Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

8 kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.06 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU..........................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................3
CHƯƠNG I .TƯ DUY CỦA ĐẢNG VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI.....................................................................3
1.1.

Hồn cảnh lịch sử.........................................................................3

1.1.1.

Hoàn cảnh quốc tế...................................................................3

1.1.2.

Hoàn cảnh trong nước.............................................................4

1.2. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IV đến đại
hội XII.......................................................................................................5
1.2.1. Tư duy của Đảng về Kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại
hội VIII..................................................................................................5
1.2.2.Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội
XII:........................................................................................................6
1.2.3. Những thay đổi về tư duy của Đảng ta .......................................7
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ ĐỊNH
HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM...............................................................11
2.1. Thành tựu và ý nghĩa phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN.........................................................................................11
2.2. Hạn chế và Nguyên nhân trong phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN................................................................................14
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU


CỰC CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG....................................................17
3.1. Những tác động tiêu cực trong phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta...............................................................17


3.2. Các giải pháp về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta....................................................................................17
3.3. Sự chuẩn bị của bản thân..............................................................20
3.3.1. Về cơ hội...................................................................................20
3.3.2. Sự chuẩn bị của bản thân...........................................................20
KẾT LUẬN....................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................24


PHẦN I: MỞ ĐẦU
Qua hơn 20 năm đổi mới Việt Nam đạt được những thành tựu như ngày
hôm nay là nhờ có Đảng lãnh đạo và đặc biệt Đảng đã luôn luôn chủ động, sáng
tạo trong đổi mới tư duy về kinh tế .
Đường lối và chính sách đổi mới từ Đại hội VI (1986) của Đảng đã đặt cơ sở,
nền tảng ban đầu cho giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta. Đảng
đã đề ra đường lối đổi mới tồn diện, sâu sắc, trong đó có đổi mới tư duy về kinh
tế, đây là bước đột phá cho công cuộc đổi mới các lĩnh vực tiếp theo.
Bước ngoặt trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng là chúng ta chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng Xã hội chủ nghĩa. Thành tựu nổi bật nhất trong bước khởi đầu đổi mới tư
duy kinh tế là Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Quan điểm về mơ hình nền kinh tế
trong thời kỳ q độ đã thay đổi căn bản và đến nay đã được xác lập, đó là nền
kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa khơng chỉ có hai thành phần kinh
tế quốc doanh và tập thể mà tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau.Việt Nam

đang dần khẳng định vai trị của mình trên trường quốc tế. Tuynhiên nước ta vẫn
cịn là một nước nghèo, kinh tế nơng nghiệp chiếm tỷ trọng khá lớn trong nền kinh
tế quốc dân. Thu nhập bình qn đầu người cịn thấp, tệ nạn xã hội tham ô tham
nhũng vẫn tồn tại và phát triển. Đảng và Nhà nước đã khẳng định quyết tâm dẩy
mạnh CNH-HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, định hướng
XHCN, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèonàn, lạc hậu, kém phát triển để
đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành mộtnước công nghiệp.
Và trong xu thế hội nhập kinh tế, Việt Nam đang trên đường phát triển cơng
nghiệp hố- hiện đại hố đất nước. Bên cạnh việc đặt nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền
và tồn vẹn lãnh thổ đất nước là tiêu chí hàng đầu thì một vấn đề khơng kém phần
quan trọng và cần thiết đó là phát triển nền kinh tế . Bởi vì khi một đất nước nghèo
nàn, lạc hậu thì cũng đồng nghĩa với đất nước đó sẽ trở thnàh thuộc địa về kinh tế
của những nuớc phát triển. Vì thế, để phát triển kinh tế thì ngồi việc chúng ta cần


phải phát huy và tận dụng rất nhiều nguồn lực như: nguồn lực tự nhiên, nguồn nhân
lực, vốn đầu tư, khoa học... thì Đảng ta cần có một đường lối tư duy đúng đắn để
phát triển nền Kinh tế thị trường ở nước ta.
Sự thay đổi tư duy về kinh tế thị trường trong hơn 20 đổi mới ở nước ta- một
sự thay đổi mang tính quyết định của cả nền kinh tế và nó đã góp phần giúp chúng
ta thốt khỏi tình trạng khủng hoảng, nghèo nàn, lạc hậu, đưa nước ta trở thành một
nước có nền kinh tế vững mạnh.

