Phân tích tâm trạng và hành động nhân vật A Phủ
Dàn ý Phân tích tâm trạng, hành động nhân vật A Phủ
I. Mở bài:
- Đôi nét về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu nhân vật
II. Thân bài:
* Xuất thân của A Phủ
- Khốn khó, mồ cơi cha mẹ, sống tự do, khỏe mạnh, siêng năng, giàu bản lĩnh,
nhưng không kiêu ngạo, là “con trâu tốt” của bản mường nhưng vì nghèo nên
khơng lấy được vợ. Trích câu dân làng nói về A Phủ.
- Là con người không bao giờ lùi bước trước cường quyền, bạo chúa. A Phủ
biết A Sử là con thống lí nhưng vẫn ra tay đánh, vẫn phải trừng trị kẻ xấu, kẻ
gây rối.
* Trải qua những ngày tháng đọa đày cùng cực trong nhà Thống Lý
- Sau việc đánh con quan làng, A Phủ đã nhận lấy những trận đòn kinh người
của nhà Thống Lý, A Phủ dù bị đánh đập nhưng không hề kêu van xin tha đến
nửa lời. Anh rất cứng đầu, mạnh bạo và không chịu khuất phục.
- Bị phạt vạ, A Phủ thành người ở không công quần quật với công việc: “đốt
rừng, cày nương, cuốc mương, săn bị tót, bẫy hổ, chăn bị, chăn ngựa, quanh
năm một thân một mình bơn ba rong ruổi ngồi gị ngồi rừng”. Nhưng anh
khơng hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn chúa đất đày đọa, áp bức nhân
dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì chính A Phủ cũng khơng có gia
đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây lên tội thì cũng phải chịu phạt
- Khi hổ vồ mất bò, A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ.
Nhưng cuối cùng anh đành phải tự tay đóng cọc để người ta trói mình. Đau
khổ cùng cực đến nỗi khi Mị nhìn sang thì thấy “một dòng nước lấp lánh bò
xuống hai hõm má đã xám đem lại”, “thở phè từng hơi, không biết mê hay
tỉnh”.
* Nổi bật ở A Phủ là một sức phản kháng mãnh liệt:
- Điều này thống nhất với bản tính gan góc từ nhỏ: cả nhà chết hết vì bệnh
dịch, làng chết và đói nên “người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi
lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới mười tuổi, nhưng A Phủ
ngang bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp. A Phủ trốn lên núi, lưu lạc
ở Hồng Ngài”
- Trong đêm tình mùa xuân, trước việc gây chuyện của đám trai làng do A Sử
cầm đầu, A Phủ đã gan góc ” vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử”,
“xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo đập đầu xuống đất, xé vai áo, đánh tới tấp”.
Hành động này thật dũng cảm, dẫu chỉ là bộc phát. A Phủ thể hiện mình khơng
chịu nhục trước thế lực cường quyền.
- Đặc biệt khi được Mị cởi trói, mặc dù rất đau đớn đến “khụy xuống, khơng
bước nổi”, trong người khơng cịn sức lực do phải chịu cực hình, trói đứng và
nhịn đói, nhưng anh đã “quật sức vùng lên chạy”; cùng với Mị tự giải thoát khỏi
nhà thống lý. Khát vọng, sức sống từ người phụ nữ cùng cảnh ngộ đã thổi
bùng trở lại sức sống và khát vọng tự do nơi người con trai mang bản chất tốt
đẹp này.
* Đánh giá
- Nếu Mị là kiểu nhân vật tâm lý thì A Phủ lại là nhân vật hành động táo bạo,
quyết liệt.
- Khi miêu tả A Phủ, nhà văn phối hợp vừa tả vừa kể, nhấn mạnh các chi tiết
cụ thể, ấn tượng để khắc họa những đặc điểm, tính cách nhân vật.
- Cùng với Mị, A Phủ đã góp phần hồn thiện chân dung con người miền núi
Tây Bắc: Số phận đau thương nhưng giàu sức sống, tình cảm và khát vọng
- Người đọc cũng mong có một kết thúc tốt đẹp đến với A Phủ và Mị. Bởi họ
là những con người không chịu khuất phục trước cường quyền gian ác. Nếu
chị Dậu trong “Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố chạy ra khỏi nhà lý thống trong đêm
tối, cái đêm đen cũng đen như cuộc đời của chị, người ta mong chị sẽ gặp
được ánh sáng soi rọi của cách mạng, thì ở đây, người đọc cũng mong A Phủ
và Mị chạy thoát khỏi nhà lý thống, gặp được ánh sáng của Cách mạng ở cuối
đường.
