Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Vấn đề pháp lý về nhà nước pháp quyền, tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.16 KB, 25 trang )

LỜI MỞ ĐẦU


Nhà nước pháp quyền (NNPQ) –một vấn đề được sự quan tâm đặc
biệt của nhiều nhà nghiên cứu. Họ đã tiếp cận vấn đề ở nhiều góc độ khác
nhau do đó đã có những cách hiểu khác nhau về nhà nước pháp quyền. Điều
này gây ra sự nhận thức chưa đầy đủ có thể sai lệch về NNPQ.
Nhằm mục đích tìm hiểu sâu sắc và tổng qt hơn về “Vấn đề pháp lí
Nhà nước pháp quyền” với việc đi sâu vào nghiên cứu từng giai đoạn phát
triển cụ thể, trong từng xã hội để thấy cái ưu việt của NNPQ XHCN so với
các xã hội khác cũng như những vấn đề cần khắc phục để NNPQ ngày càng
tiến bộ hơn.
Nhóm 2-lớp CQV1082 chúng tơi xin giới thiệu bài tiểu luận “NHỮNG
VẤN ĐỀ PHÁP LÍ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN” nhằm đáp ứng những
nhu cầu trên. Nội dung cụ thể được trình bày trong các phần sau:
-Lí luận chung về nhà nước pháp quyền .
-Quá trình hình thành nhà nước pháp quyền tại Việt Nam
+Khái niệm nhà nước pháp quyền
+nhà nước pháp quyền hình thành tại Việt Nam.
-Đặc điểm Nhà nước pháp quyền
-So sánh NNPQXHCN và NNPQTBCN.
-Kết luận.
Chúng tôi hy vọng bài tiểu luận sẽ giúp ích cho các bạn và những ai
quan tâm đến vấn đề nhà nước pháp quyền trong việc thấu hiểu thêm về nó.
Có thể bài viết cịn nhiều thiếu sót và những khiếm khuyết nhất định . Rất
mong thầy và các bạn có những ý kiến đóng góp cho bài tiểu luận được
hồn thiện hơn , để chúng ta hiểu một cách đúng đắn và thấu đáo hơn về nhà
nước pháp quyền.

Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền


1


KHÁI QT NỘI DUNG
A.LỜI NĨI ĐẦU:
B.LÍ LUẬN CHUNG:
Tư tưởng về NNPQ được hình thành rất sớm trong lịch sử , ngay từ
thời Hy Lạp cổ đại (427TCN). Các nhà tư tưởng đã nêu cao vai trò của pháp
luật trong đời sống xã hội nhằm khẳng định tính tối cao của pháp luật.
Đến thời cổ đại tư tưởng này được các học giả TK XVIII nâng lên một mức
mới khẳng định tính hợp lí của nhà nước pháp quyền và đưa ra mơ hình
cách thức thực hiện nhà nước đó, đảm bảo cơ chế phân quyền trong bộ máy
nhà nước, tránh sự lạm quyền.
Đến TKXX,Hiến chương LHQ và công ước Quốc tế về con người
được soạn thảo dựa trên tư tưởng NNPQ và khế ước xã hội.
Đến thế kỉ XXI các tư tưởng NNPQ được khẳng định nhiều trong các bài
giảng ở các trường Đại học và Cao đẳng.
Với nền móng đó,tư tưởng về NNPQ được đảng,chính phủ áp
dụng phù hợp vào hồn cảnh nước ta.
C.Q TRÌNH HÌNH THÀNH
I. Nhà nước pháp quyền là gì?
Trong việc thực hiện và nghiên cứu về nhà nước và pháp luật, vấn đề
nhà nước pháp quyền trở thành mối quan tâm đặc biệt của nhiều tác giả những người làm công tác thực tiễn cũng như nghiên cứu pháp lý trong và
ngoài nước. Do cách tiếp cận vấn đề và nhận định đánh giá vấn đề ở góc độ
khác nhau nên khái niệm về NNPQ chưa được thống nhất và làm sáng
tỏ.Nhìn chung ta có thể hiểu NNPQ là nhà nước xây dựng nền pháp luật để
quản lí xã hội và đặt mình dưới pháp luật. Mỗi cơ quan nhà nước đều phải
được tổ chức và chỉ được phép hoạt động trong khuôn khổ nhất định của
Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền


2


pháp luật. Công dân tuân thủ thi hành và sử dụng pháp luật. Trong đó quyền
cơng dân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
II.Quá trình hình thành NNPQ tại Việt Nam :
Hòa chung vào dòng chảy của lịch sử nhân loại, Việt Nam đã trải qua
các hình thái xã hội: CXNT->XHPK, Bỏ qua giai đoạn TBCN tiến lên xây
dựng XHCN. Các mơ hình xã hội này hình thành dựa trên các điều kiện kinh
tế ,xã hội phù hợp với từng giai đoạn lịch sử.
1) Hình thái XHCXNT:
Nhà nước chưa hình thành, con người sống theo bầy đàn ,sống chủ
yếu bằng săn bắt hái lượm . cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc vào thiên
nhiên, chưa xuất hiện của tư hữu , cuộc sống vẫn đảm bảo tính cơng bằng,
dân chủ.
2)Mơ hình NNPK:
Là mơ hình nhà nước đầu tiên ở Việt Nam, với cơ chế tập quyền Vua
là ngưới đứng đầu nhà nước ,có quyền tối cao. Pháp luật được nhà nước lập
nên để bảo vệ quyền lợi cho những kẻ cầm quyền, pháp luật được sử dụng
như một công cụ cai trị mà tất cả mọi người phải tuân thủ . Với mơ hình
nhà nước này cuộc sống của người dân vô cùng cơ cực ,lầm than . Họ sống
mà không hề biết đến “nhân quyền”-những quyền mà con người được
hưởng .
3)Mơ hình nhà nước XHCN:
Là mơ hình nhà nước tiến bộ trên thế giới, Trải qua các kì hiến pháp
1946, 1959, 1980 và hiến pháp 1992 hệ thống pháp luật ở Việt Nam dần dần
hoàn chỉnh đảm bảo các tiêu chí về quyền và lợi ích chính đáng cho người
dân.
Trải qua các mơ hình và hình thái xã hội, hình thái NNPQ là mơ hình
mang nội dung dân chủ, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, xã hội được