Với mong muốn học hỏi và chia sẻ những hiểu biết nhỏ bé của mình về
đường lối chính sách của Đảng về công cuộc đổi mới tư duy nền kinh tế thị
trường, em đã quyết định chọn đề tài : “Kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở Việt Nam”. Đề tài tiểu luận này sẽ đi sâu vào phân tích bối cảnh đẩt nước
trước đổi mới, các giai đoạn phát triển tư duy của Đảng ta, khẳng định tính
đúng đắn và cần thiết của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đồng thời trình bày những thành tựu và thách thức của nền kinh tế nước ta

trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp để phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.Đây là một vấn đề
lớn ,trong quá trình chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sạng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên bài viết khơng thể đi sâu
và phân tích đầy đủ các vấn đề. Vậy mong được sự chỉ bảo và góp ý của thầy
giáo, em xin chân thành cảm ơn!


NỘI DUNG
CHƯƠNG I .TƯ DUY CỦA ĐẢNG VỀ KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI
1.1.

Hồn cảnh lịch sử
Trong tiến trình cách mạng dân tộc dân chủ, mặc dù quan niệm về

tính tất

yếu quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã hình thành nhưng đến thời kỳ năm 1954- 1975
mơ hình chủ nghĩa xã hội mới được xác lập trên thực tế ở miền Bắc. Đó là mơ hình
chủ nghĩa xã hội chịu sự chi phối của quy luật chiến tranh khi miền Bắc giữ vai trò
là hậu phương lớn của miền Nam và đối với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ.
Nền kinh tế chỉ hủy với cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp
dựa trên hình thức sở hữu cơng cộng về tư liệu sản xuất được xác lập ở miền Bắc
trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau năm 1975 cả nước ta đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng bức tranh mới về hiện tượng kinh tế xã hội đã
thay đổi.

1.1.1. Hoàn cảnh quốc tế
Những năm 70 – 80 của thế kỷ XX, tình hình kinh tế - chính trị trên thế

giới và của các nước khối chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng to lớn đến tình hình kinh
tế Việt Nam ,thể hiện cụ thể:
Xu thế hợp tác và cạnh tranh trên thế giới đang dần thay thế xu thế đối đầu
và xung đột. Trước tình hình đó, các quốc gia đều phải thay đổi về tư duy, chính
sách phát triển kinh tế đặc biệt là đường lối đối ngoại giữa các nước với nhau.
Chính vì vậy, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế là u cầu bắt buộc, là địi
hỏi của chính u cầu phát triển đối với nền kinh tế Việt Nam.
Tổ chức “các nước công nghiệp mới” ở Đông Nam Á đã đưa ra những gợi ý
về cách thức và giải pháp phát triển đối với những nước vốn xuất phát từ nơng
nghiệp, có quan hệ xã hội theo kiểu giá trị văn hóa phương Đơng. Đó là những
thành cơng của chiến lược phát triển: phát huy sức mạnh nội lực, thị trường – mở
cửa, hướng vào xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.


Sự thất bại của công cuộc cải tổ dẫn đến sự sụp đổ của chế độ chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu là một bài học đắt giá. Đó là kết quả của con
đường cải tổ theo kiểu “phủ định sạch trơn”, sử dụng “liệu pháp sốc”, giải quyết
không đúng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong q trình cải tổ.
Cơng cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc – một nước xã hội chủ nghĩa
láng giềng với những đặc điểm tương đồng về kinh tế - xã hội với Việt Nam – theo
định hướng thị trường - mở cửa bắt đầu diễn ra từ năm 1978 đã đạt được những
thành tựu nổi bật. Đó chính là nhưng kinh nghiệm q báu trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Như vậy, bối cảnh thế giới vào những năm 70 – 80 của thế kỷ XX có những
ảnh hưởng to lớn đến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Để đáp ứng
được yêu cầu phát triển và phù hợp với xu hướng thời đại, chúng ta buộc phải đổi
mới về tư duy, tận dụng những cơ hội do thời đại mang lại nhưng đồng thời, những
bài học quan trọng trong sự thành công và thất bại trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa là những kinh nghiệm quý báu cho việc
hoạch định đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam.