III. Kết bài:
- Khi miêu tả nhân vật A Phủ, nhà văn miêu tả qua những hành động khi bị
đánh đập, để thấy được sức sống kiên cường của anh. Số phận của nhân vật
A Phủ cũng giống như số phận của bao người dân miền núi khác, như Mị. Họ
đã phải luôn đấu tranh giành lại hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực,
cay đắng. Nhưng họ đã đấu tranh để tự giải phóng bằng sức mạnh quật khởi
Phân tích tâm trạng, hành động nhân vật A Phủ - mẫu 1
“Tây Bắc ư, có riêng gì Tây Bắc
Khi lịng ta đã hóa những con tàu”
Những câu thơ của Chế Lan Viên gợi nhắc cho bạn đọc về một vùng đất
Tây Bắc với nhiều hoang sơ, bí ẩn. Khám phá Tây Bắc đâu chỉ có những hồn
thơ của Chế Lan Viên. Ta còn từng bắt gặp Tơ Hồi với riêng một tập truyện
viết về phong tục về thiên nhiên và con người Tây Bắc. Trong đó truyện ngắn
Vợ chồng A Phủ là một trong ba truyện ngắn tiêu biểu nhất của tập truyện Tây
Bắc. Truyện ngắn thành cơng trong việc xây dựng hình tượng nhân vật và A
Phủ là nhân vật tiêu biểu trong toàn bộ câu chuyện.
Tơ Hồi là một nhà văn lớn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số
lượng tác phẩm đạt đến kỷ lục. Hầu hết sáng tác của Tô Hoài thiên về diễn tả
sự thật của đời thường với trần thuật hóm hỉnh, sinh động hấp dẫn. Sáng tác
của ông thể hiện sự am hiểu sâu sắc về cuộc sống con người phong tục cũng
như sinh hoạt của người dân Tây Bắc.
Vợ chồng A Phủ được trích từ tập truyện Tây Bắc sau chuyến đi thực tế
của Tơ Hồi năm 1952 trong một lần lên Tây Bắc. Truyện hướng tới phản ánh
số phận của những người lao động miền núi Tây Bắc, đi từ số phận khổ đau
đến cuộc đời mới tự do.
A Phủ là chàng trai người H’mông nghèo khổ bất hạnh. Mồ côi cả cha
lẫn mẹ từ nhỏ, bị người làng đem bắt bán cho người Thái ở dưới thấp, sau đó
A Phủ trốn ngược về vùng cao và sống lưu lạc khắp vùng Hồng Ngài, đi ở cho
hết nhà này đến nhà kia. Đến tuổi trưởng thành, A Phủ vẫn nghèo, chỉ có hai
bàn tay trắng nên khơng lấy nổi vợ.
Nhưng A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh, cường tráng, cần cù, dũng
cảm và tài ba: đốt rừng, làm nương, cuốc nương, chăn bò, bẫy hổ, chăn bò,
chăn ngựa, quanh năm một thân một mình tăng và biết đục cuốc. Đặc biệt, A
Phủ luôn khao khát cuộc sống tự do phóng khống. Ngay từ khi mới lên mười,
cậu bé A Phủ đã không chịu sống cùng người Thái dưới chân núi mà muốn
trở lại vùng cao, chấp nhận cuộc sống nơi nay đây mai đó nhưng được là con
chim của núi rừng tự do. Từ một chàng trai tràn đầy sinh lực, bản tính mạnh
mẽ, kiên cường ln khao khát cuộc sống tự do, phóng khống. A Phủ bị giai
cấp thống trị tàn bạo cột chặt vào kiếp đời nô lệ đau đớn tủi nhục. Nhưng nếu
như nỗi khổ của Mị triền miên, dai dẳng, thầm lặng thì nỗi khổ của A Phủ được
miêu tả tập trung qua hai cảnh đó là cảnh sự kiện phạt và và cảnh A Phủ bị
trói đứng vì làm mất bị. Cảnh sự kiện phạt vạ diễn ra chỉ vì A Phủ đã dám
đánh lại con quan chính là A Sử rồi khiến cho A Phủ bị bắt về nhà thống lý
chịu kiện. Một phiên tòa đặc biệt lạ lùng và tàn bạo đến mức chưa từng có.
Cơng đường là nhà thống lí, quan tịa lại chính là thống lí Pá Tra. Thành phần
tham gia xét xử đông đảo với đầy đủ chức sắc trong vùng, trịnh trọng trang
nghiêm, chỉ có nằm hút thuốc phiện và ăn cỗ. Nhân trứng lại là đám trai làngnhững cơng cụ của thống lý. Cịn bị cáo A Phủ thì khơng được trình bày, khơng
được nghe luận tội mà chỉ ln quỳ im mà chịu địn. khơng khí phiên tịa diễn
ra đầy nhốn nháo, náo loạn của tiếng kể, chửi bới, đấm đá và tiếng rít thuốc
phiện, khói thuốc phiện ngào ngạt tuồn qua các ơ cửa. Kết thúc xử kiện, A Phủ
phải chịu một số tiền phạt và khổng lồ và phi lý.
Ngoài tiền cho người bị đánh, cũng phải trả toàn bộ tiền cho các quan,
cho người đi gọi các quan về, toàn bộ số tiền hút thuốc phiện từ hôm qua đến
hôm sau và cả một con lợn cho làng ăn cỗ. Tất cả lên tới một trăm đồng bạc
trắng và Pá Tra thừa biết A Phủ khơng thể nào có tiền trả cho nên hắn đã cho
A Phủ vay nợ, suốt đời làm trâu làm ngựa trả nợ cho hắn: đời mày, đời con,
đời cháu mày bao giờ hết nợ tao mới thôi”.
