Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

LUẬN VĂN: Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.15 KB, 29 trang )











LUẬN VĂN:
Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay




Phần I: Đặt vấn đề


Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ trước đến nay đã trải qua nhiều hình thái
kinh tế xã hội khác nhau. Mỗi hình thái kinh tế xã hội ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch
sử đều có tính logic của nó, vì vậy nên nó đem lại được khá nhiều thành công tốt song nó
cũng chưa thật được mỹ mãn vì nó có nhiều thiếu sót cần phải khắc phục. Chúng ta hiện
nay đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lê chủ nghĩa xã hội vì vậy điều tất yếu của
chúng ta là phải nghiên cứu con đường mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn. Để góp phần
vào xây dựng cơ chế tổ chức quản lý kinh tế sao cho phù hợp với điều kiện của nước ta và
phù hợp với xu thế của thế giới là nguyên nhân để em chọn đề tài:
Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.


Việt Nam chúng ta vừa mới bắt đầu công cuộc đổi mới từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang nền kinh tế thị trường nên có nhiều vấn đề được đặt ra. Bởi thực tế đã cho
thấy ở các nước đi trước, khi họ để nền kinh tế vận dụng theo cơ chế thị trường không có
sự quản lý của Nhà nước thì không đạt được mục tiêu kinh tế mà còn hơn thế nữa nó còn
đẩy lùi nền kinh tế, điển hình là cuộc khủng hoảng 1929 1933. Song nếu có sự can thiệp
của Nhà nước và có chiến lược đúng đắn thì nó lại là động cơ thúc đẩy sự phát triển nền
kinh tế. Vì vậy chúng ta cần phải có sự can thiệp của Nhà nước ở tầm vĩ mô để đưa nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đang còn nhiều tranh cãi mà chúng ta cần phải làm
sáng tỏ, mặc dù có sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo cùng với những nỗ lực của
cá nhân em, song do lượng kiến thức còn hạn chế nên trong đề án này em chỉ trình bày
được một số quan điểm.

Phần II: Giải quyết vấn đề


I. Vai trò kinh tế của Nhà nước và tính tất yếu khách quan về vai trò quản lý vĩ
mô của Nhà nước đối với nền kinh tế.
1. Vai trò của Nhà nước nói chung trong lịch sử.
Ngay từ thời xa xưa,người đã biết sống lại từng bầy, từng đàn nhằm tạo điều kiện
cho việc săn bắn để phục vụ cho đời sống và hơn thế nữa họ còn để bảo vệ những gì mình
kiếm được. Của cải ngày một nhiều hơn các tập đoàn người này cần phải bảo vệ của cải
của họ bằng hình thái liên kết lại nhau, bầu ra những người đứng đầu để cai quản. cùng với
lịch sử, xã hội loài người ngày càng phát triển hơn và kéo theo sự phát triển của lực lượng
sản xuất và năng suất lao động xã hội chế độ tư hữu (lợi ích kinh tế ) xuất hiện đã phân
chia xã hội thành kẻ giàu người nghèo hình thành hai giai cấp, cơ bản là chủ nô và nô lệ
nên hình thành một xã hội mới với sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp gay gắt
không thể điều hoà, đòi hỏi phải có một tổ chức mới có khả năng có thể dập tắt được xung
đột giai cấp ấy, tổ chức đó là Nhà nước. Xuất phát từ việc nghiên cứu nguồn gốc của Nhà
nước, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã kết luận rằng “Nhà nước là sản
phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà” . Nhà nước chỉ ra