1.1.2. Hoàn cảnh trong nước
Nếu như trước đây nền kinh tế kế hoạch hóa trong thời gian đầu thực hiện
đã tỏ ra phù hợp tạo bước chuyển biến quan trọng về mặt kinh tế - xã hội, đồng
thời nó thích hợp với nền kinh tế thời chiến và đóng vai trò quan trọng trong
việc tạo ra chiến thắng của cả dân tộc. Nó cho phép

Đảng và Nhà nước huy động

ở mức cao nhất sức người sức của cho tiền tuyến thì hiện nay việc duy trì quá lâu
cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp đã trở thành nguyên nhân đẩy nền
kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng kéo dài.
Trong một nền kinh tế tồn tại ba loại hình kinh tế tự cấp tự túc, nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung và kinh tế hàng hóa. Chúng ta có thể khái quát mơ hình
kinh tế nước ta trước năm 1979 là “cơng hữu, kế hoạch hóa, phi thị trường”, nhà
nước trở thành cơ quan quyền lực kinh tế trực tiếp mọi khâu, mọi lĩnh vực của
nền kinh tế, từ sản xuất vật chất đến lưu thông, phân phối sản phẩm. Trong quan


hệ với các đơn vị kinh tế cơ sở thì nhà nước chịu trách nhiệm cấp phát vật tư, các
đơn vị kinh tế chịu trách nhiệm sản xuất và giao nộp sản phẩm theo chỉ tiêu giá trị
hiện vật mang tính pháp lệnh. Trong lĩnh vực thương nghiệp, nhà nước tổ chức thu
mua, tập trung nguồn hàng và thực hiện phân phối sản phẩm thông qua hệthống
mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán. Nền kinh tế vận hành theo kế hoạch
pháp lệnh mang tính hành chính nên nhiều quy luật kinh tế khách quan bị lãng
quên.
Siêu lạm phát hoành hành và giá cả tăng theo cấp số nhân: Từ năm 1976,
tình trạng lạm phát ngày càng trầm trọng vượt ra khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước
ta. Năm 1985, cuộc cải cách giá - lương - tiền theo giải pháp sốc đã thất bại làm
cho cơn sốt lạm phát tăng nhanh, hoành hành trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh

tế - xã hội. Giá cả leo thang từng ngày đã vơ hiệu hóa tác dụng đổi tiền chỉ mới
tiến hành vài tháng trước đó, làm rối loạn điều hành kinh tế vĩ mô. Giá cả không
chỉ tăng trên thị trường tự do mà còn tăng rất nhanh trong thị trường có tổ chức. Về
cơ bản, giá cả đã tuột khỏi tầm tay bao cấp của Nhà nước. Siêu lạm phát đạt đỉnh
cao vào năm 1986, với tốc độ tăng giá cả năm lên tới 774,4%.
Như vậy, những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế của nước
ta đã lâm vào khủng hoảng mà đỉnh cao là năm 1986.Trước tình hình đó u cầu
đổi mới nền kinh tế là yêu cầu sống còn, là vận mệnh của đất nước.