Để sợi dây trói buộc thêm chắc chắn khi thì Pá Tra gọi con ma về nhận
mặt người vay nợ rồi toàn bộ số bạc cho A Phủ vay lại hoàn nguyên vào túi
của thống lý. Cuộc sống nô lệ tủi nhục của A Phủ bắt đầu từ giây phút ấy. Đau
đớn, chân bước đi tập tễnh, A Phủ phải cầm dao đi giết lợn làm cỗ cho những
kẻ vừa đánh đập chửi bới phạt vạ mình. Và từ một chàng trai khỏe mạnh, dũng
cảm, khao khát cuộc sống tự do, A Phủ đã phải sống một kiếp đời như trâu
ngựa cùng với đàn trâu đàn ngựa nhà thống lý. Qua cách sự kiện phạt vạ, nhà
văn Tơ Hồi đã tố cáo bản chất tham lam, độc ác của giai cấp thống trị miền
núi. Chúng đã dùng mọi thủ đoạn thâm độc để áp mức cột chặt những con
người lao động tự do vào kiếp đời nơ lệ để bóc lột họ đến kiệt cùng.
Chỉ vì sơ ý làm mất một con bò nhà thống lý mà A Phủ phải chịu một
hình phạt thật thảm khốc. Nỗi khổ nhục của A Phủ trước hết là tự tay đào lỗ
chôn cột, lấy dây mây để cho người khác trói mình. A Sử đã trói A Phủ một
cách tàn nhẫn: trói đứng A Phủ bằng một cuộn dây mây đến khi thống lý vào
lại thòng thêm hai thòng lòng vào cổ làm cho A Phủ không cựa quậy được rồi
bỏ mặc A Phủ trong đau đớn, đói rét cho tới chết để đền mạng cho con bị của
gia đình thống lý.
Qua đó, ta thêm hiểu về tội ác dã man tàn bạo của giai cấp thống trị
miền núi Chúng coi sinh mạng của con người không bằng con vật và càng
hiểu thêm nỗi thống khổ con người lao động khi bị đẩy vào kiếp đời nơ lệ. Họ
đã bị tước đoạt hồn tồn quyền sống, quyền làm người. Khi còn là một cậu
bé lên mười, A Phủ chấp nhận sống nghèo khổ đi ở cho hết nhà này đến nhà
khác để sống tự do và khi chứng kiến A Sử quấy rối phá đám cuộc chơi, A
Phủ đã đánh hắn dù biết rằng đó là con quan. Trong cảnh xử kiện tàn bạo của
thống lí Pá Tra, A Phủ khơng khóc, khơng kêu rên mà chỉ quỳ yên như cái
tượng đá để chịu đòn. Trước thế lực cường quyền ghê gớm, A Phủ đã bất lực
phải chịu đựng nhưng ẩn trong thái độ đó là sự thách thức sự phản kháng
ngầm. Trong đêm A Phủ bị trói đứng, chàng trai ấy đã nhay đứt mấy vịng dây
mây để tự giải thốt cho mình. Chỉ khi bị cho thêm hai thòng lọng vào cổ, A
Phủ mới bất lực. Sức mạnh của tinh thần phản kháng và lòng khao khát rõ
nhất khi A Phủ được Mị cởi trói. A Phủ đã ngã quỵ xuống vì kiệt sức nhưng
sau đó A Phủ đã quật tức vùng lên chạy khỏi nhà thống lí. Có lẽ lịng khao
khát được sống, được tự do và tinh thần phản kháng ở chàng trai nô lệ ấy đã
tạo nên nguồn sức mạnh vô biên khiến cho A Phủ không chỉ được cứu mình
mà cịn cứu được Mị chạy trốn khỏi nhà thống lí Pá Tra, để được sống tự do
chấm dứt kiếp đời nô lệ.
Tơ Hồi đã xây dựng nhân vật A Phủ bằng bút pháp điển hình hóa, vừa
cụ thể vừa khái qt. Cả A Phủ và Mị đều có những phẩm chất số phận tương
đồng nhưng cách khắc họa nhân vật của nhà văn đã có những thay đổi và
sáng tạo để phù hợp với con người hiện thực. A Phủ là được khắc họa qua
ngôn ngữ và hành động. Những biểu hiện, lời nói và hành động của A Phủ
thường ngắn gọn, dứt khốt quyết liệt rất phù hợp với tính cách và góp phần
thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.
Khép lại trang viết về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ với hình ảnh của A
Phủ và Mị đã để lại trong người đọc nhiều suy nghĩ. Nhà văn đã rất thành cơng
khi tái hiện được hình ảnh của A Phủ và Mị với những sức sống với sức mạnh
phản kháng vươn lên mạnh mẽ bất chấp hoàn cảnh. Tác phẩm sẽ sống mãi
cùng với thời gian và đồng hành cùng bạn đọc các thế hệ.
Phân tích tâm trạng, hành động nhân vật A Phủ - mẫu 2
“Vợ chồng A Phủ” là kết quả của một chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của
Tơ Hồi. Đây là tác phẩm phản ánh đậm nét nhất cuộc sống và những số phận
bất hạnh của những người nông dân nghèo dưới ách áp bức bóc lột của địa
chủ phong kiến. Nhưng nổi bật hơn nữa chính là khát vọng, là nghị lực sống
mãnh liệt của họ. A Phủ là nhân vật để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm
về sự vượt lên chính mình. Tơ Hồi đã rất thành công khi khắc họa nhân vật
này.