quản lí bởi pháp luật .
Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền

3


III.Đặc điểm NNPQ tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
NNPQ XHCN ở Việt Nam ngồi tiêu chí chung về NNPQ cịn có
một số đặc điểm sau:
1/NNPQ ở Việt nam được hình thành trên cơ sở đánh đổ chế độ thực dân
phong kiến và không kinh qua giai đoạn phát triển của TBCN.
2/NNPQXHCN ở Việt Nam là “ nhà nước của dân do dân và vì dân”.
LÝ LUẬN CHUNG
Tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng: Bên
trong sự tồn tại của mỗi mơ hình xã hội, ln nhen nhóm manh nha một mơ
hình xã hội mới.Tiến bộ hơn, tích cực hơn trên cơ sở kế thừa mơ hình xã hội
cũ.Và tới khi mơ hình xã hội ở thời điểm nó khơng cịn phù hợp nữa, mơ
hình xã hội mới sẽ ra đời, thay thế cho mơ hình xã hội cũ trên cơ sở kế thừa
và phát huy. Từ khi thoát khỏi thế giới động vật, lồi người đã trải qua các
mơ hình xã hội: Cơng xã nguyên thủy, Chiếm hữu nô lệ, Xã hội phong
kiến,Tư bản chủ nghĩa, Xã hội chủ nghĩa. Các mơ hình xã hội phát triển từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến dần hồn thiện. Xun suốt q trình đó,
quyền con người ngày càng được đề cao cùng với sự hoàn thiện của hệ
thống Pháp luật.
Ở thời Trung cổ, Nhà nước đã được hình thành, khi đó Nhà nước ln
lợi dụng uy thế của mình để hoạt động một cách tùy tiện, đứng trên tất cả và
được hưởng những ưu đãi miễn trừ, hưởng những đặc quyền đặc lợi. Do
vậy, các đặc quyền dành cho vua quan đã xâm lấn tới quyền công dân,
quyền con người và tất yếu dẫn đến tư tưởng đấu tranh chống lại sự chuyên
quyền độc đoán đó.

Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền được hình thành rất sớm trong lịch
sử, ngay từ thời cồ đại Hy Lạp (427 TCN), các nhà tư tưởng như:
Platon,Aristote… đã đề cao vai trò của Pháp luật trong đời sống Nhà nước và
xã hội. Người đầu tiên là nhà thông thái Hy Lạp cổ đại Salon vào thế kỷ I
Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền

4


TCN, ông cho rằng “Nhà nước phải được tổ chức theo nguyên tắc dân chủ,
kết hợp với sức mạnh Pháp luật”;Một số ý kiến khác như: Platon cho rằng
“Pháp luật cứu nổi nước nhà”, Sisiron viết “Cần một Nhà nước trong khơn
khổ Pháp luật”…Nhìn chung, các tư tưởng cổ đại này đều khẳng định tính tối
cao của Pháp luật.
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền thời cổ đại đã được các học giả thế
kỷ 17,18 nâng lên ở trình độ mới thành lý thuyết Nhà nước pháp quyền mà
nội dung cơ bản của nó là sự lệ thuộc của Nhà nước vào Pháp luật, Pháp luật
phải phục vụ cho con người, các học giả đã nâng lên thành hệ thống lý luận
về Nhà nước pháp quyền, khẳng định tính hợp lý của Nhà nước pháp quyền
và yêu cầu của nó, đưa ra mơ hình, cách thức thực hiện Nhà nước đó đảm
bảo Nhà nước bị kiểm sốt như dân bầu lên các nhà cầm quyền theo cơ chế
bầu cử dân chủ, xây dựng cơ chế phân quyền trong bộ máy để tránh sự lạm
quyền.
Cho đến thế kỷ 20, Hiến chương Luật hiến pháp và các Công ước
Quốc tế về quyền con người, quyền dân sự, chính trị được soạn thảo đều dựa
trên tư tưởng Nhà nước pháp quyền và khế ước xã hội. Đến những năm đầu
thế kỷ 21 các tư tưởng về Nhà nước pháp quyền được khẳng định trong các
bài giảng của nhiều Giáo sư các trường Đại học lớn trên thế giới như:
Hawart, Oxford…Và cho tới nay, vẫn có nhiều luồng ý kiến khác nhau về
các tư tưởng Nhà nước pháp quyền.

Ở Việt Nam,tư tưởng về Nhà nước pháp quyền là tư tưởng xuyên suốt
lịch sử hình thành Nhà nước từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945.Trên cơ sở
các nguồn tài liệu chính thống đưa ra “các vấn đề về Nhà nước pháp
quyền”.Việc đào sâu nghiên cứu về đề tài này giúp chúng ta hiểu rõ hơn, sâu
sắc hơn và có cái nhìn đúng đắn về Nhà nước pháp quyền trong định hướng
xây dựng Chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam, từ đó mỗi cơng nhân Việt Nam sẽ
xác định những nhiệm vụ cơ bản của mình dựa trên Hiến pháp và Pháp luật
của Nhà nước, góp phần xây dựng, phát triển đất nước tồn diện.
Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền

5


QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
TẠI VIỆT NAM
I. Nhà nước pháp quyền là gì? (NNPQ)
Lý thuyết về NNPQ hình thành trên cơ sở phát triển các lý luận về:
Quy luật tự nhiên; Cơ chế tam quyền phân lập; khế ước xã hội (ở các quốc
gia Âu – Mỹ) và những lý luận về quyền con người.
Kể từ khi có Nhà nước được nhân dân lập ra qua khế ước xã hội, lịch
sử đã chứng minh rằng khi Nhà nước nắm quyền lực sẽ ln có xu hướng
tha hóa quyền lực và lạm dụng quyền lực để bảo vệ và tăng thêm quyền, lợi
ích các phần tử cấu thành Bộ máy Nhà nước; đồng thời đẩy mạnh những bất
lợi về phía dân chúng. Do mưu cầu hạnh phúc là quyền tự nhiên của các cá
nhân, một người trong Bộ máy Nhà nước khi có quyền lực cơng sẽ có xu
hướng dùng quyền lực ấy để mưu cầu lợi ích cá nhân, giúp gia đình, thân
hữu. Dần dần các cá nhân trong bộ máy quan hệ cơng tác có những tình cảm
thân hữu nhất định và sẽ liên kết lại để ban hành những quy phạm pháp luật
có lợi cho họ nhưng gây bất lợi cho dân chúng và xâm hại đến các quyền
con người của nhân dân, vi phạm khế ước xã hội. Nhân dân sẽ tiến hành các

cuộc cách mạng để thay thế Nhà nước ấy bằng một Nhà nước mới với bản
khế ước mới. Nhưng nếu bản khế ước mới khơng ràng buộc chặt chẽ, khơng
kiểm sốt được quyền lực Nhà nước thì Nhà nước đó lại tiếp tục tha hóa và
lạm dụng quyền lực để mưu lợi cho những cá nhân hoạt động trong Bộ máy
Nhà nước.
Thực tiễn lịch sử phát triển của tất cả các quốc gia, kể từ khi có Nhà
nước với các cuộc khởi nghĩa của những người nô lệ, nông dân, ttc, binh
lính… sau khi giành được chính quyền đều dẫn đến sự tha hóa và lạm dụng
quyền lực để nhũng loạn nhân dân, cho nên vấn đề được đặt ra trong khế
ước xã hội là nhân dân phải kiểm soát được quyền lực Nhà nước. Nói cách
khác, Nhà nước bị nhân dân kiểm soát hữu hiệu quyền lực Nhà nước bằng
Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền

6


pháp luật là NNPQ. Ngoài việc phân chia quyền lực theo cơ chế “Tam
quyền phân lập”, báo chí td cịn là quyền lực thứ 4 – là phương tiện hữu hiệu
để người dân tham gia vào cơng việc kiểm sốt này.
Trong việc nghiên cứu về Nhà nước và Pháp luật, vấn đề NNPQ trở
thành mối quan tâm đặc biệt của nhiều tác giả là những người làm công tác
thực tiễn cũng như nghiên cứu khoa học pháp lý trong và ngoài nước. Do
cách tiếp cận vấn đề hoặc nhận định, đánh giá vấn đề ở góc độ khác nhau.
Một số vấn đề rất cơ bản liên quan đến NNPQ vẫn chưa có nhận thức thống
nhất và chưa được làm sáng tỏ.
Tháng 9/1991: Hội nghị Quốc tế họp tại Berlin với sự tham gia của 40
nước đã đưa ra những lý lẽ để bàn luận và đưa ra khái niệm chung về
NNPQ. Nhìn chung, NNPQ có 4 đặc trưng cơ bản sau đây:
1. NNPQ là Nhà nước phải coi pháp luật là tối thượng, pháp luật là
cơ sở của các chính sách, quyền lực, hoạt động Nhà nước. Do đó,

mọi hoạt động của Nhà nước phải tuân theo pháp luật, pháp luật
chính là giá trị xã hội, là thước đo của tự do.
2. NNPQ phải thừa nhận và đảm bảo các quyền tự do cá nhân. Trong
các quyền tự do cá nhân cần phải đảm bảo trước hết các quyền về
kinh tế, chính trị.
3. NNPQ là Nhà nước phải được tổ chức theo cơ chế phân quyền:
Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp độc lập tương đối với nhau để có
thể chế ước lẫn nhau.
4. NNPQ phải có cơ chế giám sát việc thực thi quyền lực, giám sát
đối với Hiếp pháp, với Hành chính và Tư pháp…
Tóm lại, NNPQ là Nhà nước xây dựng nền pháp luật để quản lý xã
hội và đặt mình dưới pháp luật. Mọi cơ quan Nhà nước đều phải được tổ
chức và chỉ được phép hoạt động trong khuôn khổ quy định của pháp luật;
công dân tuân thủ, thi hành và sử dụng pháp luật. Trong đó quyền cơng dân
được pháp luật ghi nhận, đề cao và bảo vệ…
Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền

7


Lịch sử nhân loại đã trải qua 4 kiểu Nhà nước tính đến thời điểm này
là: Nhà nước chiếm hữu nô lệ, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản và
cuối cùng là Nhà nước xã hội chủ nghĩa. NNPQ khơng phải là một Nhà
nước của một hình thái kinh tế xã hội mới. Tuy nhiên, NNPQ được xem là
yếu tố của hình thức Nhà nước có tính dân chủ và chỉ tồn tại trong xã hội có
tính dân chủ dù là dân chủ tư sản hay dân chủ xã hội chủ nghĩa.
II. Quá trình hình thành NNPQ tại Việt Nam:
Hòa chung vào dòng chảy lịch sử nhân loại, Việt Nam đã trải qua các
hình thái kinh tế xã hội: Công xã nguyên thủy, xã hội phong kiến, bỏ qua
giai đoạn Tư bản chủ nghĩa và tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Các mơ