1.2. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IV đến đại hội
XII
1.2.1. Tư duy của Đảng về Kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII
Đây là giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng về kinh tế thị
trường. So với thời kì trước đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường có sự thay đổi
căn bản và sâu sắc.
Kinh tế thị trường không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành
tựu phát triển chung của nhân loại. Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội cho thấy
sản xuất và trao đổi hàng hoá là tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển của
kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hội nơ lệ, hình


thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong chủ nghĩa Tư bản. Chủ nghĩa
Tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hố. Do đó, kinh tế thị trường với tư cách là
kinh tế hàng hoá ở trình độ cao khơng phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa Tư bản
mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Kinh tế thị trường lấy khoa học,
công nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất hố cao.
Kinh tế thị trường cịn tồn tại khách quan trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa
Xã hội. Kinh tế thị trường xét dưới góc độ “một kiểu tổ chức kinh tế” là phương
thức tổ chức, vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết nền kinh tế lấy cơ chế
thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn nhân lực kinh tế và điều tiết mối quan

hệ giữa người với người. Kinh tế thị trường chỉ đối lập với kinh tế tự nhiên, tự
cấp, tự túc chứ không đối lập với các chế độ xã hội. Bản thân kinh tế thị trường
không phải là đặc trưng bản chất cho chế độ kinh tế cơ bản của xã hội. Kinh tế thị
trường tồn tại và phát triển ở nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Kinh tế thị
trường vừa có thể liên hệ với chế độ cơng hữu và phục vụ cho chúng.
Có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ sản xuất, kinh
doanh, lỗ, lãi tự chịu. Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát
triển đồng bộ và hồn hảo. Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo qui luật
vốn có của kinh tế thị trường: qui luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh, qui luật lưu
thơng tiền thị trường

Có hệ thống pháp quy kiện tồn và sự quản lý vĩmơ của

Nhà nước.

1.2.2.Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội XII:
Đảng xác định: Nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kì quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “Một kiểu tổ
chức kinh tế vừa tuân theo qui luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở
và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất cùa chủ nghĩa xã
hội”. Nội dung cơ bản của định hướng Xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh
tế thị trường ở nước ta thể hiện ở 4 tiêu chí:


Về mục đích phát triển: mục tiêu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh” giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời
sống nhân dân, đẩy mạnh xố đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên

làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thốt nghèo và từng bước khá giả hơn.
Về phương hướng phát triển: phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành
phần kinh tế, trong mọi cá nhân và mọi vùng miền... phát huy tối đa nội lực để phát
triển nhanh nền kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, là công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng
cho sự phát triển vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
Về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển và chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế gắn
kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục và đào tạo, giải
quyết vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Hạn chế tác động tiêu cực
của kinh tế thị trường.
Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua
chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế phúc lợi xã hội.
Đồng thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển chúng ta cịn thực
hiện phân phối theo mức đóng góp và các nguồn lực khác.
Về quản lý: phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân. Bảo đảm vai trò
quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của thị trường, bảo đảm quyền lợi
chính đáng của mọi người.

1.2.3. Những thay đổi về tư duy của Đảng ta .
Trước đổi mới, chúng ta coi kinh tế xã hội chủ nghĩa và kinh tế tư bản chủ


nghĩa (hay kinh tế thị trường) là hai phương thức kinh tế khác nhau về bản chất và
đối lập với nhau cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối và mục

đích phát triển. Kinh tế xã hội chủ nghĩa vận động theo các quy luật của chủ nghĩa
xã hội, còn kinh tế tư bản chủ nghĩa thì vận động theo các quy luật của chủ nghĩa
tư bản (tất nhiên trong khi nói đến kinh tế kế hoạch chúng ta cũng đã từng nói đến
hạch toán và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, vận dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, coi
lợi ích vật chất và khuyến khích vật chất là một động lực của sự phát triển).
Sau đổi mới, tư duy của chúng ta về kinh tế có nhiều sự phát triển so
vớitrước. Nhìn khái qt đã có những sự thay đổi lớn như sau:
Từ quan niệm chủ nghĩa xã hội chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là chế độ
công hữu về tất cả các tư liệu sản xuất (bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể)
đã đi đến quan niệm nền kinh tế của ta hiện nay và sau này có ba chế độ sở hữu cơ
bản là toàn dân, tập thể, tư nhân, trên cơ sở đó, hình thành nhiều hình thức sở hữu
và nhiều thành phần kinh tế khác nhau như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh
tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có
vốn đầu tư nước ngồi.
Từ quan niệm cho rằng để xây dựng được quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
phải nhanh chóng hồn thành việc cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế rằng
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, còn cải
tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới nhất thiết phải phù hợp với
từng bước phát triển của lực lượng sản xuất.
Từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với
việc xóa bỏ nhanh chóng các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, ngay từ đầu
đã là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, đã đi đến quan niệm rằng muốn cho hai
thành phần kinh tế ấy ngày càng trở thành nền tảng vững chắc thì phải trải qua một
quá trình dài xây dựng, đổi mới và phát triển với những bước thích hợp; trong khi
đó, vẫn khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế tư nhân, coi như thành
phần này là động lực quan trọng của phát triển kinh tế và phát triển lực lượng sản
xuất.