đời và tồn tại trong xã hội có giai cấpvà bao giờ cũng thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc.
Bản chất đó được thể hiện trước hết ở chỗ Nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm
trong tay giai cấp thống trị, là công cụ sắc bén nhất để duy trì sự thống trị giai cấp. Vì vậy
nên Nhà nước bao giờ cũng bảo vệ lợi ích của một giai cấp nhất định. Song vai trò kinh tế
của Nhà nước thì có sự khác nhau về mức độ, hình thức biểu hiện nhằm phù hợp với điều
kiện của từng giai đoạn.
Thực ra lịch sử đã chứng minh chức năng kinh tế của Nhà nước được phôi thai ngay
từ buổi ban đầu khi Nhà nước mới chỉ vừa xuất hiện sau đó mới được nhận thức và ứng
dụng vào thực tiễn quản lý kinh tế xã hội. Trong thời đại chiếm hữu nô lệ Nhà nước chủ nô
kiểu Nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã trực tiếp dùng quyền lực cuả mình can thiệp vào
việc phân phối của cải được sản xuất ra bởi những người nô lệ dưới sự chỉ huy điều khiển

quá trình sản xuất của giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực. Các thủ đoạn bạo lực phi
kinh tế ở đây được sử dụng làm công cụ để chiếm đoạt, cưỡng bức kinh tế.
Trong thời đại phong kiến Nhà nước phong kiến khong chỉ can thiệp vào việc phân
phối của cải mà đứng ra tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất
nông nghiệp, khuyến khích quan lại, di dân đi mở mang các vùng đất mới đề ra các chính
sách ruộng đất thích hợp với từng thời kỳ, nhìn chung các hoạt động này diễn ra một cách
tự phát.
2. Tính tất yếu khách quan quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế.
a. Cơ chế cũ và những ưu khuyết tật của nó:
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa
(XHCN) đất nước ta đã bắt đầu xây dựng mô hình kế hoạch hoá tập trung dựa trên hình
thức sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất (TLSX). Với sự nỗ lực của nhân dân ta và có
thêm sự giúp đỡ tận tình của các nước XHCN. Mô hình kế hoạch hoá đã phát huy được
những tính ưu việt của nó.
Nhưng sau ngày giải phóng miền Nam bức tranh mới về hiện trạng kinh tế xã hội đã
thay đổi, trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả ba loại hình kinh tế là tự cấp tự túc,
kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hoá. Đó là thực tế khách quan tồn tại sau
những năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ trương xây dựng nền kinh tế chỉ huy như

ở miền Bắc trước đây. Do các quan hệ kinh tế đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế ql
kinh tế cũ vào điều kiện nền kinh tế đã thay đổi làm xuất hiện rất nhiều hiện tượng tiêu
cực. Do chủ quan không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản lý kinh tế mà chúng ta
đã không quản lý có hiệu quả, Nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những sự việc này
gây ra nhiều hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản
phẩm trở nên khan hiếm, tích luỹ hàng năm hầu như không có. Vốn đầu tư chủ yếu dựa
vào vay và viện trợ của nước với lạm phát cao làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm
chí có một số địa phương nạn đói đang rình rập. Nguyên nhân sâu xa vì sự suy thoái nền
kinh tế ở nước ta là do đã rập khuôn một mô ihnhf kinh tế chưa thích hợp và kém hiệu quả.
Những sai lầm cơ bản là:

Ta đã thực hiện một chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất trên một quy mô lớn
trong điều kiện chưa cho phép. Điều này đã dẫn đến một bộ phận tài sản vô chủ và đã
không sử dụng nguồn lực rất khan hiếm của đất nước trong khi dân số ngày càng gia tăng.
Thực hiện việc phân phối theo lao động cũng trong điều kiện chưa cho phép khi
tổng sản phẩm quốc dân thấp đã dùng hình thức vừa phân phối bình quân vừa phân phối
lại một cách gián tiếp đã làm mất động lực của sự phát triển.
Việc ql kinh tế của Nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính mệnh lệnh theo
kiểu thời gian chiến tranh không thích hợp với yêu cầu tự do lựa chọn của người sản xuất
và người tiêu dùng đã không kích thích sự sáng taọ của hàng triệu người lao động.
Chế độ hạch toán trên thực tế còn nặng nên hình thức, lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi
ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp của hoạt động xã hội chưa được quan
tâm đúng mức, vì thế sự vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng
động.
b. Quá trình chuyển đổi từ cơ chế cũ sang cơ chế mới:
Đứng trước tình hình kinh tế như trên vấn đề cấp bách đối với Nhà nước ta là phải
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế sao cho phù hợp với điều kiện đất nước hiện nay. Xuất phát
từ vấn đề này nhiều nhà khoa học của chúng ta đã đi sâu vào nghiên cứu học thuyết kinh tế
mà trọng tâm là của Keynes và Samuelson. Keynes là người đầu tiên đề cao vai trò của
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường thông qua sự phân tích lý thuyết chung về việc làm,