hình xã hội này được hình thành dựa trên các điều kiện kinh tế - xã hội phù
hợp với từng giai đoạn lịch sử.
1. Hình thái xã hội công xã nguyên thủy (CXNT)
Ở giai đoạn xã hội CXNT, con người sống theo bầy đàn, họ sống chủ yếu
bằng săn bắn, hái lượm, cuộc sống phụ thuộc hồn tồn vào tự nhiên. Khi
đó, bầy người lao động và kiếm sống bằng sức mạnh tập thể, bầy người đã
liên kết lại với nhau để chống lại thú dữ, thiên tai, dịch họa. Họ sống thành
các Bộ lạc, Bộ tộc…Tất cả của cải kiếm được sẽ được chia đều cho các
thành viên trong bộ lạc và dường như chưa xuất hiện “tư hữu”. Trải qua các
thời kì với các điều kiện tự nhiên thuận lợi, các Bộ lạc đã tích lũy được
nhiều của cải dư thừa và khi đó tư tưởng tích lũy “tư hữu” đã xuất hiện, của
cải dư thừa khơng cịn được chia ra cho các thành viên trong Bộ lạc mà do
người đứng đầu Bộ lạc, Bộ tộc chiếm giữ làm của riêng…Dần dần có sự
phân hóa giàu nghèo, phân hóa giai cấp…Song song với nó, hình thái xã hội
CXNT có nguy cơ bị phá vỡ, thay vào đó là sự ra đời của mơ hình xã hội
mới theo quy luật tự nhiên của nó.
2. Mơ hình Nhà nước phong kiến (PK)
Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền

8


Khác với các quốc gia ở Châu Âu, Việt Nam khơng xuất hiện mơ hình
Nhà nước Chiếm hữu nơ lệ (CHNL). Xét về mặt bản chất, Nhà nước CHNL
là một mơ hình Nhà nước đầu tiên trong lịch sử nhân loại, ngay từ khi mới
xuất hiện, bản chất bóc lột của nó đã được rõ nét. Các Chủ nơ sử dụng Nô lệ
trong các đồn điền, hầm mỏ, khai thác sức lao động của họ triệt để, hành hạ,
đánh đập, bóc lột về thể xác…,các Chủ nơ khơng hề quan tâm tới cuộc sống,
tính mạng của họ, các Chủ nơ chỉ muốn mang lại lợi ích, giá trị kinh tế cao
nhất cho bản thân.Với mơ hình NN này, dường như vấn đề quyền con người

chưa được nhắc tới…
Trước CMT8-1945, NNVN là NN nửa thuộc địa, nửa PK theo chính
thể Quân chủ chuyên chế, NN ấy không phải do nhân dân ta xây dựng nên
mà do bọn thực dân pháp(TDP) lập nên. Năm 1858- khi TDP nổ phát súng
đầu tiên trên bán đảo Sơn TRà, chúng đã mang đến nước ta bao đau thương
mất mát….Để thuận lợi cho chính sách cai trị TDP đã lập nên chính quyền
bù nhìn, tay sai với các chính sách cai trị hà khắc.
Với cơ chế tập quyền, Vua là người đứng đầu NN, Vua có quyền tối
cao, tất cả công việc của quốc gia đều do Vua quyết định (tuy nhiên, do là
nửa thuộc địa, nửa PK, nên tất cả công việc đều phải theo sự điều khiển của
TDP). Pháp luật NN được lập nên để đảm bảo quyền lợi cho những kẻ cầm
quyền, pháp luật được sử dụng như một công cụ cai trị mà tất cả mọi người
đều phải tuân thủ và không được làm trái. Vì vậy vấn đề quyền con người
khơng được đảm bảo; trái lại bọn vua quan còn lợi dụng quyền lực, nhũng
nhiễu, chèn ép nhân dân, cuộc sống của nhân dân vô cùng lầm than, cơ cực,
người dân sống mà không hề biết đến khái niệm “Nhân quyền”- những
quyền mà con người đáng được hưởng….
Tuy nhiên, trải qua các triều đại mơ hình NNPK, Bộ “Luật Hồng
Đức” dưới thời Lê như là một vết son sáng lạng. Mặc dù chưa đậm nét, song
“Luật Hồng Đức” đã đề cập tới một số quyền cơ bản của con người, đề cao
Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền

9


quyền phụ nữ, trẻ em…Bước đầu là cơ sở đặt niềm tin vào một NNPQ ở
giai đoạn sau.
3. Mơ hình Nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN):
CMT8 thành công, ngày 2/9/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
“Tun ngơn độc lập” tuyên bố khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng

hịa, mở đầu “Tun ngơn độc lập” Người đã trích lời “Tuyên ngôn độc lập”
của Mĩ và “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp: “Tất cả mọi
người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa ban cho họ những quyền bất
khả xâm phạm, trong đó có quyền được sống, quyền được tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc”. Rõ ràng điều này luôn luôn đúng.
T10/1946, Quốc hội khóa I đã thơng qua bản Hiếp pháp đầu tiên của
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – Hiếp pháp 1946. Hiếp pháp được xây
dựng dựa trên ý kiến của nhân dân, những khát vọng chính đáng của họ về
quyền con người, mơ ước độc lập tự do…(do Ủy ban dự thảo Hiếp pháp thu
nhập, “trưng cầu dân ý”). Hiến pháp 1946 đề cập tới những vấn đề mang
tầm chiến lược: Kinh tế, Chính trị - Xã hội, Văn hóa – giáo dục, Quốc phòng
– An ninh…đáng chú ý, Hiến pháp 1946 rất chú trọng đến chế định công
dân. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam ,nhân dân Việt Nam được bảo đảm
các quyền tự do –dân chủ: “Công dân việt Nam có quyền tự do ngơn luận, tự
do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú và ra
nước ngồi”(Điều 10 hiến pháp 1946); Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam,
quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi cơng dân được pháp luật ghi nhận;
phụ nữ được ngang quyền với nam giới về mọi mặt, đồng thời công dân Việt
Nam được hưởng quyền bầu cử, nhân dân có quyền bãi nhiệm các đại biểu
của mình bầu ra khi tỏ ra khơng xứng đáng với danh hiệu đó .
Dựa trên nguyên tắc thực hiện chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt
của nhân dân, hình thức Nhà nước theo Hiến pháp 1946 có nhiều nét độc
đáo đáng chú ý : Chủ tịch nước là người đứng đầu Chính phủ, Chủ tịch nước
có quyền phủ quyết, Nghị viện biểu quyết và có quyền thảo luận. Tuy nhiên,
Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền

10


Chủ tịch nước không phải do cử tri trực tiếp bầu ra mà do Nghị viện nhân

dân bầu ra, Chủ tịch nước có quyền chọn Thủ tướng trong Nghị viện và đưa
ra Nghị viện biểu quyết…
Tóm lại, chúng ta thấy rằng Hiến pháp đầu tiên của nước ta –Hiến
pháp 1946 là bản Hiến pháp dân chủ ,tiến bộ; Với vai trị lập pháp, Hiến
pháp 1946 là chuẩn mực Pháp lí tối cao là công cụ để Nhà nước điều chỉnh
các mối quan hệ xã hội cơ bản , đảm bao q trình hoạt động thơng suốt
trong đó quyền cơng dân, quyền con người được đề cao .
Bước sang năm 1959 ,Hiến pháp 1946 có những biểu hiện khơng
cịn phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới của Cách Mạng , cần phải có sự
bổ sung ,thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế, Quốc hội khóa I Nước
Việt Nam dân chủ Cộng Hòa đã quyết định sửa đổi Hiến pháp 1946.Hiến
pháp 1959 đã có những thay đổi phù hợp với thực trạng đất nước…
Chương I của Hiến pháp 1959 đã khẳng định : Việt Nam theo hình thức
chính thể Nhà nước dân chủ Cộng hịa ,xác định rõ “Tất cả quyền lực Nhà
nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa thuộc về nhân dân.Nhân dân sử dụng
quyền lực của mình thơng qua Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp do
nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân “(Điều 4 –Hiến pháp
1959); Hiến pháp 1959 cũng đã quy định :Quốc hội và Hội đồng Nhân dân
các cấp và các cơ quan Nhà nước khác thực hành nguyên tắc tập trung dân
chủ, tất cả các cơ quan Nhà nước đều phải hoạt động theo Hiến pháp và
Pháp luật trong đó lợi ích của nhân dân luôn được đặt lên hàng đầu, đồng
thời Quốc hội và các chính quyền Nhà nước phải lắng nghe ý kiến và chịu
sự kiểm soát của nhân dân…
Đặc biệt ,Chương III đã quy định về Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản
của cơng dân ,bao gồm các quyền:
- Quyền về chính trị và tự do dân chủ: Quyền bầu cử, quyền tự do ngơn
luận ,tự do báo chí ,tự do hội họp (Điều 25)…
- Các quyền về dân sự, kinh tế , văn hóa- xã hội
Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền


11


- Các quyền về tự do cá nhân.
So với Hiến pháp 1946, chế định quyền và nghĩa vụ của công dân trong
Hiến pháp 1959 là một bước phát triển mới ; Bên cạnh đó ,Hiến pháp 1959
cịn quy định các vấn đề liên quan đên chức năng, nhiệm vụ cơ cấu tổ chức
của bộ máy Nhà nước, thể hiện sự thống nhất ,đồng bộ từ trên xuống dưới,
từ Nhà nước tới nhân dân ,mà khơng thể thiếu vai trị của Pháp luật.
Tóm lại ,Hiến pháp 1959 là bản Hiến pháp được xây dựng theo mơ
hình Hiến pháp Xã hội Chủ Nghĩa,và đó cũng là bản Hiến pháp Xã hội Chủ
Nghĩa đầu tiên của nước ta.
Đại thắng mùa xuân 1975 đã mở ra một thời kì lịch sử mới cho dân
tộc. Nước ta hoàn toàn Độc lập –Tự do ,là điều kiện thuận lợi để thống nhất
hai miền Nam- Bắc ,đưa cả nước quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội. Trước tình
hình đó , Quốc hội khóa VI đã tiến hành sửa đổi Hiến pháp 1959 với những
điều khoản phù hợp hơn và Hiến pháp 1980 đã ra đời.
Hiến pháp 1980 đã xác định rõ bản chất giai cấp của Nhà nước ta
là chun chính vơ sản với sứ mệnh là thực hiện quyền làm chủ tập thể của
nhân dân lao động ,các tổ chức của Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ
của Hiến pháp và Pháp luật ;Kế tục tư tưởng của Hiến pháp 1959, Hiến pháp
1980 nhấn mạnh quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân ,nhân dân thực hiện
quyền lực của mình thơng qua Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp do
nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân .Hiến pháp 1980 cũng
quy định :Quốc hội và Hội đồng Nhân dân cũng như các cơ quan Nhà nước
khác đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ .
Ngoài ra ,Hiến pháp còn quy định nguyên tắc pháp chế Xã hội Chủ
nghĩa, đây là một quy định hoàn toàn mới so với Hiến pháp 1959. Tại điều
12 Hiến pháp quy định “Nhà nước quản lí Xã hội bằng Pháp luật và không
ngừng tăng cường pháp chế Xã hội Chủ nghĩa” , Quốc hội là cơ quan quyền

lực cao nhất ,cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quy định về
quyền và lĩnh vực hoạt động của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước…
Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền

12


Trên cơ sở kế thừa và phát triển Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959.
Hiến pháp 1980 một mặt ghi nhận lại quyền và nghĩa vụ của công dân (trong
hai Hiến pháp trước ); mặt khác ,Hiến pháp 1980 đã xác định thêm một số
quyền và nhiệm vụ mới phù hợp với nền dân chủ Xã hội Chủ Nghĩa như:
Quyền tham gia quản lí cơng việc của Nhà nước và Xã hội (Điều 56) Quyền
được khám chữa bệnh không mất tiền (Điều 61) ,Quyền được học tập không
phải trả tiền (Điêu 60) … Tất cả các quyền cơng dân đó đã góp phần đảm
bảo cho tư tưởng dân chủ của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng Hòa càng
thêm sáng tỏ,nhân dân được hưởng các quyền lợi chính đáng của mình ,tạo
tiền đề cho việc xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đảm bảo cho hoạt
động của bộ máy Nhà nước được thơng suốt. Đó là Hiến pháp thể hiện ý chí
của nhân dân hai miền Nam –Bắc ,một lịng đoàn kết cùng tiến lên Chủ
nghĩa Xã hội…
Trên bước đường xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ,Hiến pháp 1980 đã
thể hiện một số hạn chế ,Hiến pháp 1992(sửa đổi bổ sung 2001) đã khắc
phục những nhược điểm đó và tới thời điểm hiện tại ,Hiến pháp 1992 vẫn là
văn bản có giá trị và hiệu lực pháp lí cao nhất ,thể hiện rõ bản chất của Nhà
nước Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam –mơ hình Nhà nước Pháp quyền.
Đáng chú ý hơn cả là quyền và nghĩa vụ của công dân : So với Hiến pháp
1980 ,Hiến pháp 1992 có quy định nhiều điều hơn về quyền và nghĩa vụ
công dân ,khắc phục thiếu sót của Hiến pháp trước .Hiến pháp 1992 lần đầu
tiên quy định “Các quyền con người về chính trị ,dân sự ,kinh tế ,văn
hóa ,xã hội được tôn trọng “ (Điều 50) , xác lập quyền tự do kinh doanh

(Điều 57), Quyền sỡ hữu về tư liệu sản xuất ,vốn và tài sản khác … Và tất
nhiên ,tất cả các quyền công dân này đều được giới hạn trong phạm vi của
Pháp luật ,mọi hoạt động của công dân sẽ chịu sự giám sát của Pháp luật
quản lí ; Hiến pháp 1992 cũng hồn chỉnh lại vai trị lãnh đạo của bộ máy
Nhà nước ,trong đó Đảng Cộng Sản Việt Nam đóng vai trị tiên phong .
Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền

13


Nhìn chung , Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung 2001) là bản Hiến
pháp hồn chỉnh ,là văn bản có giá trị pháp lí cao nhất, đóng vai trị quan
trọng cho việc xây dựng thiết chế Xã hội Chủ nghĩa tại Việt Nam.
KẾT LUẬN: Trải qua các hình thái xã hội ,các mơ hình Nhà nước ,hình
thái Nhà nước Pháp quyền đã được hình thành tại nước ta ,đó là mơ hình
Nhà nước mang nội dung dân chủ, quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân,
xã hội được quản lí bởi Pháp luật … Sự ra đời của Nhà nước Pháp quyền tại
Việt Nam còn là kết quả của sự vận dụng sáng tạo do Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đảng Cộng Sản Việt Nam tiếp thu các tư tưởng pháp quyền tiến bộ
trên thế giới…
III- Đặc điểm Nhà nước Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay :
Khái niệm về Nhà nước Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa lần đầu tiên được
nhắc đến do ông Đỗ Mười tại hội nghị lần thứ hai –ban chấp hành trung
ương khóa VII và gần gần đây được nhắc đến , được bàn bạc trong nhiều
cuộc họp cấp cao ở Việt Nam .Về cơ bản, khái niệm này được hình thành
trên cơ sở thống nhất chung về “Khái niệm Nhà nước Pháp quyền” trên thế
giới ;Tuy nhiên ,đó cịn là sự vận dụng sáng tạo ,phù hợp vào điều kiện,
hoàn cảnh của đất nước .
Nhà nước Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngoài việc đảm bảo các

tiêu chí của Nhà nước Pháp quyền nói chung , Nhà nước Pháp quyền nói
riêng cịn có một số đặc điểm sau:
1-Về quá trình hình thành và phát triển ,Nhà nước Pháp quyền Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam được hình thành trên cơ sở đánh đổ chế độ thực dân
phong kiến ,không kinh qua giai đoạn phát triển của Chủ nghĩa Tư bản ,đây
là đặc điểm rất quan trọng, cho chung ta thấy rõ điểm xuất phát của quá
trình xây dựng Nhà nước cùng với những khó khăn ,yếu kém của hạ tầng cơ
Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền

14


sở và thượng tầng kiến trúc xã hội .Qua mấy chục năm phấn đấu ,xây dựng
và đổi mới phương thức tổ chức và hoạt động ,đến Hội nghị đại biểu tồn
quốc giữa nhiệm kì khóa VII (1994) lần đầu tiên trong văn bản chính thức
của Đảng ,chúng ta mới xác định việc xây dựng Nhà nước Pháp quyền Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam của dân ,do dân và vì dân .
2-Nhà nước Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam của dân ,do dân và vì
dân .Đây là đặc điểm rất quan trọng mà nhà nước pháp quyền Tư sản khơng
thể có được.Thực chất đặc điểm này của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam nhằm bảo đảm tính giai cấp, tính nhân dân của Nhà nước
ta.Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân và do nhân dân tự định
đoạt, nhân dân quyết định phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành của
bộ máy quyền lực Nhà nước nhằm đáp ứng ngày càng cao lợi ích của nhân
dân và của toàn dân tộc. Điều này thể hiện tính ưu việt của chế độ Xã hội
chủ nghĩa so với các chế độ khác.
3_Trong Nhà nước pháp quyền chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực Nhà
nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan chức
năng của Nhà nước để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Đây là phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước rất mới mẻ ,

chúng ta phải lấy hiệu quả thực tiễn để kiểm nghiệm. Về nguyên tắc, chúng
ta không thừa nhận học thuyết “tam quyền phân lập”vì nó máy móc, thơ
cứng theo kiểu các quyền hồn tồn độc lập, khơng có sự phối hợp, thậm chí
đi đến đối lập, hạn chế sức mạnh của cơ quan lập pháp,hành pháp và tư
pháp.Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể trở lại với nguyên tắc tập quyền,
tức là tập trung toàn bộ quyền cao nhất của nhà nước lập pháp ,hành pháp và
tư pháp cho một cá nhân hoặc một cơ quan tổ chức nhà nước. bởi vì, chúng
ta làm như vậy là đi ngược lại sự tiến bộ của nhân loại.

Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền

15


Vấn đề đặt ra yêu cầu chúng ta phải nghiên cứu giải quyết đó là Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có sự phân cơng ,phân
định thẩm quyền cho rõ ràng,minh bạch để thực hiện có hiệu quả với chất
lượng cao ba quyền, tránh tình trạng chồng chéo, tùy tiện lạm quyền…
Theo Hiến pháp và pháp luật, Quốc hội là cơ quan duy nhất đươc giao
thực hiện thẩm quyền lập pháp, bên cạnh đó Quốc hội còn được giao thực
hiện 13 nhiệm vụ nữa(Điều 12 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001); Chính
phủ được phân cơng thực hiện thẩm quyền hành pháp;Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Tịa án nhân dân tối cao được phân cơng thực hiện thẩm quyền
tư pháp. Như vậy Chính phủ, Viện kiển sát nhân dân tối cao,Tòa án dân
nhân tối cao không phải là cơ quan đươc giao nhiệm vụ lập pháp, nhưng
hiện nay Luật Tổ chức Chính phủ, luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tối
cao,Luật Tổ chức Tòa án nhân dân lại quy định các cơ quan đó trình các dự
án luật, pháp lệnh trước Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Có ý
kiến cho rằng, khơng nên giao cho Chính phủ ,Viện kiểm sát nhân dân ,Tịa
án nhân dân tối cao chủ trì soạn thảo và trình Quốc hội các dự án luật,pháp

lệnh vì đây là thẩm quyền của Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;
hơn nữa,khái niệm lập pháp phải bao hàm tồn bộ nội dung của q trình
soạn thảo dự án luật, thơng qua và ban hành luật, có như vậy mới bảo đảm
tính khách quan tồn diện và chất lượng của văn bản pháp luật.
4_Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt
dộng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Một trong số nội dung cơ bản nhất
của nguyên tắc tập trung dân chủ là thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục
tùng cấp trên. Tập trung dân chủ được thể hiện trong quá trình tổ chức và
xây dựng bộ máy nhà nước.Tuy nhiên khi áp dụng nguyên tắc này cần cân
nhắc,xem xét các điều kiện cần và đủ để phát huy tác dụng, hiệu quả tích
cực của nguyên tắc này; đặc biệt phải lưu ý đến quyền hạn và trách nhiệm cá
nhân trong việc thực hiện công vụ của bộ máy công quyền hiện nay.
Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền

16


5_ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có trách nhiệm
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, cơng dân phải làm trịn
nghĩa vụ của mình đối với nhà nước và xã hội. Mối quan hệ qua lại giữa
nhà nước với công dân, giữa dân chủ với kỉ cương trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải do pháp luật quy định và điềi chỉnh.
Đây là một đặc điểm quan trọng, xun suốt trong tồn bộ q trình xây
dựng nhà nước pháp quyền hiện nay và phải được thực hiện trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
6_Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý xã hội
chủ yếu bằng pháp luật, không ngừng tăng cường và đổi mới công tác lập
pháp ,hành pháp và tư pháp; đồng thời,thường xuyên quan tâm đến việc
tuyên truyền ,giáo dục pháp luật,nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân.
7_Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà Nước và xã

hội. Đây là đặc điểm nổi bật của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được Hiến pháp ghi nhận và nhân dân Việt Nam đồng tình ủng
hộ. Đảng lãnh đạo nhà nước thơng qua cương lĩnh ,đường lối, chính sách
được thể chế bằng pháp luật. Đảng không làm thay Nhà nước và phải hoạt
động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Đảng khơng ngừng đổi
mới phương thức lãnh đạo của mình nhằm tạo đều kiện cho bộ máy nhà
nước hoạt động có hiệu quả, đặc biệt trong điều kiện xây nền dựng kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác,Đảng không ngừng đổi
mới công tác tổ chức và xây dựng bộ máy để bảo đảm Đảng vẫn giữ được
vai trị lãnh đạo nhà nước, nhưng khơng chồng chéo với các cơ quan chức
năng tương ứng trong bộ máy của Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan tư
pháp.
Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền

17


Sự kết hợp giữa các đặc điểm chung trên thế giới với các đặc điểm
riêng phù hợp với thực trạng đất nước Việt Nam đã và đang từng bước trên
con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội ,với mơ hình Nhà nước pháp quyền,
nền dân chủ ở Việt Nam đã đảm bảo được những vấn đề cơ bản về quyền
con người.Tiêu chí xã hội mang tính nhân văn.Mà trong đó,Pháp luật là
thước đo cơ bản, là cách thức, biện pháp cho việc vận hành bộ máy nhà
nước.
IV_ SỰ KHÁC NHAU GIỮA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VỚI NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TƯ SẢN
Như chúng ta đã biết, Nhà nước pháp quyền là mơ hình nhà nước
mang tính dân chủ, đặc biệt hơn, mơ hình nhà nước này chỉ tồn tại trong xã
hội có tính dân chủ ,đó có thể là dân chủ Tư sản hoặc dân chủ Xã hội chủ
nghĩa.Trên cơ sở các tiêu chí chung về Nhà nước pháp quyền ,chúng ta có