A Phủ không phải là nhân vật xuất hiện ngay từ đầu câu chuyện nhưng
dường như lại khiến người đọc ám ảnh cho mãi đến về sau. A Phủ với những
tính cách, phẩm chất vừa khiến người ta xót thương vừa khiến người ta
ngưỡng mộ hơn. Tơ Hồi đã để cho A Phủ xuất hiện trong lần cọ xát, đánh
nhau với A Sử, sau đó bị bắt và bị đánh đập dã man. Tiếp theo đó tác giả
ngược dịng kể về hồn cảnh của A Phủ. A Phủ phải chịu đựng sự cơ cực, vất
vả những năm tháng ấu thơ. Trận dịch đậu mùa khi A Phủ mười tuổi đã cướp
đi gia đình, bố mẹ, anh chị em. Để lại một mình A Phủ bơ vơ, cù bất cù bơ.
Tình cảnh ấy thật khiến người đọc xúc động. Đáng buồn hơn nữa có người đã
đem A Phủ đi bán đổi lấy thóc. Nhưng tính cách gan góc, ngang bướng của A
Phủ thì nó khơng thể trói buộc được anh. A Phủ đã trốn lên Hồng Ngài, làm
thuê làm mướn từ mùa này sang mùa khác. Sự cơ cực ấy đã được rèn luyện
suốt bao nhiêu năm, A Phủ thành một chàng thanh niên gan dạ, dũng cảm
đương đầu với số phận. Đây chính là một trong những điều tạo nên sự bứt
phá về sau của cuộc đời A Phủ.
Từ khi trưởng thành, A Phủ đã chứng tỏ mình là một người gan góc, liều
lĩnh, khơng chịu khuất phục, luôn chiến đấu với bản thân để vươn đến những
điều tốt đẹp nhất “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc lại cày giỏi và săn bắn bị tót
rất bạo”. Chính nghị lực và sức khỏe của A Phủ đã khiến cho nhiều người yêu
mến anh. Dù nghèo đói, cơ cực nhưng A Phủ luôn sống lạc quan, tự tin vào
tương lai phía trước. Vào những ngày Tết, “ A phủ chỉ có độc một chiếc vịng
cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao
đi tìm người yêu ở các làng trong vùng”. Chính điều này đã tạo nên ấn tượng
cho nhiều cô gái. Nhưng A Phủ lại là người không cha không mẹ, không tiền
không bạc, không ruộng nương thì lấy vợ là chuyện q xa xơi. Một người
đáng lẽ phải được hưởng hạnh phúc nhưng cuối cùng vẫn cơ độc như thế. Có
lẽ hình ảnh A Phủ đánh A Sử khiến người đọc vừa dồn dập, vừa thương cảm
cho con người này “A Phủ chạy vụt ra, vung tay ném con quay to vào mặt A
Sử. A Sử vừa kịp vung tay lên, A Phủ đã xông tới, nắm cái vòng cổ dập đầu
xuống áo đánh tới tấp”. Hành động này vừa chứng tỏ A Phủ rất khỏe mạnh,
vừa không hề sợ bọn địa chủ phong kiến tàn bạo. Nhưng đây cũng chính là
nguyên cớ tạo nên mối thù sâu sắc giữa người nông dân nghèo và tầng lớp
địa chủ, quý tộc. A Phủ đã bị thống lý Pá Tra đánh đập dã man, tàn bạo từ
trưa đến đêm.Có thể nói nhà thống lý chính là hiện thân của xã hội phong kiến
nhiều hủ tục, sự phân biệt giai cấp nặng nề, coi thường những người nông
dân thấp cổ bé họng. Chúng coi A Phủ như một con vật, khơng hơn khơng
kém. Bộ dạng A Phủ lúc đó thật thảm hại và đáng thương “A Phủ chỉ im lặng
như tượng phật”. Sự im lặng đó chính là sự căm phẫn, uất ức đến tột độ nhưng
cũng không thể làm điều gì hết.
Chỉ vì hành động đó mà A Phủ đã phải làm nô lệ suốt đời cho nhà thống
lý. Xã hội bây giờ dường như chỉ tìm cách đẩy người nông dân bần cùng xuống
dưới đáy của xã hội mới hả hê, mới yên long. Đến đây chúng ta lại liên tưởng
đến nhân vật Mị, có lẽ A Phủ cũng như Mị, sống lay lắt héo hon trong ngơi nhà
đầy ốn hận này.
Cuộc đời của A Phủ cũng giống như Mị, từ đây sống hay chết cũng đều
phó mặc cho nhà thống lý. A Phủ khơng có quyền lựa chọn cho mình con
đường đi, khơng được chọn hạnh phúc cho mình. Suốt một đời này phải làm
trâu làm ngựa cho nhà thống lý. Một sự thật nghiệt ngã đến đau long. Tơ Hồi
đã khiến người đọc không khỏi xúc động. Bằng ngôn ngữ đặc tả, tác giả đã
tạo nên sự riêng biệt của A Phủ.
