Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Top 50 bai phan tich vinh khoa thi huong tran te xuong hay nhat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.59 KB, 28 trang )

Dàn ý Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương
I. Mở bài
- Năm Đinh Dậu 1897, tại trường thi Nam Định, vợ chồng Tồn quyền và Cơng sứ
Pháp tới dự lễ xướng danh. Cái bóng của bọn thực dân đã trùm lên cả nơi tuyển chọn
nhân tài cho nhà nước, điều này là nỗi nhục đối với người trí thức Việt Nam. Là nhà
nho có lịng tự trọng, ln tha thiết với truyền thống văn hiến của dân tộc, Trần Tế
Xương đau xót, phẫn uất viết bài thơ Vịnh khoa thi Hương.
- Bài thơ đã vẽ lên một cách sống động tình trạng suy đồi của Nho học thời ấy cùng
những cảnh chướng tai gai mắt lúc chế độ thực dân nửa phong kiến bước đầu được
xác lập ở nước ta qua cảnh trường thi, khoa thi.
A. CUỘC THI NĂM ĐINH DẬU
Hai câu đề mang tính chất tự sự, kể lại cuộc thi năm Đinh Dậu:
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Bề ngồi có vẻ thật bình thường, kì thi mở theo đúng thơng lệ đã có từ trước (ba năm
mở một khoa). Tuy nhiên, tính chất khơng bình thường bộc lộ rõ ngay từ cách thức
tổ chức: Trường Nam thi lẫn với trường Hà. Trước đây, trường Nam (Nam Định) và
trường Hà (Hà Nội) đều thi riêng. Đến khoa Đinh Dậu, trường Nam, trưởng Hà thi
chung. Từ “lẫn” - lẫn lộn tùng phèo - đã báo trước sự ô hợp, láo nháo trong thi cử.
B. BỌN SĨ TỬ, QUAN TRƯỜNG KHƠNG CỊN NHO PHONG, SĨ KHÍ
Hai câu thực và hai câu luận gợi tả cụ thể hơn những nét đặc biệt của khoa thi Đinh
Dậu.
Ngòi bút tác giả hướng đến hai đối tượng chủ yếu nhất trong các kì thi: sĩ tử (người
đi thi) và quan trường (quan coi việc thi).
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
- Hình ảnh sĩ tử chẳng hề mang dáng dấp thư sinh. Họ thật luộm thuộm có vẻ bệ rạc:
vai đeo lọ. Biện pháp đảo ngữ lôi thôi sĩ tử vừa nhấn mạnh sự luộm thuộm, không
gọn gàng, vừa gây ấn tượng khái quát về hình ảnh những sĩ tử khoa thi này. Họ
khơng có tư thế người đi thi, càng khơng có tư thế người làm chủ trong kì thi. Hình
ảnh sĩ tử trong thơ Tú Xương đã phản ánh sự sa sút về “nho phong sĩ khí”, do sự


nhốn nháo, ơ hợp của hồn cảnh xã hội đem lại.
- Hình ảnh quan trường xuất hiện với vẻ ra oai, nạt nộ. Cái oai của quan trường là
cái oai cố tạo, cái oai “vờ”. Từ ậm oẹ biểu đạt âm thanh của tiếng nói to nhưng bị
can trong cồ họng nên trầm và nghe khỏng rị, nói lên cái ọai không thực chất của
quan trường. Cùng với biện pháp đảo ngữ ậm oẹ giọng thét loa của quan trường, có
thể thấy được sự huyên náo, lộn xộn của cảnh trường thi này. Quan phải thét vì sĩ tử
chẳng ai nghe. Sĩ tử không ai nghe nên quan càng phải cố tỏ cái oai vờ nạt nộ.
C. BỘ MẶT CỦA BỌN THỰC DÂN


- Hình ảnh quan sứ và mụ đầm xuất hiện trong sự tiếp đón rất linh đình: Cờ cắm rợp
trời. Cách ăn mặc của quan bà có phần diêm dúa, lòe loẹt: Váy lê quét đất mụ đầm
ra. Biện pháp đảo ngữ: Cờ cắm rợp trời quan sứ đến - Váy lê quét đất mụ đầm ra cho
thấy cờ trước, người sau, thấy váy trước, người sau, càng lộ rõ sự phơ trương về hình
thức. Quan sứ, bà đầm xuất hiện tuy có sự tiếp đón linh đình nhưng cũng khơng khác
gì một màn trình diễn.
- Nghệ thuật đối của thơ Đường luật được vận dụng một cách triệt để, tạo nên sức
mạnh đả kích dữ dội, quyết liệt, sâu cay. Tú Xương đã đem “cờ” che đầu quan sứ
đối với “váy” bà đầm. Với cách đối trên, nhà thơ đã hạ nhục bọn thực dân xâm lược.
- Tất cả hình ảnh sĩ từ, quan trường, quan sứ và mụ đầm giữa trường thi đều nói lên
sự thiếu tơn nghiêm vả có phần lố bịch của khoa thi Đinh Dậu.
D. NỖI ĐAU XÓT, TỦI NHỤC CỦA TÁC GIẢ
- Hai câu kết có sự chuyển hướng đột ngột về giọng điệu, cảm xúc. Sáu câu trên có
giọng mỉa mai, châm biếm. Đến hai câu kết, giọng điệu chủ yếu là trữ tình:
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trơng cảnh nước nhà.
- Hai câu thơ là lời lay gọi, đánh thức lương tri, lương tâm. Câu hỏi phiếm chỉ Nhân
tài đất Bắc nào ai đó vừa để chỉ những sĩ tử trong khoa thi Đinh Dậu - nơi tụ hội của
tài trí đất Bắc - vừa mang ý nghĩa khái quát: tất cả những ai tự cho mình là “nhân tài
đất Bắc”. Tú Xương nhắc tất cả nhân tài đất Bắc đó, hãy ngoảnh cổ mà trơng cảnh

nước nhà. Trông cảnh nước nhà để nhận ra hiện trạng đất nước và nỗi nhục mất
nước. Từ nước nhà đặt ở cuối bài thơ mang dư âm tha thiết, có tác dụng thức tỉnh
tinh thần dân tộc.
III. Kết bài
Bằng nghệ thuật trào phúng thâm thúy, ngôn ngữ miêu tả sắc cạnh, phép đơi tài tình,
giọng điệu mỉa mai rồi trữ tình chua xót, bài thơ Vịnh khoa thi Hương đã tái hiện
một phần hiện thực nhốn nháo, ô hợp của xã hội thực dân nửa phong kiến buổi đầu
ở nước ta, đồng thời tác giả nói lên tâm sự của mình một cách chua chát trước cảnh
tình đất nước.
Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương - Mẫu 1
Có lẽ đây là bức tranh sinh động và chân thực nhất về tình hình xã hội thi cử của
Việt Nam buổi giao thời trong chế độ thực dân và phong kiến. Bức tranh miêu tả
quang cảnh kì thi Hương cuối mùa, lố lăng, trơ trẽn, bộc lộ nỗi nhục mất nước và
niềm đau xót của một kẻ sĩ đương thời.
Mở đầu bài thơ, tác giả viết:
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”.
Hai câu thơ giới thiệu khéo léo đặc điểm của kì thi Hương này. Đặc điểm thứ nhất
là cứ ba năm, "nhà nước" mở một kì thi như thế. Đó là quy định bình thường của lệ
thi cử. Đặc điểm thứ hai làm cho cái bình thường đó trở nên hơi bất thường: trường


Nam Định thi lẫn với trường Hà Nội. Đời nhà Nguyễn, tồn Bắc Kì có hai địa điểm
thi Hương, đó là Nam Định và Hà Nội. Năm Đinh Dậu 1897, vì sợ các cuộc khởi
nghĩa của nhân dân ta nên thực dân Pháp không cho tổ chức thi ở Hà Nội nữa, nên
chính quyền nhà Nguyễn cho dồn tất cả vùng Nam Định. Chữ "lẫn" diễn tả khéo cái
tính chất hỗn tạp, láo nháo, khơng cịn thể thống gì. Cho nên, về mặt nghệ thuật, hai
câu đề đã làm tốt nhiệm vụ giới thiệu của nó.
Tính chất tạp nhạp, lơi thôi của thi cử lập tức hiện ra trước mắt người đọc khi bước
sang hai câu thực:

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Những nhân vật trọng tâm của trường thi - sĩ tử và quan trường - được khắc hoạ rất
sắc nét, bộc lộ tính cách kỳ thi và tính chất xã hội. Sĩ tử là người đi thi quan trường
là những ông quan coi thi, chấm thi có trách nhiệm trong việc thi cử. Bằng nghệ
thuật đảo ngữ, tác giả đã vẽ nên trước mắt người đọc hình ảnh người thí sinh lơi thôi
với những chai lọ trên vai thật là xốc xếch. Chữ "lôi thôi" này đặt ở đầu câu, gây ấn
tượng mạnh, làm cho hình ảnh "vai đeo” chụp được tư thế và tư cách của những kẻ
một thời được mang danh là kẻ sĩ, tiêu biểu cho ý thức xã hội phong kiến.
"Lọ" ở đây người có người hiểu là lọ mực, có người hiểu là lọ đựng nước uống mà
thí sinh phải mang theo. Dù là hiểu theo nghĩa nào, hình ảnh "vai đeo lọ" vẫn nổi lên
thật mỉa mai cái vẻ xiêu vẹo, gãy đổ, lếch thếch, chẳng ra gì của những ơng cử tương
lai.
Đối với đám sĩ tử như thế, còn bọn quan trường cũng được Tú Xương tìm cho một
từ thật xứng đáng:
“Ậm oẹ quan trường miệng thét loa”
Bọn sĩ tử thì "lơi thơi"; lũ quan trường thì "ậm oẹ". Ậm oẹ là một từ rất sáng tạo của
Tú Xương. Lũ quan trường dùng cái loa để chỉ dẫn, điều khiển, nhắc nhở gọi tên các
thí sinh. Vì vùng đất đặt trường thi rất rộng, và số thí sinh hẳn là rất đơng, nên quan
trường phải thét vào loa thì người ta mới nghe được. Đây là một chi tiết rất chân
thực, gần như Tú Xương chỉ làm nhiệm vụ của một nhà nhiếp ảnh thu hình mà thơi.
Nhưng chính từ ngữ "ậm oẹ" hết sức độc đáo này đã khiến người thợ chụp hình bình
thường ấy thành một nghệ sĩ rất sắc sảo, rất thú vị.
Nó bộc lộ thực chất và chân tướng tay sai của đám quan trường này. Ậm oẹ là âm
thanh ú ớ, nói khơng thành tiếng rõ, nhưng cái giọng điệu lên gân la lối, vênh váo
của những kẻ dựa hơi chứ khơng có thực quyền.
Cho nên, nếu "thí sinh" mất đi cái vẻ nho nhã trí thức của thuở nào thì giám thị, giám
khảo cũng khơng cịn cái dáng nghiêm trang đáng tơn kính nữa.
Tất cả hiện lên song song trong hai câu bình đối làm nổi bật cảnh tượng hết sức khôi
hài của một trường thi. Và cảnh tượng ấy nói lên với ta bao nhiêu ý nghĩ về cái xã

hội hỗn tạp, nhố nhăng trong buổi đầu của chế độ thực dân và phong kiến Việt Nam,
mà triều đình nhà Nguyễn chỉ cịn là cái bóng mờ thảm hại đến buồn cười.


Tư tưởng đó bộc lộ rõ hơn nữa trong hai câu luận tiếp theo:
“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.”
Tác giả lại tiếp tục "tả thực" cảnh trường thi. Theo như sách sử cho biết, kì thi năm
Đinh Dậu 1897 có vợ chồng tên tồn quyền Paul Doumer và vợ chồng tơn cơng sứ
Nam Định Le Normand đến dự. Vì vậy, tả kì thi này mà thiếu cái chi tiết ấy thì là
thiếu tất cả. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà một người làm thơ sành sõi như Tú
Xương lại đem hình ảnh này đặt vào cặp luận của bài thơ. Nếu hai câu luận có vị trí
chủ chốt trong bài thơ, thì hình ảnh của "ơng Tây mụ đầm" ở đây là một phản ánh
đúng bản chất xã hội Việt Nam lúc bấy giờ: xã hội nô lệ, mà người nắm thực quyền
là thực dân. Hình ảnh "lọng cắm rợp trời” cho thấy cảnh tiếp đón dành cho Tây thật
là long trọng, thật là kính cẩn.
Hình ảnh quan Tây mụ đầm ngồi trên vị trí cao ngất đó cho thấy cảnh mất nước của
chúng ta.
Nhưng cái thú vị nhất trong hai câu thơ này khơng phải chỉ có bấy nhiêu chi tiết đó.
Cái thú vị nhất chính là Tú Xương đã biến nghệ thuật làm thơ Đường thành một vũ
khí sắc bén để bày tỏ thái độ của mình đối với cái mà mình khơng ưa thích.
Lợi dụng nghệ thuật đối, Tú Xương, đã đặt cái "váy" của bà đầm ngang với cái
"lọng" của ơng Tây. Nói cách khác, ghép hai hình ảnh đó với nhau, cho nó đối nhau,
Tú Xương đã chơi một vố rất đau và rất thẳng tay đối với lũ quan Tây. Và cũng trong
nghệ thuật đối, "quan sứ" đối với "mụ đầm" là một dụng ý của Tú Xương. Quan sứ
là chữ trang trọng để gọi ông Tây, nhưng "mụ đầm" là chữ "chơi xỏ", là chữ để chửi.
Mụ là tiếng gọi hạng đàn bà không ra gì. Gọi ơng quan Tây thì trang trọng, nhưng
gọi vợ ơng quan là con mụ chẳng ra gì, đó là một cách chửi của Tú Xương.
Người ta nói "văn học là suy tư chứ khơng phải là miêu tả". Chính ở trong trường
hợp này, qua miêu tả, nhà thơ Tú Xương đã thể hiện một suy tư sắc sảo, một thái độ

phê phán sắc bén. Cho nên, đậm đà chất hiện thực, nhưng thơ Tú Xương không phải
chỉ là hiện thực đơn điệu, lạnh lùng, ở trong hiện thực mà ông phơi bày có cơn giận
và niềm đau của tâm hồn, của tấm lịng con người.
Cho nên, khơng lạ gì, đứng trước cảnh oái oăm và nhục nhã ấy, nhà thơ đã buột
miệng thốt lên:
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trơng cảnh nước nhà.
Đất Bắc chỉ vùng Hà Nội, kinh đô của ngàn năm văn vật, nơi tụ hội của nhân tài đất
nước. Câu thơ là một tiếng kêu than đối với chính mình hay là một lời kêu gọi đối
với những ai còn nghĩ tới cái nhục mất nước, còn tự hào về truyền thống của dân
tộc? Âm điệu câu thơ có cái gì xót xa, cho thấy tâm trạng xốn xang của chính nhà
thơ. Nhân tài ở đây chỉ ai, nếu không phải là nhằm tới những người trí thức của thời
đại đã từng đi qua cái cửa của trường thi này?
Kết thúc bài thơ "Chạy Tây", Nguyễn Đình Chiểu cũng kêu gọi:


Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?
Đối với hai tâm trạng, ta thấy có chỗ khác nhau mặc dù mỗi người để bộc lộ nỗi đau
xót của mình trước cảnh nước mất nhà tan.
Ở Nguyễn Đình Chiểu, lời kêu gọi của ơng nhắm tới những người "dẹp loạn". Điều
đó đã bộc lộ ý thức đánh giặc, và quyết tâm "dẹp loạn" của nhà thơ ca ngợi và chủ
xướng quan niệm "Anh hùng thà thác chẳng đầu Tây".
Ở Trần Tế Xương, lời kêu gọi của ông không thể hiện một tư tưởng quyết liệt như
vậy. Nó chỉ gợi lên một nỗi nhục mất nước đang sờ sờ trước mắt mà có người cịn
khơng thấy, có kẻ còn làm ngơ, quay mặt đi như vậy, nên Tú Xương mới kêu gọi
"ngoảnh cổ mà trông". Ngoảnh cổ là một từ rất bạo của Tú Xương. Chữ "ngoảnh cổ"
của Tú Xương rất hình ảnh và biểu cảm, loại hình ảnh biếm họa của truyện cười.
Cho nên khơng phải đến hai câu kết, cái cười của Tú Xương chợt tắt để nhường chỗ
cho nỗi đau của ông. Mà ngay ở trong cái cười ấy, và vẫn cái cười sâu cay ấy, tiếng

lịng của ơng bật ra như một giọt nước mắt rơi xuống bất ngờ.
3. Vì vậy, khơng có gì là khó hiểu khi có người cho rằng "thơ Tú Xương” đi bằng
cả hai chân: Hiện thực và trữ tình, mà cái chân hiện thực ở người Tú Xương chỉ là
một cẳng chân trái (Nguyễn Tn).
Trên đơi chân đó, mà cái chân trữ tình là chủ yếu qua bài thơ "Vịnh khoa thi Hương",
Tú Xương đã vẽ lại cái cảnh trường thi nhỏ thôi mà bộc lộ được bản chất của cả xã
hội Việt Nam.
Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương - Mẫu 2
Tú Xương sinh năm 1870, đến năm 15 tuổi đã bắt đầu đi thi. Khoa Ất Dậu 1885,
khơng đỗ. Khoa Mậu Tí 1888, khoa Tân Mão 1891 đều hỏng. Khoa Giáp Ngọ 1894,
chỉ đỗ tú tài, năm đó 24 tuổi và từ đó đã chính thức thành tên là Tú Xương. "Thi
không ăn ớt thế mà cay". Tú Xương còn vác lều chõng thi tiếp 4 khoa nữa: Khoa
Đinh Dậu 1897, khoa Canh Tí 1900, Khoa Quý Mão (1903) và khoa Bính Ngọ 1906.
Nguyễn Tuân nói: "Thế rồi Tú Xương mất vào đầu năm sau (1907). Tức là Tú Xương
thi chết thôi, thi cho đến chết mới thôi".
"Một việc văn chương thôi cũng nhàm,
Trăm năm thân thế có ra gì?".
(Buồn thi hỏng)
Khoa thi Đinh Dậu đơi với Tú Xương có một ý nghĩa đặc biệt: Nhiều hăm hở và hi
vọng. Khoa thi trước (khoa Giáp Ngọ, 1894) ông đã đỗ tú tài nên khoa thi này ông
hi vọng sẽ đỗ cử nhân bước lên đài danh vọng: "Võng anh đi trước, võng nàng theo
sau".
Nhan đề bài thơ cịn có một cái tên khác: "Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu". Bài thơ
miêu tả lễ xướng danh khoa thi Hương tại trường Nam năm 1897, qua đó nói lên nỗi
nhục mất nước và niềm chua xót của kẻ sĩ đương thời.
Hai câu đề giới thiệu một nét mới của khoa thi Đinh Dậu:


"Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà".