Từ quan niệm nhà nước phải chỉ huy toàn bộ nền kinh tế theo một kế hoạch

tập trung, thống nhất với những chỉ tiêu có tính pháp lệnh áp đặt từ trên xuống, đã
đi đến phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý
kinh doanh; chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chủ sở hữu tài sản công là
thuộc nhà nước, cịn chức năng quản lý kinh doanh thì thuộc về doanh nghiệp. Từ
chỗ tuyệt đối hóa vai trị của kế hoạch, phủ nhận vai trò của thị trường đã đi đến
thừa nhận thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch; kế hoạch chủ
yếu mang tính định hướng và đặc biệt trên bình diện vĩ mơ, cịn thị trường giữ vai
trị trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương
án tổ chức sản xuất, kinh doanh.
Từ chỗ chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất chính đáng là phân
phối theo lao động đã đi đều quan niệm thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy
phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân
phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và phân
phối thông qua phúc lợi xã hội. Công bằng xã hội thể hiện không phải ở chủ nghĩa
bình quân trong kinh tế mà là ở chỗ phân phối hợp lý tư liệu sản xuất và kết quả
sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đến có cơ hội phát triển và sử dụng tốt
năng lực của mình. Khơng ngăn cấm mọi sự làm giàu mà trái lại khuyến khích mọi
người làm giàu chính đáng theo đúng pháp luật, đồng thời thực hiện xóa đói giảm
nghèo, hạn chế phân cực quá đáng hai đầu.

Xét về thời gian, dưới góc độ kinh tế thị trường, tư duy của chúng ta
cũng được đổi mới qua nhiều bước.
Bước I: Thừa nhận cơ chế thị trường nhưng không coi nền kinh tế của ta là
kinh tế thị trường.

Nói cơ chế thị trường là chỉ nói về mặt cơ chế quản lý chứ khơng phải
nói về tồn bộ đặc điểm, tính chất và nội dung của nền kinh tế. Do đó, trong
khi phê phán nghiêm khắc cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp và đề
ra chủ trương đổi mới quản lý kinh tế (một bộ phận của đường lối đổi mới
toàn diện), Đại hội VI khẳng định: “thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh



tế là cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ”. Phát triển thêm một bước, Đại hội
VII (qua Cương lĩnh) đã xác định nền kinh tế của ta là “nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước”.
Bước II: Coi kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa
tưbản, khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) nhận
định: Cơ cấu kinh tế nhiều thành phầ đang hình thành. Và cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang trở thành cơ chế vận
hành của nền kinh tế. Có nghĩa là nền kinh tế của ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cịn có chế vận hành của nền kinh tế
đó là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Gần cuối nhiệm kỳ Đại hội VII, tại một nghị quyết của Bộ Chính trị về
cơng tác lý luận đã nhận định: “Thị trường và kinh tế thị trường không phải là
cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu chung của văn minh nhân
loại”. Theo nhận định này, thị trường, kinh tế thị trường đã từng tồn tại và
phát triển qua những phương thức sản xuất khác nhau. Nó có trước chủ
nghĩa tư bản, trong chủ nghĩa tư bản và cả sau chủ nghĩa tư bản. Nếu trước
chủ nghĩa tư bản nó vận động và phát triển ở mức khởi phát, manh nha, cịn
ở trình độ thấp thì trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nó đạt tới đỉnh cao đến mức
chi phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó, làm cho người ta
nghĩa rằng nó chính là chủ nghĩa tư bản. Như vậy, trong thời kỳ quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường còn tồn tại là tất
yếu. Vấn đề ở đây là liệu kinh tế thị trường có đối lập với chủ nghĩa xã hội
khơng, và liệu việc xây dựng chủ nghĩa xã hội có đi đến phủ định kinh tế thị
trường để rồi tạo nên một nền kinh tế hoàn toàn khác về chất là kinh tế xã hội