Bi kịch này nối tiếp bi kịch khác, chỉ vì để hổ vồ mất bị mà thống lý đã
bắt trói A Phủ và đánh đập dã man. Sự đau khổ và tuyệt vọng in hằn trong đôi
mắt ấy, đôi mắt ám ảnh người đọc đến tận tâm can. Cái chết hiển hiển trong
tâm trí A Phủ và A Phủ ý thức rất rõ được điều này. Có lẽ chính vì ý thức này
đã làm nên sự vượt phá ở cuối tác phẩm khi Mị quyết định cởi trói và bỏ trốn
cùng A Phủ. Có lẽ đây là đoạn văn khiến cho người đọc vừa hồi hộp, vừa xót
xa vừa khâm phục.Con người ta khi bị bóc lột quá sức sẽ vùng lên đấu tranh
để đi tìm con đường riêng. A Phủ thực sự đã làm được. Thoát khỏi nhà thống
lý, A Phủ sẽ thành một người cơng dân có ích cho đất nước, đi theo tiếng gọi
của cách mạng.
Như vậy, Tơ Hồi đã rất thành công khi xây dựng nhân vật A Phủ, hình
tượng điển hình của người nơng dân trong xã hội phong kiến bị áp bức nhưng
lại có khát khao sống mãnh liệt.
Phân tích tâm trạng, hành động nhân vật A Phủ - mẫu 3
Vợ chồng A Phủ là một tác phẩm tiêu biểu khi tác giả Tơ Hồi viết về đề
tài Tây Bắc. Tác phẩm đặc sắc này sau đó đã được dựng thành phim và được
đơng đảo khán giả đón nhận. Cùng với đó, những nhân vật ở trong tác phẩm
Vợ chồng A Phủ, đã trở thành những nhân vật điển hình. Trong đó nổi bật lên
là hình tượng A Phủ, mang những vẻ đẹp của người Tây Bắc và bản lĩnh dám
vượt lên số phận.
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tơ Hồi mở đầu khi giới thiệu nhân nhân
vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả: "Ai ở xa về, có dịp
vào nhà thống lí Pá Tra thường trơng thấy có một cơ gái ngồi quay sợi gai bên
tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ
ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt,
mặt buồn rười rượi". Và từ một hình ảnh đó, để rồi khi liên kết xâu chuỗi với
nhau, tác giả làm nổi bật được hình tượng nhân vật trong tác phẩm, mà chính
hình ảnh này cũng khiến cho Nhân vật A phủ và Mị có duyên gặp nhau. A Phủ
xuất hiện trong hồn cảnh mà thật ối oăm, A Phủ đã xô xát đánh nhau với A
Sử, con trai của thống lí Pá Tra, và chính vì điều này, A Phủ bị bắt về bị đánh
đập tàn nhẫn. Sau tình huống này tác giả mới bắt đầu giới thiệu về hoàn cảnh
của A Phủ, chàng là người nghèo khổ, mất hết cả cha lẫn mẹ, sống kiếp mồ
cơi khơng ai chăm sóc. Và trớ trêu hơn khi người làng đói đã bắt A Phủ xuống
bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng. Nhưng không cam chịu với
số Phận, A Phủ 10 tuổi đã một mình kiếm sống, học hỏi nhiều nghề để phụ trợ
cho bản thân. Từ khi còn bé, với số phận chua xót, A Phủ đã biết vượt lên và
chống chọi với số phận chứ không để số phận khiến anh có một số phận trớ
trêu. Sức sống tiềm tàng của một người đã sớm được bộc lộ, không chỉ khi
nhỏ mà khi lớn lên, A Phủ là một chàng thanh niên nổi bật, hiền lành và chăm
chỉ lao động. Không những thế, A Phủ dưới lời miêu tả của Tô Hồi là một
người có sức khỏe hơn người.
A Phủ cịn là một con người có đời sống phóng khống, u đời và chính
nghĩa, bởi vì thế nên khi có chuyện bất bình, dù biết phần thiệt sẽ thuộc về
mình và khơng biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng A Phủ vẫn quyết làm điều đó.
Ta thấy ở đây A Phủ là một con người liều lĩnh và chí khí.
Hơn vậy, chính vì lối sống phóng khống, sức khỏe hơn người nên anh
có nhiều người để ý. Nhiều cơ gái lấy làm yêu quý A Phủ nhưng vì tập tục cưới
khắc nghiệt ở xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ bị người ta khinh
thường và một lí do nữa, A Phủ làm sao có đủ tiền mà hỏi và cưới vợ.