Việc thi cử ngày xưa là của vua, của triều đình nhằm mục đích kén chọn kẻ sĩ tài
giỏi, chọn nhân tài ra làm quan giúp vua, giúp nước. Bây giờ nước ta đã bị thực dân
Pháp thống trị, việc thi cử vẫn còn thi chữ Hán theo lộ cũ "ba năm mở một khoa"
nhưng đã cuối mùa. Và kẻ chủ xướng ra các khoa thi ấy là nhà nước là chính phủ
bảo hộ. Câu thơ thứ hai nêu lên tính chất hỗn tạp của kì thi này: “Trường Nam thi
lẫn với trường Hà". Đời Nguyễn, ở Bắc Kì có hai trường thi Hương là trường thi Hà
Nội và trường thi Nam Định. Tây thực dân chiếm trường thi Hà Nội, nên mới có
chuyện sĩ tử Hà Nội phải thi lẫn với trường Hà như thế. Theo Nguyễn Tuân cho biết
khoa thi 1894, trường thi Nam Định có mười một ngàn sĩ tử, đỗ 60 cử nhân và 200
tú tài. Tú Xương đỗ tú tài khoa thi đó. Chắc chắn khoa thi Hương năm Đinh Dậu số
người dự thi cịn đơng hơn nhiều!
Hai câu thực miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh bằng hai nét vẽ rất đặc sắc.
Vì là người trong cuộc nên Tú Xương mới làm nổi bật cái thần của quang cảnh
trường thi như vậy. Dáng hình sĩ tử thì “vai đeo lọ" trơng thật nhếch nhác, "lôi thôi".
Sĩ tử là người đi thi, là những trí thức trong xã hội phong kiến từng theo nghiệp bút
nghiên. Trong đám sĩ tử "lôi thôi" sẽ xuất hiện những ông cử, ông tiến sĩ, ông tú nay
mai. Câu thơ "Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ" là một cảnh hài hước, chua chát. Đảo ngữ
hai chữ "lôi thôi" lên đầu câu thơ gây ấn tượng nhếch nhác đáng buồn "vai đeo lọ".
Lọ mực hay lọ đựng nước uống trong ngày thi? Đạo học (chữ Hán) đã cuối mùa, "Sĩ
khí rụt rè gà phải cáo - Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi" nên trường thi mới có hình
ảnh mỉa mai “ Lơi thơi sĩ tử vai đeo lọ " ấy .
Nét vẽ thứ hai cũng thật tài tình:
"Ậm oẹ quan trường miệng thét loa".
Ậm oẹ nghĩa là ra bộ nạt nộ, hăm dọa. Cấu trúc câu thơ đảo ngữ đưa hai tiếng tượng
thanh "ậm oẹ" lên đầu câu thơ để làm nổi bật hình ảnh các quan trường "miệng thét
loa". Trường thi khơng cịn là chốn tôn nghiêm nền nếp nữa, quá lộn xộn, quá ồn ào,
khác nào cảnh họp chợ, nên quan trường mới "ậm oẹ" và "thét loa" như thế. Tú
Xương đối rất chỉnh làm hiện lên hai hình ảnh trung tâm của trường thi. Sĩ tử thì lơi
thơi nhếch nhác, mất đi cái vẻ nho nhã thư sinh. Quan trường, giám thị, giám khảo
cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Bức tranh nhị bình

biếm họa độc đáo này gợi lại cảnh hồng hơn của chế độ phong kiến ở nước ta:
"Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa".
Hai câu luận tô đậm bức tranh "Lễ xướnq danh khoa Đinh Dậu" bằng hai bức biếm
họa về ông Tây và mụ đầm. Tài liệu cũ cho biết, năm đó tồn quyền Paul Doumer
và vợ chồng tên công sứ Nam Định Le Normand đã đến dự. Các ông cử lẫn khoa,
các ông tú mền, tu kép... phải cúi rạp mình xuống mà lạy ơng Tây, lay mụ đầm “váy


lê quét đất", “ ghế trên, ngoi đít vịt". Cái nhục của hàng vạn sĩ tử Bắc Hà không thể
nào kể hết:
"Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra".
Tây thực dân đang đè đầu cưỡi cổ dân ta. Hình ảnh "Lọng cắm rợp trời" gợi tả cảnh
đón tiếp dành cho "quan sứ", lũ ăn cướp đất nước ta, một nghi lễ cực kì long trọng.
Đó là nỗi đau mất nước. Từ xưa tới năm ấy (1897) chốn trường thi là nơi tôn nghiêm,
lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, đàn bà đâu được bén mảng đến nơi kén
chọn nhân tài. Thế mà bây giờ, không chỉ "mụ đầm ra" mụ đầm đến với "váy lẽ quét
đất" mà còn bày ra giữa thanh thiên bạch nhật một nghịch cảnh vô cùng nhục nhã:
"Trên ghế, bà đầm ngoi đít vịt
Dưới sân, ơng cử ngỏng đầu rồng".
Nguyễn Tuân đã nói về nỗi nhục đó như sau: "Không đỗ cũng cực, mà đỗ để phải
phủ phục xuống mà lạy Tây, lạy cả đầm, thì quả là nhục".
Vịnh khoa thi Hương năm Đinh Dậu nếu thiếu đi hai hình ảnh ơng Tây mụ đầm, bức
tranh biếm họa coi như chẳng cịn gì. Nghệ thuật đối của Tú Xương đã làm tăng sức
hấp dẫn cho phong cách hiện thực của Tú Xương. Và nhờ có "lọng" đối với "váy",
"quan" đối với "mụ" mà giọng cười, lối cười, hương cười, sắc cười (chữ của Nguyễn
Tuân) của câu thơ Tú Xương kế thừa cái cười dân tộc trong ca dao, trong tuồng,
chèo cổ. Có hiểu được rằng lọng là một thứ nghi trượng (cờ, biển, tán, tàn, võng,
lọng,...) cao sang được dùng trong nghi lễ đón rước cúng tế lại được đem đối với váy

(đồ dơ), mới thấy nghệ thuật trào phúng độc đáo trong phép đối của Tú Xương. Nỗi
đau, nỗi nhục mất nước được cực tả một cách cay đắng, lạnh lùng qua cặp câu luận
này.
Nguồn mạch trữ tình như được chiết xuất ra từ những điều mắt thấy tai nghe, từ
những nhố nhăng, lôi thôi, lộn xộn trong ngoài, trên dưới nơi trường Nam năm Đinh
Dậu:
"Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trơng cảnh nước nhà”
Câu thơ như một lời than; trong lời kêu gọi hàm chứa bao nỗi xót xa, tủi nhục và cay
đắng. Nhân tài đất Bắc là những ông nghè, ông cống, những con người có lịng tự
tơn dân tộc,... ở vùng Sơn Nam, ở Kinh kì Thăng Long ngàn năm văn hiến, nơi hội
tụ nhân tài, tinh hoa của đất nước. Ba tiếng "nào ai đó" phiếm chỉ càng làm cho tiếng
than, lời kêu gọi trở nên thấm thía, lay gọi thức tỉnh. Chữ "ngoảnh cổ" gợi lả một
thái độ, một tâm thế không thể cam tâm sống nhục mãi trong cảnh đời nô lệ. Phải
biết "ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà". "Cảnh nước nhà" là cái cảnh nhục nhã:
"Vua là tượng gỗ, dân là thân trâu...
(...) Kẻ chức bồi người tước cu li
Thơng ngơn, kí lục chi chi
Mãn đời, lính tập, trọn vị quan sang”


(Á tế Á ca)
Tú Xương là một trong hàng vạn sĩ tử dự khoa thi Hương năm Đinh Dậu. Ông là
người tham dự, là người chứng kiến,... Từ nỗi đau của người hỏng thi mà ông ngẫm
về cái nhục của sĩ tử, của trí thức, của nhân tài đất Bắc. Nỗi đau nhục về mất nước
như ngưng đọng uất kết lại thành tiếng thở dài, lời than, có cả những dòng lệ...
Bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" vừa tả cảnh "nhập trường", vừa tả cảnh “lễ xướng
danh", qua đó nói lên tâm trạng đau đớn, chua xót của nhà thơ. Một hiện thực đau
buồn, nhốn nháo, nhố nhăng. Và trữ tình thấm thía bao cay đắng tủi nhục. Chất thơ,
hồn thơ, phong cách thơ Tú Xương là như thế!