thể nhận thấy tương đối rõ ràng sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa với Nhà nước pháp quyền Tư sản:
1_ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền
Tư sản đều phải thừa nhận phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ
máy nhà nước do Pháp luật quy định. Tuy nhiên, bản chất và nội dung pháp
luật về tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước đó có nhiều khác
nhau cơ bản. Rõ nhất là sự khác nhau trong các quy phạm của Hiến pháp và
pháp luật về tổ chức ,cơ cấu nhân sự và việc xây dựng,vận hành bộ máy
quyền lực như: Quốc hội và Nghị viện,Tổng thống và Chủ tịch nước,Thủ
tướng Chính phủ,Tịa án,Tóa án hiến pháp…Pháp luật trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa thừa nhận tất cả các quyền lực của Nhà nước thuộc
về nhân dân, do nhân dân bầu ra các cơ quan quyền lực (Quốc hội,Chính
phủ…)chỉ có nhân dân trực tiếp hoặc thơng qua các đại biểu của mình là chủ
thể duy nhất có quyền tuyên bố ,chấm dứt hoạt động của Quốc hội,Chính
Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền

18


phủ hoặc tổ chức ra Quốc hội,Chính phủ nhiệm kì mới.Trong khi đó,Hiến
pháp và Pháp luật Tư sản lại thừa nhận quyền lực cá nhân, Tổng thống hoặc
cá nhân Thủ tướng có quyền giải tán Nghị viện (Quốc hội) hoặc giải tán
Chính phủ…
2_Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước và cơng
dân đều phải thừa nhận tính tối cao của Pháp luật vì Pháp luật Xã hội chủ
nghĩa thể hiện ý chí ,nguyện vọng của tồn thể nhân dân. Trong Nhà nước
pháp quyền Tư sản, Nhà nước và cơng dân cũng phải thừa nhận tính tối cao
của Pháp luật,nhưng Pháp luật Tư sản không phải là Pháp luật của tồn dân,
nó khơng thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của tồn dân mà chỉ phản ánh
ý chí,nguyện vọng của một bộ phận nhân dân là những người giàu và giai

cấp Tư sản. Nói cách khác,luật pháp của Nhà nước pháp quyền Tư sản chỉ
bảo vệ lợi ích cho giai cấp Tư sản và gạt ra ngoài lề quyền lợi người lao
động.Những người bị áp bức bóc lột. Đây là nội dung khác biệt cơ bản nhất
giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền Tư
sản.
3_Nhà nước pháp quyền Tư sản coi thuyết “Tam quyền phân lập”là
học thuyết cơ bản trong việc thực hiện quyền lực Nhà nước, các cơ quan lập
pháp,hành pháp và tư pháp hoàn toàn độc lập với nhau trong việc thực hiện
3 quyền:lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước pháp quyền không chấp
nhận việc phân chia quyền lực mà coi quyền lực Nhà nước là thống nhất và
thuộc về nhân dân. Trong đó có sự phân công và phối hợp để thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm đảm bảo cho quyền lực nhà
nước thống nhất, được thực hiện với hiệu quả cao nhất.
Về hệ thống pháp luật của Nhà nước pháp quyền Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt Nam và Nhà nước pháp quyền tư sản cũng có nhiều điểm khác nhau.
Bên cạnh sự khác nhau về tính giai cấp, Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ
Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền

19


Nghĩa Việt Nam chỉ công nhận các quy phạm pháp luật khi nó được sự xác
lập và thơng qua theo một trình tự và thủ tục nhất định ; trong khi đó, Nhà
nước pháp quyền tư sản thường coi các loại “ tập quán” như một quy phạm
pháp luật “ bất thành văn”.
Như vậy, xét về mặt bản chất Nhà nước pháp quyền Xã Hội Chủ
Nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản đều mang tính dân chủ, nhưng Nhà
nước pháp quyền Xã Hội Chủ Nghĩa và Nhà nước pháp quyền tư sản khơng
hồn tồn giống nhau: Nhà nước pháp quyền tư sản còn nhiều hạn chế về
quyền dân chủ, vấn đề “ pháp quyền” thiếu đồng bộ vì thế Nhà nước pháp

quyền tư sản không thể trở thành mô hình Nhà nước kiểu mẫu. trong khi đó
nhà nước pháp quyền Xã Hội Chủ nghĩa thể hiện nhiều nét tích cực hơn, dân
chủ và tiến bộ hơn. Tuy nhiên nhà nước pháp quyền vẫn chưa phải là mơ
hình phổ biến trong giai đoạn hiện nay. Vậy vấn đề được đặt ra là : “ tại sao
nhà nước pháp quyền Xã Hội Chủ Nghĩa đó khơng trở thành hiện tượng phổ
biến?” phải khẳng định nhà nước pháp quyền là sản phẩm của nền dân chủ
về chính trị, tại đó con người tự do trong việc lựa chọn các khuynh hướng
chính trị, khi đó sẽ rất khó khăn cho việc xây dựng một nền dân chủ, mà
chắc hẳn nhà nước phi dân chủ thì khơng thể xây dựng nên nhà nước pháp
quyền. Đó là bởi vì những quốc gia này pháp luật không phải là sản phẩm
của sự thỏa thuận xã hội mà lại là những kết quả của ngẫu hứng chính trị.
Nói cách khác tồn bộ q trình lập pháp, hành pháp và tư pháp ở những
nhà nước phi chính phủ thường bị thao túng bởi lực lượng chính trị nhất
định, không rành mạch về nguyên tắc và không hợp pháp về địa vị. rõ ràng,
chừng nào pháp luật còn bị xây dựng và sửa đổi dựa trên những nhận thức
chính trị chủ quan của những người cầm quyền thì khơng thể nào tạo ra
trạng thái ổn định của quyền lực pháp luật, tức là không thể xây dựng nhà
nước pháp quyền theo đúng nghĩa.

Vấn Đề pháp lý về Nhà nước pháp quyền

20



×