chủ nghĩa, nền kinh tế vận động theo các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã
hội hay không? Câu trả lời là không.


Bước III: Coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh
tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Theo Nghị quyết của
Đại hội IX, các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các
thành phần đó bao gồm cả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ,
kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi.
Bước IV: Gắn kinh tế thị trường của nước ta với nền kinh tế thị trường tồn
cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và đầy đủ hơn.
Đại hội X của Đảng chủ trương: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Bốn nội dung quan trọng nhất là: nắm vững
định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế nước ta, nâng cao vai trị và hồn
thiện quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành
các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các
thành phần kinh tế và các loại hình sản xuất, kinh doanh.
Điều quan trọng hơn nữa là với chủ đề: “Tích cực và chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế”, Đại hội đã quyết định đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập
sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương,
lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất. Việc Việt Nam trở thành thành
viên chính thức của WTO vào tháng 1-2007 đánh dấu một bước phát triển cao của
quá trình hàng chục năm thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.



CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ
ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM
2.1. Thành tựu và ý nghĩa phát triển nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN
a) Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh.
Thực hiện đường lối đổi mới, với mơ hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ
phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu
phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu được đánh
giá là thành cơng bước đầu cụ thể hóa nội dung Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa
trong chặng đường đầu tiên. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ
sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế xã
hội và giải phóng sức sản xuất.
1991-1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, đạt được tốc
độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và tồn diện.GDP bình qn nămtăng 8,2%.
Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh Cơng nghiệp hóa
– Hiên đại hóa đất nước.
Từ năm 1996-2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực
cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế nước ta trước những thử
thách. Tuy nhiên, giai đoạn này, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng sản
phẩm trong nước 7%/năm.
Năm 2000-2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, GDP
bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo
giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, thu nhập bình quân đầu người đạt trên 10
triệu đồng, tương đương với 640 USD/người/năm.
Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn lương



thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước
ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2
về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu.
2005-2010: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù
khủng hoảng tài chính và suy thối kinh tế tồn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư
nước ngoài vào nước ta đạt cao. Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45
tỉ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm
ước đạt 150 tỉ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai
đoạn 2001-2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn 1,5 lần so
với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỉ USD, vượt 16%.GDP đạt hơn
100 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt 1.168 USD.

b) Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng cơng nghiệp hố, hiện
đại hố, gắn sản xuất với thị trường.
Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1988 là
46,3%, năm 2005 còn 20,9%, năm 2010 còn 20,6%. Trong nội bộ ngành nông
nghiệp cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ
trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị
xuất khẩu.
Tỷ trọng cơng nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Năm 1988 là
21,6%, năm 2005 lên 41%. Công nghiệp và xây dựng phát triển mạnh với thiết bị
công nghệ ngày càng hiện đại.
Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1%
năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thơng phát
triển với tốc độ nhanh. Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý... có
bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.


c) Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh
tế.