Bình về bài thơ này, Nguyễn Tuân viết: "... thơ nói về trường thi của Tú Xương
giống như những lời thanh nghị của một lớp sĩ phu thời đó. Khơng đánh được ai
bằng khí giới, thì ít nhất cũng phải lấy bút ra mà vẩy cái lực sĩ khí vào những nghè,
những cử bịt mũi xu thời! vẩy vào, và than một đơi lời”.
Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương - Mẫu 3
Trần Tế Xương (1870 - 1907) thường được gọi là Tú Xương vì đi thi tới Tám khoa
chưa khỏi phạm trường quy nên chi đỗ Tú tài. Tuy nhiên, tài năng thơ ca, đặc biệt là
thơ trào phúng đã tơn vinh tên tuổi của ơng lên vị trí hàng đầu trong giai đoạn văn
học cuối thế ki XIX, đầu thế ki XX.
Vịnh khoa thi Hương là bài thơ thể hiện thái độ mỉa mai căm uất của Tú Xương đối
với chế độ thi cử đương thời và đối với con đường thi cử gian nan, lận đận của riêng
ông. Có người cho rằng Vịnh khoa thi Hương là tiếng khóc nhưng lại có người cho
đó là tiếng cười châm biếm sâu cay của Trần Tế Xương trước thời cuộc lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, cả hai nhận xét trên đều đúng.
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Long cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trơng cảnh nước nhà.
Bài thơ là bức biếm họa toàn cảnh khoa thi Hương năm Đinh Dậu (1897) Vì tình
hình chính trị bất ổn nên sĩ tử ở Hà Nội phải xuống thi chung với sĩ tử của trường thi
Nam Định. Chính vì thế mà quang cảnh lộn xộn, trái hẳn với khơng khí trang nghiêm
vốn có chốn cửa Khổng sân Trình.
Cái lệ ba năm mở một khoa là quy định của triều đình phong kiến nhà Nguyễn đặt
ra đã từ lâu. Nhưng từ Nhà nước mở đầu bài thơ lại ám chỉ chính quyền bảo hộ của
thực dân Pháp lúc bấy giờ với ý châm biếm, vì triều đình nhà Nguyễn chi cịn là bù
nhìn mà thơi.

Hai câu đề:


Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Câu phá đề đơn thuần mang tính chất thơng báo, nhưng đốn câu thừa đề thì ý châm
biếm của tác giả đã bộc lộ qua từ lẫn. Mọi chuyện bát nháo, nực cười nơi trường thi
cũng khởi nguồn từ sự chung đụng lẫn lộn này.
Hai câu thực:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Với kết cấu đảo ngược đưa tính từ lên vị trí đầu câu, Tú xương đã đặc tả cảnh tượng
đáng buồn của một trường thi ở giai đoạn chữ Hán đang bị chữ quốc ngữ đẩy lùi.
Ngày xưa, sĩ tử đi thi phải mang theo lều chõng, cơm nước, tráp để đựng bút, giấy,
nghiên mực… và một ống quyển để đựng quyển thi. Lọ ở đây là lọ nước uống. Mang
vác lỉnh kỉnh như thế nên trông họ lôi thôi, lại chen lấn, xô đẩy nên càng giống một
đám đông hỗn loạn ngồi đường ngồi chợ chứ khơng phải ở chốn trường thi vốn dĩ
uy nghiêm.
Sĩ tử thảm hại đã đành, cịn quan trường cũng chẳng hơn gì. Tiếng loa gọi thí sinh
lần lượt nhập trường thi lẽ ra phải rõ ràng, dõng dạc nhưng vì quá ồn ào, lộn xộn
nên quan xướng danh phải cố thét lên cho thật to, riết rồi thành ậm oẹ, chẳng ra
đâu vào đâu cả nên hoá buồn cười.
Hai câu luận:
Long cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Bằng bút pháp trào lộng sắc sảo, Tú Xương tiếp tục tả thực cái “chợ phiên” chữ
nghĩa ấy với những chi tiết vô cùng độc đáo. Biết bao là trớ trêu, ngậm ngùi ẩn chứa
trong khung cảnh ấy. Để chứng tỏ sự quan tâm của “mẫu quốc”, tên tồn quyền Pơn
Đu-me (Paul Doumer) cùng vợ đã đến dự khai mạc trường thi cho thêm phần long
trọng. Con mắt tinh đời và tâm trạng phẫn uất của Tú Xương đã giúp mọi người nhận

ra nỗi nhục mất nước qua hai hình ảnh tương phản trong hai câu thơ đối nhau chan
chát là: Cờ của triều đình phong kiến bán nước đối với Váy của vợ tên quan thực
dần cướp nước. Ngậm ngùi, cay đắng biết bao nhiêu! Dâu khơng có giọt nước mắt
nào nhưng người đọc thấy rõ là nhà thơ đang cắn răng cố nuốt tiếng khóc vào trong,
ơng khóc vì quốc thể bị xúc phạm, khóc vì nỗi nhục nơ lệ của giới trí thức nói riêng
và cả dân tộc nói chung.
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trơng cảnh nước nhà.
Nỗi ngậm ngùi bị dồn nén cao độ đã bật thốt thành lời cảm thán làm rung động lí trí
và tình cảm người trong cuộc cũng như người ngoài cuộc.
Nhân tài đất Bắc là cách gọi mỉa mai của Tú xương đối với đám Lôi thôi sĩ tử vai
đeo lọ đang chen chúc chốn trường thi nhốn nháo đúng theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa
bóng. Trong đám đơng ấy, hỏi có ai nghĩ tới cảnh nước nhà đáng đau, đáng hận; hay


chỉ chúi mũi chúi tai tranh nhau cố kiếm miếng đinh chung mà quay lưng ngoảnh
mặt làm ngơ?
Nhiều người có cùng một nhận xét là trong thơ Trần Tế xương, sự kết hợp hài hồ,
chặt chẽ giữa tính hiện thực và tính trữ tình được thể hiện khá rõ. Có thể coi bài Vịnh
khoa thi Hương này là một ví dụ tiêu biểu. Đằng sau tiếng cười châm biếm mang ý
nghĩa xã hội sâu xa là tiếng khóc ngậm ngùi, nuối tiếc cho nền Hán học suy tàn và
tất cả những gì từng được coi là tinh hoa của nó đã bị đẩy lùi trước làn sóng văn hố
phương Tây đang tràn vào nước ta theo bước chân của đạo quân viễn chinh xâm
lược Pháp.
Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương - Mẫu 4
Tú Xương là một nhà thơ nổi tiếng với những bài thơ châm biếm, hài hước trên diễn
đàn thơ ca Việt Nam. Trong sự nghiệp đồ sộ của mình, ơng có tới mười ba bài vừa
thơ vừa phú nói thuộc đề tài "thi cử" với thái độ mỉa mai, phẫn uất với chế độ thi cử
đương thời. "Vịnh khoa thi Hương" là bài thơ trong số mười ba bài thơ đó. Qua bài
thơ, Tú Xương muốn vẽ nên cái hiện thực nhốn nháo, ô hợp của xã hội nửa thực dân

nửa phong kiến qua hình ảnh một kì thi Hương quan trọng cũng đồng thời mượn đó
nói lên tâm sự của mình trước tình cảnh đất nước.
"Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra
Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trơng cảnh nước nhà".
"Vịnh khoa thi Hương" là một bức tranh chân thực sống động về chế độ thi cử của
Việt Nam những năm cuối triều Nguyễn, trước con mắt giám sát của bọn thực dân
Pháp. Đó là một bức tranh một kì thi long trọng mà lại được tổ chức thật là lố lăng,
nhốn nháo.
Mở đầu bài thơ, Tú Xương đã khéo léo dẫn vào trong thơ của mình hình ảnh của
một kì thi hương với những đặc điểm giống và khác so với trước kia. Thứ nhất, kì
thi hương được "nhà nước" mở ba năm một lần như thường lệ.
"Nhà nước ba năm mở một khoa"
Đây là đặc điểm quy định bình thường của lệ thi cử nước nhà xưa nay. Thế nhưng,
đặc điểm thứ hai mới làm cho người ta kinh ngạc.
"Trường Nam thi lẫn với trường Hà"
Vốn là hai nơi khác nhau, hai trường thi khác nhau, vậy mà năm nay thí sinh của hai
trường này lại ngồi trộn "lẫn" với nhau. Lý do là vì khi thực dân Pháp đánh chiếm
Hà Nội, trường thi ở Hà Nội bị bãi bỏ, "nhà nước" dồn các sĩ tử ở Hà Nội phải xuống
trường Nam Định để thi. Đây là điểm bất thường mà năm nay mới. Hơn thế, Tú


Xương cũng dùng ở đây chữ "lẫn" để diễn tả khung cảnh nhốn nháo, ô hợp của
trường thi, đối lập với sự trang nghiêm cần có trong một kì thi hương quan trọng của
triều đình.