Khi bị bắt về nhà thống lí Pá Tra, A Phủ trở thành nô lệ cho nhà thống lí,
và với bản năng của mình, A Phủ khơng than, không van xin lấy một lời, A Phủ
không bao giờ chịu khuất phục dù trước mình là ai. A Phủ bị đánh rất tàn nhẫn,
mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. "Cứ như thế, suốt chiều,
suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút". Những câu
văn rất chân thực để miêu tả lại cảnh xử kiện độc đáo ấy, có đến vài lần nhà
văn nhắc đến hình ảnh khói thuốc phiện tn ra các lỗ cửa sổ, ơng cịn sử
dụng những câu văn mang tính chất liệt kê và phép lặp cú pháp để nhấn mạnh
tính chất dã man của cường quyền trong nhà Pá Tra đối với người dân ở miền
núi Tây Bắc thời kì phong kiến thực dân thống trị. Bị phạt vạ, A Phủ thành
người ở không công quần quật với hàng núi cơng việc. A Phủ có thể đốt rừng,
cày nương, vỡ nương, săn bị tót, bẫy hổ, chăn bị, chăn ngựa, quanh năm
một thân một mình rong ruổi ngồi gị ngồi rừng, có những khi đói rừng, hổ
gấu thường tìm đến các đàn trâu bị dê ngựa, A Phủ phải ở lều luôn hàng
tháng trong rừng. Nhưng anh khơng hề nói lại nửa lời mà chấp nhận vì bọn
chúa đất đày đọa, áp bức nhân dân quá trơ trẽn. A Phủ chấp nhận cũng vì
chính A Phủ cũng khơng có gia đình, có nhà, hơn nữa, anh đã gây nên tội thì
cũng phải chịu phạt. Nhưng khi có một vụ việc xảy ra đó là khi hổ vồ mất bị,
A Phủ nhất quyết cãi lại lời Thống Lý, quyết tâm đi bắt hổ. Nhưng cuối cùng
anh đành phải tự tay đóng cọc và lấy một cuộn dây mây để người ta trói mình.
Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng anh đúng là đã bị coi thường, anh phải
thế mạng cho một con bò đã bị hổ ăn thịt. Và giọt nước mắt trên hõm má đã
xám đen lại của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và
tuyệt vọng.
Tuy vậy chúng ta thấy được ở A Phủ có một sức phản kháng rất mạnh
mẽ,nó được ni dưỡng từ khi cịn bé cơ cực. Anh chịu đánh trong lúc xử kiện
vì anh gây ra tội nhưng khi anh đánh mất bị thì anh sẵn sàng muốn lấy cơng
chuộc tội và anh tin rằng mình sẽ bắt được con hổ. Bị trói từ chân đến vai
nhưng đêm đến anh đã cúi xuống nhay đứt hai vòng dây mây, anh tìm cách
để tự giải thốt mình. Cùng lúc đó khi được Mị cứu, lúc ấy anh đã kiệt sức, vì
mấy ngày bị trói, bị đói khát, đau đớn. Nhưng vì cái chết sẽ có thể đến ngay,
anh đã quật sức vùng dậy chạy để thốt khỏi xiềng xích nhà thống lí, thốt
khỏi cuộc đời nơ lệ. Khi mà Mị chạy theo muốn đi cùng A Phủ thì A Phủ để cho
Mị đi theo, anh không những cứu được mình mà cịn cứu được cả Mị. Sau khi
vượt khỏi nhà thống lí, A Phủ đã tìm tới vùng đất mới để sinh sống. Ở đây,
anh cũng như nhiều người dân khác phải chịu cuộc sống vô cùng khổ cực do
sự áp bức của bọn thực dân phong kiến nhưng khi gặp được cán bộ cách
mạng, anh nhanh chóng trở thành một người cách mạng, một đội trưởng du
kích dũng cảm, là người tiêu biểu cho khả năng cách mạng lớn lao của người
dân miền núi Tây Bắc. Hình ảnh khi A Phủ giác ngộ được chân lí cách mạng
là một hình ảnh đẹp, khơng chỉ A Phủ mà là hiện thân cho những con người ở
Tây Bắc.
Bằng ngòi bút tài năng và miêu tả tinh tế của mình, Tơ Hồi đã làm nổi
bật được hình tượng và khí phách của A Phủ - nhân vật điển hình trong truyện.
Cùng với A Phủ là Mị, dù bị áp bức nhưng họ đã phải luôn đấu tranh giành lại
hạnh phúc, họ đã phải trải qua bao tủi cực, cay đắng để tự giải phóng bằng
sức mạnh quật khởi của chính mình.
Phân tích tâm trạng, hành động nhân vật A Phủ - mẫu 4
Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, người đọc không khỏi ấn tượng với
nhân vật A Phủ- một chàng trai dân tộc với số phận bất hạnh nhưng có những
phẩm chất phi thường.
A Phủ được giới thiệu là một người mồ cơi, một thân một mình, bị bán
xuống đồng tháp, trốn trở lại đồng cao rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Từ nhỏ, A
Phủ đã gan bướng, dũng cảm. Chàng trai lao động giỏi, không ngại những
việc nặng nhọc, nguy hiểm, là niềm mơ ước của bao cô gái. Tuy vậy, A Phủ
vẫn đi chơi ngày tết, mơ ước tìm bạn kết đơi. Cho thấy đây là một chàng trai
khao khát hạnh phúc và tình yêu. A Phủ như đứa con, như cánh chim của núi
rừng Tây Bắc. Nhân vật A Phủ bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh qua vụ xử kiện
vơ lý của gia đình nhà thống lí Pá Tra. Từ vụ xử kiện này, A Phủ từ một chàng
trai tự do yêu đời trở thành một nô lệ tàn đời mãn kiếp cho nhà thống lí. Ngun
nhân cũng chính vì A Phủ dám cả gan đánh A Sử. Trong cảnh A Phủ đánh
nhau với A Sử, Tơ Hồi đã sử dụng một loạt động từ mạnh: chạy vụt ra, vung
tay, ném, xốc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé áo, đánh tới tấp.