Kinh tế Nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả,
tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh
tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo
hướng xoá bao cấp, thực hiện chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và trách
nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh.
Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực
và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38%
GDP của cả nước.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở
thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan
trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thơng quốc tế, đóng góp vào
ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.

d) Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được
hình thành, kinh tế vĩ mơ cơ bản ổn định.
Qua 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng
bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần
và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng.
Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế
của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng.
Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, thực hiện các cam kết
về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam –
Hoa Kỳ, gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)…


e) Thực hiện gắn kết phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội,
đời sống của đại bộ phận dân cư được nâng lên rõ rệt.
Một thành công lớn đầy ấn tượng của nước ta qua 25 năm đổi mới là đã giải
quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi


thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân
dân được nâng cao.
Trước hết, cơng tác giải quyết việc làm, xố đói giảm nghèo đạt kết quả tốt,
vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Từ năm 2000 đến năm
2005, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị giảm
xuống còn 5,3%; thời gian sử dụng lao động ở nông thôn đạt 80%.Thu nhập bình
quân đầu người tăng mạnh từ 200 USD năm 1990 lênkhoảng 1168 USD năm 2010.
Cơng tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng và có nhiều tiến
bộ.Mạng lưới y tế được củng cố và phát triển, y tế chuyên ngành được nâng cấp,
ứng dụng công nghệ tiên tiến; việc phòng chống các bệnh xã hội được đẩy mạnh;
tuổi thọ trung bình từ 68 tuổi năm 1999 đến nay nâng lên trên 72 tuổi.
2.2. Hạn chế và Nguyên nhân trong phát triển nền kinh tế thị trường định

hướng XHCN
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu trên, quá trình đổi mới tư duy
kinh tế của Đảng về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta trong gần 30 năm qua vẫn cịn một số hạn chế.
Một là, Q trình đổi mới tư duy kinh tế, tư duy lý luận của Đảng trong
những năm qua vẫn còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi
mới cũng như chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng của thực tiễn, nhất là
việc cụ thể hóa thành cơ chế, chính sách, cộng với sự lúng túng, chậm trễ
trong lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN, đã cản trở sự đổi mới

trên thực tế. Một số vấn đề lý luận cơ bản về định hướng chủ nghĩa xã hội trên
các lĩnh vực ngoài kinh tế, chưa thật sự sáng rõ. Những khái niệm, nội hàm về
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN... còn chậm được luận giải dẫn đến
lúng túng trong áp dụng vào thực tiễn. Cần nghiên cứu làm rõ “mối quan hệ
giữa các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường với các nguyên tắc kinh tế
của CNXH trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” . Thậm chí trong
giới học thuật và trong xã hội, cũng khơng ít ý kiến cịn nghi ngờ sự “đồng
hành” giữa kinh tế thị trường và định hướng XHCN.


Hai là,các vần đề về quan hệ sở hữu, vai trò của các thành phần kinh
tế, đặc biệt là vấn đề sở hữu đất đai, cũng là vấn đề cần tiếp tục làm rõ. Trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phải chăng “sở hữu nhà nước” về
tư liệu sản xuất chủ yếu, đồng nhất với “chế độ công hữu”? Kinh tế nhà nước
thế nào là “chủ đạo” trong nền kinh tế thị trường? Làm thế nào để nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của các DNNN, làm thế nào để kinh tế tập thể
cùng với kinh tế nhà nước trở thành nền tảng vững chắc trong nền kinh tế?
Ba là, tăng trưởng kinh tế không ổn định, có xu hướng chững lại trong gần 10
năm trở lại đây; khối lượng tăng trưởng vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát
triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Việc huy
động các nguồn lực còn hạn chế, đặc biệt là huy động nguồn lực từ khu vực tư
nhân cho đầu tư phát triển và sản xuất kinh doanh.
Bốn là, việc phân bổ, sử dụng các nguồn lực còn kém hiệu quả, cơ cấu
đầu tư chưa hợp lý, đầu tư dàn trải, thậm chi gây ra sự lãng phí các nguồn lực,
chưa phát huy được tiềm năng, lợi thế của các ngành, vùng. Chất lượng
nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát
triển. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước cơng nghiệp theo hướng hiện đại
chưa được hình thành đầy đủ. chính sách tiền lương và phân phối trong xã hội
còn nhiều bất hợp lý.
Năm là, nhận thức về vai trò của hệ thống giá cả thị trường và cạnh