Hai câu đề đã làm tốt vai trị mở đầu, giới thiệu của nó, để đến hai câu tiếp theo,
người đọc được chứng kiến, kiểm nghiệm ngay cái sự nhốn nháo đã nói ở trên:
Lơi thơi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
Một khung cảnh thật là tạp nham, thật là nhốn nháo. Nào là sĩ tử đi thi, nào là quan
lại coi thi cứ nhốn nháo hết cả lên, chẳng có quy cách của một kì thi hương quan
trọng của triều đình. Hai nhân vật chính trong kì thi được bộc lộ, khắc họa thật rõ
nét. Đồng thời cũng cho người đọc chúng ta thấy được cái tính cách, quy cách của
trường thi năm nay thật khác biệt so với thời xưa. "Sĩ tử" là những người đi thi, đáng
ra phải trông thật nho nhã, trang trọng, vậy mà ở đây tồn thấy là sự luộm thuộm, lơi
thơi với bao nhiêu chai với lọ, thật nhếch nhác quá đỗi. Tú Xương đã cố ý đảo chữ
"lôi thôi" lên đầu câu để nhấn mạnh cái sự nhếch nhác của các sĩ tử trong mùa thi
hương lần này. Hình ảnh cái "lọ" - vốn được cho là đựng mực, đựng nước uống của
sĩ tử, nhưng lại "đeo" trên vai. Nghe sao có vẻ mỉa mai đến thế. Cái hình ảnh ấy như
đang gợi lên sự xiêu vẹo, sự đổ gãy, lếch thếch của những kẻ sau này vốn sẽ trở
thành những trụ cột tương lai của đất nước. Và hơn thế, ông cũng muốn nhấn rằng
những kẻ "vai đeo lọ" kia là những kẻ sĩ, những kẻ có tri thức trong xã hội mà lại
khơng thể giữ cho mình cái phong thái mang danh kẻ sĩ ấy.
Không chỉ vậy, Tú Xương cũng nhấn mạnh thật kĩ hình ảnh của lũ "quan trường" quan coi thi ở trường thi. Ơng cũng đã tìm ra cho chúng một từ ngữ thật xứng đáng
"ậm ọe".
"Ậm ọe quan trường miệng thét loa"
Nếu như lũ sĩ tử "lôi thơi", nhếch nhác bao nhiêu thì lũ quan trường lại "ậm ọe", lố
lăng bấy nhiêu. Quả đúng là một từ ngữ sáng tạo xứng danh cái tên Tú Xương. Cái
âm thanh "ậm ọe" ấy chỉ là những thanh âm ú ớ, không rõ tiếng rõ lời, nhưng lại
được gân lên bằng sự la lối của đám quan lại trường thi. Nó cũng miêu tả cái sự
phách lối, giáo điều, ra vẻ của đám quan trường ấy. Tú Xương đã đóng vai một nhà
nhiếp ảnh để thu lại những hình ảnh chân thực nhất ở trường thi năm ấy. Bởi thi
hương xưa có số lượng sĩ tử rất đơng, diễn ra trên bãi đất trống, vậy nên phải dùng
loa thì mới có thể nghe rõ được việc gọi tên. Thế nhưng, cái sự trang trọng trong
việc gọi tên vào thi của kì thi hương ấy đã bị những kẻ làm quan kia lấn át, làm lu

mờ bởi sự phách lối, vênh váo của những kẻ dựa hơi mà chẳng có chút thực quyền
nào. Cho nên, kì thi hương ấy, khơng chỉ đám sĩ tử mất đi cái phong thái của một kẻ
sĩ học chữ Nho mà đám quan lại cũng mất đi sự tơn kính, trang nghiêm của một kì
thi lớn của đất nước.
Hai câu thơ đối nhau song song, làm nổi bật lên cái khung cảnh của trường thi.
Nhưng trong đó, người ta thấy khơng chỉ là bóng dáng của trường thi với kì thi hương


mà còn thấy khung cảnh hỗn tạp, nhốn nháo của đất nước khi rơi vào tình nửa thực
dân nửa phong kiến. Và triều Nguyễn kia chẳng khác gì bức bình phong, một con
rối bị điều khiển bởi chính quyền Pháp.
Chúng ta cũng thấy được ở trong câu thơ, cái sự mỉa mai đến tột độ của tác giả về
triều đình nhà Nguyễn nhu nhược, đồng thời, hai câu thơ tiếp, ông bộc lộ một sự mỉa
mai, khinh ghét đối với chính quyền thực dân:
"Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra"
Vẫn trung thành với lối tả thực, Tú Xương tiếp tục vẽ lại bức tranh trường thi khi
mà nó được viếng thăm bởi tên Tồn quyền người Pháp cùng vợ của hắn. Không
phải ngẫu nhiên mà Tú Xương lại đặt hình ảnh này vào trong hai câu thơ chủ chốt
của bài thơ. Bởi hình ảnh của một "ông Tây" với "bà đầm" phản ánh thật đúng với
cái tình cảnh của nước ta thời bấy giờ. Đó là xã hội mà người dân trở thành nơ lệ,
triều đình là một bức bình phong cịn thực quyền ở trong tay người Pháp. Một kẻ
cướp nước mà lại được đến tham quan một trường thi quan trọng, lại được đón tiếp
bằng "lọng" bằng "cờ" thì thật là sự long trọng, kính cẩn đầy mỉa mai.
Khơng chỉ vậy, quan Tây bà đầm còn được miêu tả là được ngồi lên vị trí cao nhất
của trường thi. Tú Xương đang ám chỉ điều gì? Phải chăng là cảnh nước mất nhà tan
đã diễn ra ngay trước mắt?
Thế nhưng, phải thật tinh tế mới nhận ra, Tú Xương đã dùng thơ Đường làm vũ khí
để mỉa mai thật sắc bén, để bày tỏ thái độ của mình đối với lũ cướp nước kia.
Sử dụng nghệ thuật thơ đối xứng, Tú Xương đặt cái "váy" của bà đầm và cái "lọng"

của ông quan Tây được đặt ngang bằng, ghép hai hình ảnh đó lại, người ta thấy đó
là mỉa mai đầy châm biếm, câu thơ như "chửi thẳng" vào mặt viên quan sứ người
Tây kia. Không chỉ thế, tác giả đã dùng từ "quan sứ" để nói về ơng quan tây nhưng
lại dùng từ "mụ đầm" khi nói về vợ của ơng ta, đây chẳng phải là một sự khinh bỉ,
một sự "chơi xỏ" mà Tú Xương dành cho viên Toàn quyền Pháp kia hay sao? Bởi ai
cũng biết, từ "mụ" để chỉ những hạng đàn bà khơng ra gì, gọi vợ của "quan sứ" là
"mụ" thì khác gì nói ơng "quan sứ" kia chỉ là "thằng" mà thôi sao? Quả thật, cái chửi
của Tú Xương sâu cay và thâm thúy đến nhường nào!
Thế mới thấy, thơ Tú Xương không chỉ miêu tả cái hiện thực lạnh lùng, tàn khốc mà
còn lồng cả vào đó tiếng cười sâu cay, đắng ngọt, phơi bày trong đó cái tâm của một
kẻ sĩ yêu nước, đau lịng vì nước mất nhà tan nhưng vì lực yếu sức mỏng mà đành
dùng lời văn làm vũ khí cho mình.
Để đến cuối cùng, cái cười kia chẳng thể át nổi niềm đau xót trong tâm của ơng, nó
bật ra thành tiếng:
"Nhân tài đất Bắc nào ai đó
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà".
"Đất Bắc" vốn là từ chỉ Hà Nội, là nơi hội tụ của ngàn năm kinh đô, là nơi của bậc
đế vương ngự trị, nơi của anh tài khắp đất nước hội tụ về đây. Lời thơ như một tiếng


than đau xót vơ vàn của Tú Xương khi mắt phải nhìn thấy đất nước đang dần rơi vào
tay giặc. Ơng đang nói với chính mình hay là đang kêu gọi ai, ai còn nghĩ tới nỗi
nhục mất nước, ai còn tự hào với dân tộc bốn ngàn năm lịch sử này chăng? Đọc câu
thơ mà ta thấy sự xót xa, đau xót của tác giả trước tình cảnh của đất nước. "Nhân
tài" ở đây chỉ ai, nó chỉ là một từ phiếm chỉ, là những kẻ đã từng một lần mơ ước
được bước qua cánh cửa thi hương này, hay là những kẻ đã từng đặt chân đến đây
hãy nhìn xem "cảnh nước nhà"?
Ở đây, Tú Xương khơng quyết liệt thể hiện tư tưởng kêu gọi mọi người chung tay
dẹp loạn như trong thơ Nguyễn Đình Chiểu:
"Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng

Nỡ để dân đen mắc nạn này?"
Ở thơ Tú Xương, người ta chỉ thấy gợi lên sự nhục nhã khi mất nước, không mạnh
bạo, quyết liệt như thơ Nguyễn Đình Chiểu. Ổng chỉ chỉ ra sự làm ngơ của những
kẻ sĩ yêu nước đã quay đầu, làm ngơ, không quan tâm đến, mắt thấy tai nghe để lũ
giặc cướp nước và bè lũ tay sai của chúng làm tan nát đất nước của mình. Ơng kêu
gọi họ hãy "ngoảnh cổ mà trơng" - "ngoảnh cổ" ngối lại nhìn, để thấy, để chứng
kiến đất nước đang suy tàn trước lũ giặc. Ở hai câu kết này, cái cười châm biếm của
Tú Xương chẳng còn nữa mà nhường chỗ cho nỗi đau xót vơ vàn khi đất nước lâm
nạn. Dường như ta còn thấy được cả những giọt nước mắt của ông cả trong tiếng
cười sâu cay kia.
Bài thơ "Vịnh khoa thi Hương" của Tú Xương viết bằng thể thơ Đường thất ngôn
bát cú. Với tài hoa, cùng nghệ thuật châm biếm sâu cay, ông đã dựng lên bức tranh
về trường thi Hương những năm cuối triều Nguyễn với sự nhốn nháo, lố lăng của lũ
quan trường, sự nhếch nhác của đám sĩ tử. Đồng thời, qua đó, ơng cũng muốn vẽ lên
cái hiện thực về xã hội phong kiến nửa thực dân bằng cái nhìn đầy mỉa mai của mình
và gửi vào trong đó, tâm tư của một kẻ sĩ yêu nước trước tình cảnh của đất nước.
Vịnh khoa thi Hương là một trong những bài thơ đặc sắc nhất của Tú Xương vừa
hiện thực lại vừa trữ tình. Qua đó khẳng định được tài năng của ơng, khi chỉ cần vẽ
lên một khung cảnh một kì thi Hương mà đã nói lên được cả cái bản chất của xã hội
lúc bấy giờ.
Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương - Mẫu 5
Vịnh Khoa thi Hương thể hiện tấm lịng tha thiết tình đời của nhà thơ trào phúng Tú
Xương.
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Hai câu 1 và 2 tả không khí, bối cảnh chung của kì thi hương năm Đinh Dậu 1897.
Người ta vẫn duy trì lệ ba năm mở một khoa thi nhưng chủ nhân các kì thi bây giờ
đã thuộc về nhà nước, tức là thực dân Pháp xâm lược. Nhức nhối tâm trạng thì trong
cảnh mất nước, nô lệ. Cảnh thi nhốn nháo: Trường Hà Nội thi chung với trường Nam
Định. Khơng có gì hứa hẹn sự trang nghiêm cần có của những kì thi như thế này.



Hai câu thể hiên thái độ mỉa mai, châm biếm kín đáo và cùng bộc lộ nỗi buồn sâu
lắng của tác giả trước cảnh đất nước bị mất quyền độc lập, tự chủ. Chuyện thi cử
thực ra là một phần của chuyện đất nước.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa
Hai câu 3, 4 tả thực sĩ tử và quan trường Việt Nam. Cái nhìn thi cử được lọc qua tâm
trạng chán nản, đau buồn của tác giả đã chuyển thành những hình ảnh hài hước mà
chua chát. Việc đảo ngữ có hiệu quả đánh kể: Nhà thơ chủ yếu không quan sát sĩ tử
mà đập vào mắt là dáng vẻ lôi thôi của họ. Sự sa sút Nho phong sĩ khí là ấn tượng
nổi bật. Nhà thơ khơng nghe nội dung lời nói của quan trường mà nghe thấy âm
thanh méo mó, kì dị của tiếng loa phát ra - Ậm oẹ quan trường miệng thét loa. Thét
làm ra vẻ hách dịch, ra vẻ ta đây đang là chú nhưng vị trí thực của quan trường cũng
như quan lại nói chung lúc đó ra sao thì hai câu thơ 5, 6 sẽ nói rõ.
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra
Hai câu thơ 5 và 6 tả đại diện của thực dân xâm lược. Cờ cầm rợp trời trong truyền
thống là đón các quan lại Việt Nam thường đến thăm các trường thi, nếu là kì thi
Tiến sĩ thì đích thân nhà vua đến ra đề và chấm. Hóa ra lễ nghi ấy là đón tên quan
Tây (quan sứ tên đầy đủ là quan công sứ).
Đối giữa câu trên với câu dưới cũng tạo nên sắc thái trào lộng, mỉa mai, đả kích
mạnh mẽ. Cờ đối với váy, rợp trời đối với quét đất. Cái trang trọng của tên quan sứ
bị hạ bệ ngay bằng chiếc váy của mụ đầm. Nhưng hai câu thơ cũng hàm chứa kín
đáo tâm trạng đau đớn, nhục nhã, uất ức của tác giả, hắn cùng là một sĩ từ trong đó.
Cịn chi nói đến chữ nghĩa thánh hiên, luân thường đạo lí cao siêu khi mà kẻ làm chủ
kì thi là những kẻ ngoại bang xa lạ.
Câu cuối cùng “Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”, là lời kêu gọi, nhắn nhủ của
một nhà nho hướng đến những sĩ tử, những tri thức đất Bắc và tất cả người Việt Nam
một lần nữa nhìn lại thực trạng đất nước bị mất độc lập, cảm nhận thấm thía hết nỗi

đau, nỗi nhục mất nước, từ đó có những suy nghĩ và hành động cần thiết. Lời thơ
chất, chứa tâm sự dưới hình thức trào phúng nhưng mang nặng nỗi lịng ưu tư của
người trí thức, một thống buồn và uất ức.
Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương - Mẫu 6
Tú Xương là một nhà thơ được sinh ra và lớn lên trong giai đoạn có thể nói là bi
thương nhất của đất nước – nước ta bị Pháp tấn công và thống trị. Trước cảnh đất
nước bị tù đày ấy, thơ của ông là một bức tranh hiện thực vừa bày tỏ sự đau xót của
một người con nước Nam, đồng thời cũng tố cáo tội ác đen tối của bọn thực dân. Và
“Vịnh khoa thi hương” cũng là một tác phẩm như thế.
Mở đầu bài thơ là hai câu thơ giới thiệu kì thi Hương năm ấy:
“Nhà nước ba năm mở một khoa
Trường Nam thi lẫn với trường Hà”


Kì thi này được tổ chức một cách bình thường, cứ ba năm một lần. Nhưng điều bất
thường của nó là, các thí sinh của trường Hà Nội cũng bị dồn về trường Nam Định
để thi. Chỉ một từ “lẫn”, tác giả đã khéo léo nói lên tình trạng hồn loạn, bát nháo, tạp
nham của khoa thi Hương năm ấy.
Và đúng là, việc thi cử ấy tạp nham thật:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”
Từ “lôi thôi” được đặt lên đầu câu, nhấn mạnh vẻ lếch thếch, không gọn gàng của
các vị “sĩ tử”. Bình thường, những người đi thi đều là những người đọc sách, những
người luôn gọn gàng, chỉn chu. Vậy mà nay, thí sinh đi thi với vẻ xốc xếch, với lọ
chai lỉnh kỉnh, khơng cịn cái vẻ tao nhã của người đọc sách. Chỉ một đối tượng,
nhưng cũng đủ để chỉ sự xuống cấp của tồn xã hội. Thí sinh khơng cịn vẻ nho nhã
trí thức thì những vị giám khảo cũng khơng cịn vẻ nghiêm túc, đáng kính như trước
nữa, chỉ cịn cái dáng “thét loa” như ngồi chợ, mà nói thì cũng “ậm ọe” chẳng thành
câu. Một lần nữa, tính từ miêu tả “ậm ọe” lại được cho lên đầu câu giống như từ “lôi
thôi” ở trên để làm nổi bật lên sự bất tài của đám quan trông trường thi. Chúng chỉ

là những kẻ vênh váo, dựa hơi, chẳng có tài năng cũng chẳng có thực quyền. Trước
mắt người đọc hiện lên hình ảnh của một trường thi nhốn nháo, quan trơng thi thì
ln miệng hống hách, qt tháo, sĩ tử đi thi thì lơi thơi, lếch thếch, xiêu vẹo lều
chõng lọ giấy đi thi. Thật là đáng buồn và đáng cười thay!
Trong cái nhốn nháo, tạp nham ấy, hai nhân vật “quan trọng” xuất hiện một cách
hoành tráng:
“Lọng cắm rợp trời quan sứ đến
Váy lê quét đất mụ đầm ra”
Theo như lịch sử, kì thi năm Đinh Dậu 1897 có vợ chồng tồn quyền Pháp và vợ
chồng tôn công sứ Nam Định đến dự. Đang trong khơng khí trường thi căng thẳng,
vậy mà quan sứ và vợ vẫn được đón tiếp một cách long trọng, “lọng cắm rợp trời”,
mưa không đến mặt, nắng không đến đầu. Kẻ xâm lược được đón tiếp một cách tốt
nhất, đặt lên một vị trí cao nhất cho thấy một thực trạng đau lòng nước ta thời bấy
giờ – một xã hội mà thực dân nắm quyền và xã hội phong kiến chỉ làm bù nhìn. Ở
đây, Tú Xương dùng từ vô cùng đắt, gọi “quan sứ” một cách quan trọng, nhưng lại
gọi vợ chúng là “mụ đầm”. “Mụ” là một từ để chỉ người đàn bà khơng ra gì, là cách
gọi thô tục. Tú Xương “chửi” một cách vô cùng sắc bén. Vừa châm biếm, nhưng đó
cũng vừa là nỗi đau xót, căm hận của một con người phải chứng kiến cảnh nước mất
nhà tan.
Trước cảnh nhốn nháo, biến chất ấy, nhà thơ đã phải thốt lên rằng:
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trơng cảnh nước nhà.”
Hai câu thơ vừa là lời tự vấn bản thân, cũng là tự vấn những người đồng cảnh ngộ.
Có mấy người còn nghĩ đến nỗi nhục của cảnh nước mất nhà tan, mà cùng nhau


đứng lên hành động? Có bao nhiêu người vẫn đang mù quáng tin vào nhà nước, tin
vào chính quyền mà khơng chịu nhìn vào thực tế?
Thơ của Tú Xương, là sự kết hợp của cả hiện thực và trữ tình. Từ việc tả lại kì thi
Hương đã thối hóa, biến chất, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh đất nước bị tù đày, đàn