Đọc đoạn văn này, người đọc có cảm tưởng được chứng kiến một cách đầy
hả hê trận đòn của chàng trai nghèo trừng trị đám con quan cậy quyền, cậy
thế.
Tuy vậy, tất cả những mơ ước khát vọng đó đã chấm dứt khi chàng trở
thành nô lệ của nhà thống lí. Bản án trong phiên xử kiện này: A Phủ ban đầu
bị buộc tội chết rồi lại được tha. Với thống lí Pá Tra, A Phủ sống để làm việc
trả nợ (nộp vạ 100 đồng bạc trắng). Chàng trai yêu tự do ngày nào bị biến
thành con nợ truyền kiếp. Tuy sự việc khác nhau nhưng cách thức bị bó buộc
và hành hạ về thể xác và tinh thần của hai nhân vật vốn không liên quan là Mị
và A Phủ đều giống nhau. Đó là cách bọn cầm quyền, thống trị ở các địa
phương đày đọa người dân trước khi được Cách mạng giải phóng. A Phủ bị
bắt làm các công việc nặng nhọc nguy hiểm, trở thành nô lệ khơng cơng do
món nợ khơng biết đến ngày nào mới trả hết. A Phủ cũng không dám nghĩ đến
việc trốn do quyền lực khủng khiếp của nhà thống lí Pá Tra. Dù làm việc vất
vả, khổ cực nhưng chỉ cần một sai lầm cũng khiến A Phủ phải chịu tội. Tai họa
ập đến với A Phủ khi lỡ để hổ ăn mất một con bị. A Phủ bị trói vào cọc. Tính
mạng của con người bị rẻ rúng chưa bằng một con vật. Nhà thống lí mất một
con bị, nhưng A Phủ lại phải trả giá bằng mạng sống của mình. Đó là một
hành động dã man, mất nhân tính của bọn thống trị, coi thường mạng sống
của người lao động chân chính. Nhưng cũng chính từ sự bất hạnh này đã đem
đến cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ và cảm xúc cho A Phủ và Mị.
Từ một cô gái vô cảm, chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, mị vẫn thản nhiên:
“A Phủ là cái xác chết vẫn thế thôi”. Nhưng khi nhìn thấy giọt nước mắt của A
Phủ: “lấp lánh bị xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đây là một chi tiết nghệ
thuật đắt giá khơi dậy tình yêu, sức sống của Mị. Mị lập tức nhớ lại cảnh mình
bị trói trong đêm tình mùa đơng mà khơng có một ai đến cứu. Có lẽ, giọt nước
mắt của con người đã chạm đến trái tim của các nhà văn và họ ln tìm cách
để khai thác nó đem đến giá trị trong tác phẩm của mình. Chúng ta thấy cuộc
gặp gỡ của hai cây bút văn xuôi hiện thực nổi tiếng Tơ Hồi và Nam Cao. Nam
Cao cũng từng có một truyện ngắn mang tên “Nước mắt” và rất nhiều tác phẩm
của Nam Cao, hình ảnh nước mắt có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Với
Nam Cao, “nước mắt là giọt châu của lồi người”, “nó có thể thanh lọc tâm
hồn con người”. Phải chăng, khi miêu tả dịng nước mắt trên đơi gị má đã
xám đen lại của A Phủ- một chàng trai người Mơng gan góc, khỏe mạnh khác
thường sắp trở thành một xác chết trên cây cọc nhà thống lí Pá Tra, Tơ Hồi
cũng nghĩ đến điều này?
Chính nhờ giọt nước mắt này mà Mị đã quyết tâm cắt dây cởi trói cho A
Phủ, giải thoát cho một con người sắp phải đứng trước bờ vực của cái chết.
Nhưng khi cắt dây xong, Mị lại hốt hoảng, lo sợ vì chính mình sẽ phải chết
thay A Phủ, chính mình sẽ bị trói vào cây cọc đó đến chết do sự tàn ác của
nhà thống lí. Mị nhanh chóng quyết định sáng suốt: “ A Phủ cho tơi đi”, “ở đây
thì chết mất”. Lịng ham sống, khát vọng sống và tình yêu thương của Mị đã
cứu thoát cả Mị và A Phủ khỏi “địa ngục trần gian”.
Qua tác phẩm, tác giả Tơ Hồi đã xây dựng thành cơng nhân vật A Phủ
với hình tượng người lao động khao khát tự do và tình yêu cuộc sống. Từ đó
càng cho thấy tài năng và niềm đồng cảm sâu sắc mà tác giả dành cho những
con người lao động nghèo khổ, bất hạnh.