tranh tự do trong nền kinh tế thị trường khơng rõ ràng, thể hiện qua thái độ
đối với tình trạng độc quyền trong một số lĩnh vực của nhiều DNNN.
Sáu là, yêu cầu và nguyên tắc xây dựng đồng bộ hệ thống thị trường cũng như
các yếu tố thị trường chưa được luận giải hợp lý; có tình trạng chia cắt thị
trường giữa các bộ, ngành, giữa các địa phương; môi trường kinh tế (gồm cả
vĩ mô và vi mơ) chưa được hồn thiện và chưa thực sự hiệu quả, năng lực
quản lý nhà nước và cơ chế chính sách chưa theo kịp thực tiễn; nguồn nhân
lực chưa đáp ứng được với kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập.


Bảy là, chưa làm sáng tỏ vai trò của nhà nước trong nền kình tế thị trường do
chưa phân định rõ chức năng nhà nước - thị trường. Nhà nước vẫn ôm đồm,
bao biện nhiều chức năng mà thị trường đảm nhiệm hiệu quả hơn (phân phối
vốn; quản trị doanh nghiệp) trong khi chưa chú ý đúng mức đến những chức
năng mà nhà nước phải hoàn thành (xây dựng và thực thi khung khổ quản lý
nhà nước “khung khổ hành chính - pháp lý”, cung cấp hàng hố và dịch vụ
công, hỗ trợ phát triển,...). Thể chế kinh tế thị trường nói chung cịn thiếu
đồng bộ, nhất qn, điều này gây ra sự cản trở hoặc gia tăng sự méo mó trong
vận hành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Quản lý nhà nước đối
với doanh nghiệp nói chung cịn nhiều yếu kém, việc thực hiện chức năng chủ
sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn bất cập. Tư tưởng bảo bộ khu vực
DNNN vẫn còn nặng.


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU
CỰC CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
3.1. Những tác động tiêu cực trong phát triển nền kinh tế thị trường định

hướng XHCN ở nước ta.
Thực tế cuộc sống cho thấy, đang có xu hướng bằng lòng với những thành

tựu đạt được. Ngược lại với xu hướng trên, lại có biểu hiện nóng vội, quá chú trọng
đến tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà chưa quan tâm, chú trọng đúng mức đến
phát triển bền vững và chất lượng. Hơn nữa, có nơi cịn có biểu hiện đùn đẩy trách
nhiệm cho lãnh đạo cấp trên, xem đổi mới tư duy là trách nhiệm của những người
lãnh đạo, của các nhà quản lý. Đổi mới tư duy kinh tế của chúng ta chưa theo kịp
với những biến đổi nhanh chóng của thời đại, chưa giải quyết thỏa đáng những đòi
hỏi từ thực tiễn đặt ra. Về vấn đề lý luận, chúng ta ngày càng xác lập rõ hơn về mơ
hình kinh tế thời kỳ quá độ, tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa hoàn chỉnh được khung
lý luận chuẩn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khung lý luận
bảo đảm giải quyết thỏa đáng tính thị trường, tính xã hội chủ nghĩa và sự gắn kết
giữa cơ chế thị trường và xã hội chủ nghĩa. Việc xác định kết cấu các thành phần
kinh tế, về vị trí, vai trị của từng thành phần kinh tế, xác định động lực phát triển
kinh tế, về điểm đột phá để tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội cũng chưa
thật sự rõ ràng...
3.2. Các giải pháp về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

ở nước ta.
Để giải quyết tốt những vấn đề từ thực tiễn cuộc sống, cũng như lý luận kinh
tế thì trong thời gian tới cần phải tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế theo những quan
điểm sau:
Thứ nhất, phát triển đồng bộ các loại thị trường. Đại hội X của đảng đã xác
định: Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ
bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh. Để mơ hình nền kinh tế thị trường định



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×