áp bởi bọn thực dân, đồng thời cũng bày tỏ nỗi niềm đau xót trước cảnh nước mất
nhà tan của một người, một thế hệ trí thức yêu nước trước cảnh nước mất nhà tan.
Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương - Mẫu 7
Tú Xương là tên gọi khác của nhà thơ Trần Tế Xương, quê ở thành Nam Định, người
được coi là mở đầu cho dòng thơ hiện thực trào phúng của văn học Việt Nam những
năm cuối thế kỉ XIX. Tài thơ của ông có ảnh hưởng mạnh mẽ, đến nỗi sau này muốn
nối giọng thơ châm biếm đả kích ấy, nhiều người đã lấy chữ Tú làm "họ” của mình:
Tú Mờ, Tú Sụn, Tú Nạc, Tú Sót.
Sinh ra vào lúc đất nước cũng có vua, có các quan, có triều đình, nhưng thực dân
Pháp mới là chủ, Tú Xương không thể làm ngơ trước bao cảnh chướng tai gai mắt.
Ông làm thơ lên án những chuyện đồi bại xấu xa của cái thời buổi nhiễu nhương dở
Tây, dở ta. Ơng khơng ngần ngại phơi bày nỗi nhục mất nước. Bài Vịnh khoa thi
Hương sau đây chính là một bức tranh về nỗi nhục nô lệ ấy:
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời, quán sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Nhân tài đất bắc, kìa ai đó,
Ngoảnh cổ mà trơng cảnh nước nhà.
Cuộc thi mang tầm vóc quốc gia, nhưng là một quốc gia mất chủ quyền. Sụ phụ
thuộc ấy bộc lộ ngay ở cung cách tổ chức: Nhà nước ba năm mở một khoa,Trường
Nam thi lẫn với trường Hà. Không phải là vua hay triều đình mở khoa thi mà là nhà
nước. Bộ máy quản lí quốc gia trước đây, bây giờ gọi theo cách của người Pháp.
Cũng phải thôi, vua quan nhà Nguyễn lúc này chỉ là công cụ dưới cái gậy chỉ huy
của nhà nước thực dân mà đứng đầu là quan tồn quyền. Cho nên sĩ tử khơng còn đi
thi như hàng trăm năm nay, mà "trường Nam thi lẫn với trường Hà". Chữ "lẫn" cho
thấy cách thức tổ chức có vẻ thiếu trật tự, thiếu nền nếp, không quy cũ, lẫn lộn, lung
tung.

Chữ nghĩa không phải chỉ mang nghĩa bóng mà ở đây mang nghĩa tả thực rất cụ thể.
Trước đây, ở Bắc kì, có hai trường thi hương: một ở Nam Định, một ở Hà Nội. Thí
sinh ở địa phương nào thì được về thi ở đó. Nhưng từ khi thực dân Pháp đánh chiếm
Hà Nội, kì thi hương ở Hà Nội bị bãi bỏ, sĩ tử Hà Nội phải khăn gói về Nam Định


tham gia thi. Tuy nhiên, dù thi về cái gì, cấp độ nào, ở đâu chăng nữa, thí sinh và
người coi thi vẫn có vai trị quan trọng bậc nhất. Khơng có hai nhân vật này thì khơng
có kì thi và nhìn vào họ, có thể đánh giá được chất lượng, ý nghĩa, tầm quan trọng
của chuyện thi cử.
Hãy đọc hai câu đầu và quan sát những phác hoạ của Tú Xương: Lôi thôi sĩ tử vai
đeo lọ,Ậm oẹ quan trường miệng thét loa. Sĩ tử - thí sinh, người đi thi, qua bao tháng
ngày dùi mài kinh sử, cháy bỏng mong đợi ngày mở khoa thi để đem tài năng thi
thố, làm vẻ vang cho bản thân và gia đình. Lẽ ra họ phải tốt ra chí khí hiên ngang,
"hồnh tráng", như cách nói của Nguyễn Cơng Trứ: "Làm trai đứng ở trong trời đất/
phải có danh gì với núi sơng".
Đằng này, trơng họ khơng có dáng vẻ gì của người đi chiếm bảng vàng. Chữ "lơi
thơi", là hình dạng là phong thái của họ: bệ rạc, luộm thuộm, thiếu sinh khí, tàn cuộc.
"Lọ" ở đây là lọ đựng nước uống, một đồ vật cần thiết vì thời gian làm bài rất dài.
Nhưng cái ta trông chờ ở đây là bút nghiên, giấy tờ, ông quyến,... chứ không phải là
một thứ của kẻ vất vưởng trên đường. Trông họ thật tội nghiệp, đúng như một lần
khác, Tú Xương đã phác một nét về thần thái của họ: "Sĩ khí rụt rè gà phải cáo". Sự
luộm thuộm, lôi thôi của sĩ tử phải chăng vì quan trường- quan coi thi quá khắt khe
nghiêm khắc?
Tất nhiên, thay mặt nhà nước, nhận trọng trách tuyển dụng nhân tài, oai nghiêm, chặt
chẽ, rành mạch là tính chất chức năng của họ. Nhưng "quan trường" trong khoa thi
hương này, không được như vậy. Họ cũng cố ra vẻ oai vệ, họ "thét loa" khi xướng
danh. Tất cả tiếng thét của quan trường chỉ là phát ra những âm thanh "ậm oẹ", ngọng
ngịu chẳng có gì là rõ ràng, minh bạch. Nhìn chung những sĩ tử và quan trường trong
kì thi này mang dáng vẻ lôi thôi, bệ rạc, ngượng ngịu, yêu thế, đúng là dáng vẻ của

kẻ bị phụ thuộc, mất quyền chủ động.
Họ chỉ như là những vai phụ trong vở tuồng thi cử. Và đây mới thực sự là nhân vật
chính :Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,Váy lê quét đất mụ đầm ra. Điều nực cười là
kì thi của người Việt mà không phải là các quan người Việt đến để điều hành. Cũng
là cười nhưng là cười ra nước mắt. Trong khi sĩ tử và quan trường lôi thôi, ậm oẹ,
xơ xác, tàn tạ, yếu thế thì quan sứ và mụ đầm rợp trời, quét đất, rực rỡ, hoành tráng,
áp đảo, mang vượng khí kẻ chủ nhân. Tú Xương đã nhận ra một dấu ấn của hiện
thực: thời cuộc đổi thay, mọi giá trị bị đảo ngược.
Thi cử thời thực dân khơng phải là chỗ so tài trí của sĩ tử bốn phương mà là nơi để
cho các quan Pháp thực dân phô trương thanh thế là chỗ không phải để tôn vinh mà
để sỉ nhục nhân tài đất Việt và quan trọng là để khẳng định cái "toàn quyền" của các
quan cai trị. Không phải ngẫu nhiên mà các bà đầm Pháp bấy giờ rất hay xuất hiện
trong các kì thi. Có lần Tú Xương ghi được cảnh bà đầm ngồi cao ngất trên ghế để
cho các ông cụ An Nam xì xụp lạy dưới sân (Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt / Dưới sân
ơng cử ngẩng đầu rồng).


Sự thực đương thời có những kẻ xu thời, chịu nhục để cầu phú q, nhưng cũng có
những con người có lương tâm, có nhân cách, họ ln cảm thấy nỗi nhục nô lệ. Một
trong những con người như vậy là nhà thơ ở đất Vị Hoàng, tác giả của bài thơ mà ta
đang đọc. Hai câu kết có thể nói là một tiếng lịng biết bao cay đắng: Nhân tài đất
bắc, kìa ai đó,Ngoảnh cổ mà trơng cảnh nước nhà. Khơng cịn là tiếng cười mà chỉ
là một cảm giác nhức nhối vừa thương vừa giận vừa căm ghét. Nhà thơ chỉ cho mọi
người thấy những con người lôi thôi...đeo lọ kia, những quan trường...âm oẹ kia
không phải là những kẻ đáng cười. Họ còn mang dáng vẻ đáng thương của một đất
nước.
Hào khí tiên rồng ở đâu, nhân tài ở đâu mà chỉ còn lại những con người cam chịu
làm tay sai cho bọn thực dân đế quốc, lại để cho bọn ngoại bang đáng ghét được đè
đầu cởi cổ dương dương tự đắc như vậy? Lời thơ kết thúc nhưng nỗi đau trong lòng
người lại dội lên quặn thắt. Thời trung đại, khơng có nhà thơ nào viết nhiều (tới 13