Phân tích tâm trạng, hành động nhân vật A Phủ - mẫu 5
Tơ Hồi như một từ điển sống, một pho sách sống. Ơng có vốn hiểu biết
sâu sắc, phong phú về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau,
lối trần thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất
tạo hình lay động lịng người. Ơng đã viết thành cơng tác phẩm Truyện Tây
Bắc, trong đó có truyện Vợ chồng A Phủ. Qua truyện ngắn này, Tơ Hồi đã
phản ánh nỗi thống khổ và sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng
quyết tâm đi theo kháng chiến để giành lấy tình yêu, hạnh phúc. Tiêu biểu cho
những con người ấy là A Phủ, một trong những nhân vật thành công nhất của
Tơ Hồi trong tác phẩm này
Năm 1952, Tơ Hồi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi thực
tế này đã đem đến cho nhà văn cái nhìn sâu sắc và tình cảm thắm thiết với
người và cảnh Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” được in trong tập “Truyện Tây Bắc”.
Tác giả cho A Phủ xuất hiện đột ngột trong trận đánh nhau với A Sử con
trai thống lí, rồi bị bắt, bị đánh đập, bị phạt vạ phải ở trừ nợ. Sau đó mới kể lai
lịch của A Phủ. Cách giới thiệu này vừa gây chú ý cho người đọc vừa nhấn
mạnh tính cách mạnh mẽ của A Phủ.
Từ bé, A Phủ đã mồ côi cha mẹ, khơng cịn người thân thích trên đời, bị
người làng bắt đem bán cho người Thái ở vùng thấp. Mới mười tuổi, A Phủ
đã gan bướng, khơng thích ở cánh đồng thấp, trốn lên núi, lưu lạc tới Hồng
Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ là một chàng trai khỏe mạnh “chạy nhanh
như ngựa”, “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc lại giỏi cày và săn bị tót rất bạo”.
Con gái trong làng nhiều người mê, họ kháo nhau “Đứa nào được A Phủ cũng
bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu”. Người ta đùa vậy
thôi chứ A Phủ nghèo lắm. Khơng có cha mẹ, khơng có ruộng nương, khơng
có bạc, suốt đời làm th, làm sao A Phủ lấy nổi vợ. Nếu ở xã hội khác, A Phủ
xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Thế mà A Phủ bị chà đạp, bị đối xử bất
công. Nếu khơng được Mị giải thốt, chắc A Phủ đã chết trong tay cha con
thống lí Pá Tra.
Cá tính gan góc của A Phủ đã bộc lộ từ năm 10 tuổi. Cá tính ấy lại được
chính cuộc sống hoang dã núi rừng cùng hoàn cảnh ở đợ làm thuê vất vả cực
nhọc hun đúc nên một A Phủ có cá tính mạnh mẽ, táo bạo. Vừa xuất hiện, A
Phủ đã lôi cuốn người đọc bằng những hành động mạnh mẽ, dữ dội: “chạy vụt
ra”, “vung tay ném”, “xộc tới nắm” “kéo dập đầu, xé, đánh tới tấp…”. A Phủ là
một người thẳng thắn, nóng tính, thật thà, chất phác. A Phủ đánh A Sử để
trừng trị thói con quan ỷ thế làm càn. Anh bị người nhà thống lí bắt, đánh suốt
đêm đến mức “mặt A Phủ sung lên, môi và đuôi mắt chảy máu”, “hai đầu gối
sưng bạnh lên như mặt hổ phù”. Dù vậy, A Phủ “chỉ im như cái tượng đá” thể
hiện sự gan góc, dám làm dám chịu. Khi đã phải sống thân phận của kẻ làm
công trừ nợ, anh vẫn là chàng trai của tự do. Dù phải quanh năm một mình
“đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bị tót, bẫy hổ, chăn bị, chăn ngựa…”,
việc gì A Phủ cũng làm phăng phăng chẳng hề tính tốn thiệt hơn.
Vì mải bẫy nhím, để hổ bắt mất một con bò, A Phủ thật thà vác về nửa
con bị hổ ăn dở và thản nhiên nói với thống lí “cho tơi mượn cây súng. Tơi đi
lấy con hổ về”. Anh coi đó là một việc rất dễ dàng. Thống lí khơng cho, anh cãi
lại cũng rất điềm nhiên. Anh không biết sợ cái uy của bất kỳ ai. Con hổ hay
thống lí cũng thế thơi. Kể cả khi lặng lẽ đi lấy cọc và dây mây rồi đóng cọc để
người ta trói đứng mình chết thế mạng cho con vật bị mất, A Phủ cũng làm
việc ấy một cách thản nhiên. Là người mạnh mẽ, gan góc, A Phủ khơng sợ cả
cái chết.
Bị trói đứng, đói, khát trong cái lạnh cắt da, A Phủ không cam chịu, anh
nhai đứt hai vịng dây trói, song khơng thốt. A Phủ khóc tuyệt vọng. Nước
mắt của chàng trai mạnh mẽ, yêu tự do phải cay đắng buông tay trước số phận
nghiệt ngã làm rung động trái tim người đọc. Ta càng thấy rõ hơn bộ mặt tàn
bạo của chế độ phong kiến, chúa đất ở miền núi khi xưa.
Nhân vật A Phủ đã được khắc họa thành công, sở trường quan sát nhạy
bén và khả năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính con người là hai yếu tố
giúp nhà văn dựng được một hình tượng đặc sắc chỉ bằng mấy nét đơn sơ.
Thông qua nhân vật A Phủ, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm càng
đậm nét.