu
hàng hoa
theo
hướng
tập
trung

qui

lớn

rất
khó khăn. Trình độ
dân trí
thấp,
văn
hoa, tập
quán cùng
với
lối
sống

và ngôn ngữ đa sắc
tộc

nguyên nhân chính gây nên khó khăn
lớn
cho các
hoạt
động
giao
tiếp,
giao
dịch,
trao
đổi
mua bán hàng hoa.
- Bốn
là,
khả năng
thu
hút
đấu
tư của các
địa
phương
biên giới
ở cả
hai
nước
còn yếu
:

Do
điều
kiên
tự
nhiên-xã
hội

kha
nâng phát
triển
kinh
tế
của
các
tỉnh

biên
giới
trên bộ
giữa
Việt
Nam và
Trung
Quốc có
nhiều
khó khăn và yếu kém
dãn đến khả nâng
thu
hút đẩu tư cả
trong

nước và ngoài nước ở mức
thấp.
Đây
cũng
là lý do làm cho
khoa
học công
nghệ
trong
các ngành sản
xuất-
kinh
doanh
ở khu vực biên
giới
Việt
-
Trung
còn
rất lạc
hậu,
trình độ lành
nghề
của
người lao dộng
chưa cao do trình độ văn hoa
thấp,
không đủ
điều
kiện

để
tiếp
cận
với
khoa
học kỹ
thuật
và kỹ năng
quản

hiện đại.
Vấn
đề này đang được
Đảng
và nhà nước
ta
có các chính sách hỗ
trợ
từng
bước để vừa nâng cao mức
sống
văn hoa cho dân cư vừa
tạo
điều
kiện
cho người
lao
động
tiếp
cận

với
khoa
học công
nghệ
hiện
đại,

kinh
nghiệm
20

×