bài vừa thơ vừa phú) về chuyện thi cử như Trần Tế Xương.
Chuyện thi cử trong thơ ông vừa bi vừa hài, là chuyện cười ra nước mắt. Có lí do
riêng, khơng biết vì cái luật lệ khe khắt của trường thi hay vì tính nết khơng chịu
được khuôn phép của ông mà tám lần thi biết bao cực nhọc và tốn kém, ông chỉ đỗ
cái tú tài. Cịn do cái chế độ khoa cử nói riêng và chế độ xã hội nói chung thời thực
dân phong kiến, đầy rẫy cái cảnh "đậu lạy quan xin", bất cơng, ngang trái.
Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương - Mẫu 8
Bài thơ Vịnh khoa thi Hương (cịn có tên Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu) là một
trong số 13 tác phẩm của Trần Tế Xương viết về đề tài thi cử. Trong bản chất, việc
thi cử bao giờ cũng cần thiết. Có thể khẳng định rằng phần lớn những người đỗ đạt
(kể cả những người đỗ vào chính các khoa thi mà Trần Tế Xương từng phê phán)
đều là những người tài giỏi, có đóng góp quan trọng với đất nước. Với Trần Tế
Xương, ông triệt để khai thác đề tài thi cử, những điều mắt thấy tai nghe, chủ yếu là
những việc liên quan đến lề lối, cung cách thi cử, lối thi cũ cũng như khi đổi sang
lối thi mới, cả người đỗ đạt cũng như người hỏng thi.
Vì thế, việc đọc hiểu bài thơ Vịnh khoa thi Hương cần phân biệt rõ thủ pháp biếm
họa, cực tả (bao gồm cả việc châm biếm những phương diện trong bản chất vốn là
sự cải cách, đổi mới, tiến bộ xã hội) và cần được đặt trong tương quan với nhiều thi
phẩm của chính Trần Tế Xương (Đổi thi, Than sự thi, Đi thi nói ngơng, Ơng tiến sĩ
mới...) cũng như so với thơ ca cùng dạng đề tài khoa cử của nhiều tác giả khác đương
thời.
Trong tầm quan sát của Trần Tế Xương, tất cả mọi vấn đề liên quan đến thi cử đều
bị "biến dạng" trong mối quan hệ giữa danh và thực, tài và lực, giữa cái cũ lạc hậu
nhưng chưa tiêu tan và cái mới vẫn chưa thắng thế. Nói cách khác, thơ Trần Tế
Xương đã hoán cải ngay cả những bi kịch thi cử và thất vọng cá nhân thành một


chuỗi cười dài. Mở đầu bài thơ Vịnh khoa thi Hương, việc nhà nước mở khoa thi
theo lối mới và thay đổi cách thức tổ chức thi cử - trường Hà Nội thi chung với
trường Nam Định - cũng trở thành vấn đề:

Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Trong hai câu ở phần thực, nhà thơ thực hiện thủ pháp cực tả, nói quá và biếm họa
hình ảnh sĩ tử cũng như các quan coi thi:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Với hình thức đảo ngữ, đặt tính từ "Lôi thôi..." lên đầu câu, nhân vật sĩ tử "vai đeo
lọ" bỗng trở thành kẻ nhếch nhác, luộm thuộm, được chăng hay chớ. Tiếp theo, việc
đảo tính từ đồng thời là từ láy "Ậm ọe..." lên trước cũng biếm họa ông quan coi thi
"miệng thét loa" thành người ngu ngơ, ấm ớ, dớ dẩn. Trên thực tế, việc quan trường
"miệng thét loa" là hành động đúng – đúng cả về mục đích và ý thức trách nhiệm –
nhằm vãn hồi trật tự, xác lập sự nghiêm túc nơi trường thi, có gì là sai đâu? Hai câu
thơ giới thiệu hai kiểu nhân vật vốn là chủ nhân nơi trường thi nhưng đã bị biếm họa
thành hình ảnh những người thô kệch, thiếu tư cách, không phù hợp với khung cảnh
thi cử.
Ở đây, kiểu nhân vật sĩ tử và quan trường từ muôn năm xưa vốn được coi trọng mà
nay mất thiêng, hóa thành loại người nhếch nhác, láo nháo, đáng bị chê cười. Tác
giả đã lược giản, bỏ qua cái phần phẩm cách mà chính họ từng đại diện cho các giá
trị tinh thần truyền thống và ngược lại, chỉ tập trung khai thác, tô đậm, biếm họa
ngay cả những hành động, việc làm nghiêm chỉnh của họ nơi trường thi. Tiếp theo
hai câu ở phần luận, Trần Tế Xương giới thiệu thêm hai loại nhân vật mới mà tử cổ
xưa đến nay mới lần đầu xuất hiện giữa nơi trường thi:
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Hoạt cảnh nổi bật là sự khoa trương hình thức với những chiếc lọng "cắm rợp trời"
và sau đó là ơng quan sứ (ơng quan cai trị người Pháp) xuất hiện. Ở câu thơ sau là
chiếc váy xịe xa lạ "lê qt đất" và liền đó là hình hài "mụ đầm" (bà, bà đầm: dame:
bà Tây...) (vợ ơng quan sứ Pháp) oai vệ bước ra. Có thể nói sự hiện diện của hai kiểu
nhân vật "quan sứ" và "mụ đầm" chính là một sự thay đổi cơ bản, khiến cho hoạt
cảnh trường thi càng thêm phần xa lạ, phản cảm. Hai kiểu nhân vật này đại diện cho

một thời đại mới, một chế độ mới, một thế lực và một nền giáo dục mới mẻ. Cách
gọi "quan sứ" đăng đối với "mụ đầm" đã hàm chứa sự giễu cợt, châm biếm mát mẻ
và thái độ xa lánh, coi thường...
Tuy nhiên, ngay cả khi trong sách giáo khoa có chú dẫn về cảnh đón rước: "Khoa
thi Hương này có Tồn quyền Pháp ở Đơng Dương là Pơn Đu - me (Paul Doumer)
cùng vợ đến dự" thì xét về bản chất, khoa thi rất được chú trọng, có cả quan Toàn
quyền đến tham dự, chứng kiến. Và cũng xét về bản chất, có điều gì cần phê phán


khơng? Thêm nữa, hình ảnh bà đầm trang phục đúng kiểu Tây cũng bị giễu nhại:
Váy lê quét đất... Thời Pháp thuộc, phần nhiều dân ta xa lạ với kiểu váy đầm, tóc phi
dê: Cơ phi dê là con chó xồm/ Đứng bên tôi làm tôi hết hồn... Bà đầm – vợ ơng Tồn
quyền – vốn chẳng có lỗi gì cũng bị săm soi, chê trách, biếm họa.
Có thể nói, Trần Tế Xương đã đứng trên lập trường đạo đức và thậm chí là một chiều
khi qui kết, châm biếm cả những phương diện thuộc về cải cách thi cử và tiến bộ xã
hội. Cho đến hai câu kết, Trần TếXương nâng cấp sự ý thức của các sĩ tử trong khoa
thi thành vấn đề quốc thể:
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trơng cảnh nước nhà.
Câu hỏi đặt cho nhân tài đắt Bắc "nào ai đó" góp phần tơ đậm, nhấn mạnh vai trị và
trách nhiệm kẻ sĩ trước hiện tình đất nước. Bởi lẽ những người được gọi là "Nhân
tài" ở đây trước hết phải kể đến các sĩ tử, những người đang dự thi và mong được đỗ
đạt, làm quan, thành nhân tài cai quản xã hội. Nhìn rộng ra, xếp vào hệ thống nhân
tài cịn có giới quan trường, các bậc trí thức, những người có trách nhiệm với non
sơng đất nước. Tác giả đặt ra câu câu hỏi nhưng ngay trong đó đã sẵn có câu trả lời,
ai cũng rõ "ai" được xếp vào loại "nhân tài". Câu thơ thật bình dị mà đa nghĩa, khơi
gợi ý thức trách nhiệm của mọi người: Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà...
"Ngoảnh cổ mà trông..." thì cũng chính là tự trơng lại, tự xét đốn, nhìn nhận lại thân
phận mình. Có thể nói hai câu kết đã nâng tầm tư tưởng của bài thơ, gián tiếp đưa ra
câu hỏi cho tất cả các sĩ tử, quan trường và nhân tài đất Bắc với bên kia là những

quan sứ, mụ đầm cùng xuất hiện trong hoạt cảnh thi cử nhố nhăng thời thực dân nửa
phong kiến. Điều này tạo nên tiếng cười lưỡng phân trong thơ ông: vừa bất lực trước
quá khứ vừa ngơ ngác trước một thực tại mới, vừa xa xôi kỳ vọng vào lớp người mới
"Nhân tài đất Bắc" vừa bàng hoàng trước phong vận đổi thay "Ngoảnh cổ mà trông
cảnh nước nhà".
Bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương thể hiện sắc nét hệ thống hình
tượng tác giả vừa trong tư cách cảm hứng sáng tác vừa là sự bày tỏ nỗi niềm chủ thể
và như sự miêu tả về một kiểu nhân vật trữ tình khách thể, "bên ngồi mình". Ơng
vừa đóng vai chứng nhân, vừa là tác giả và đồng thời cũng là sĩ tử và "nhân tài" đất
nước. Với tiếng cười trào lộng, nhà thơ đi sâu khai thác và biếm họa mọi nhân vật,
từ vẻ ngoài đến vai trò, vị thế và đi đến khái quát được bản chất xã hội qua thực
trạng hình thức thi cử.
Có thể thấy thủ pháp châm biếm, "hí họa" trong bút pháp trào phúng của Trần Tế
Xương đã làm nên mối quan hệ hai chiều: trào phúng gắn quyện với trữ tình, vẽ nên
hoạt cảnh thi cử bi hài và lên tiếng thức tỉnh lương tâm người trí thức trước thực
trạng xã hội đương thời.
Phân tích bài thơ Vịnh khoa thi Hương - Mẫu 9



×