ông đã đi đến kết luận muốn thoát khỏi khủng hoảng, thì không thể dựa vào cơ chế thị
trường tự điều tiết, mà cần phải có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế để tăng cầu có
hiệu quả, kích thích tiêu dùng, sản xuất, kích thích đầu tư, bảo đảm việc làm và tăng thu
nhập. Vì vậy ông đề nghị Nhà nước phải duy trì đầu tư thông qua sử dụng hệ thống tài
chính tín dụng và lưu thông tiền tệ, Keynes tài chính tín dụng và lưu thông tiền tệ là công
cụ kinh tế vĩ mô rất quan trọng.
Và “tư tưởng can thiệp” đã được nhiều nhà khoa học khác ở thời sau đó phân tích
và nghiên cứu cụ thể như trường phái thể chế mới. Với họ “tư tưởng Nhà nước can thiệp”
là tư tưởng trọng tâm của trường phái. Họ kế thừa những tư tưởng này, phê bình lý luận
truyền thống coi tự do cạnh tranh không thể đảm bảo được cân đối cung cầu, tích cực chủ
trương Nhà nước can thiệp vào đời sống kinh tế, chủ trương xã hội thực hiện thống trị kinh
tế. Galbaraith cho rằng, chính sách buông thả tự do từ lâu đã không thích hợp và tuyên bố:

quản lý, điều tiết, kế hoạch mới là nhu cầu bức xúc của thời đại ngày nay. Do vậy ông đã
đề xuất “phương án” Nhà nước can thiệp kinh tế. Vấn đề này quan điểm mà Galbraith và
Keynes rất gần nhau. Đặc điểm chung của họ là: thừa nhận trong điều kiện TBCN luôn tồn
tại thất nghiệp, không sử dụng đầy đủ mọi nguồn lực sản xuất, tốc độ tăng trưởng kinh tế
không ổn định. CNTB có “khuyết điểm” không phải mọi cái đều rất thuận lợi. Họ cho rằng
trong kinh tế TBCN thiếu lực lượng tự động, duy trì cân đối và tăng trưởng kinh tế, thừa
nhận CNTB tự phát triển sẽ không tạo ra được kết quả tốt nhất. Nhà nước can thiệp được
xem như điều kiện tất yếu để CNTB thường xuyên phát huy tác dụng nhất là trong lĩnh
vực kinh tế, và qua nghiên cứu tổng thể nền kinh tế quốc dân, và Nhà nước phải can thiệp
tổng thể nền kinh tế, chứ không can thiệp vào công việc kinh tế nội bộ của các xí nghiệp.
Còn đối với Samuelson thì ông lại xuất phát từ “kinh tế hỗn hợp”. Nếu các Nhà
nước kinh tế học phái cổ điển và cổ điển mới sang mà với bàn tay vô hình và “cân bằng
tổng quát”, trường phái Keynes và Keynes mới say sưa nối với “bàn tay Nhà nước
”Samuelson chủ trương phát triển kinh tế phải dựa vào cả hai bàn tay là cơ chế thị trường
và Nhà nước. Ông cho rằng điều hành một nền kinh tế không có cả Chính phủ lẫn thị
trường thì cũng như địn vỗ tay như một bàn tay. Đây là một quan điểm rất đúng đắn.
Thực tiễn vận dụng của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy mô hình

phát triển kinh tế theo xu hướng thị trường có sự điều tiết vĩ mô từ trung tâm trong bối
cảnh của thời đại ngày nay là mô hình hợp lý hơn cả. Mô hình này về đại thế nó đáp ứng
được những thách thức của sự phát triển. Nhận thức được những vấn đề này Đảng và Nhà
nước chúng ta quyết định đổi mới và Đại hội VI của Đảng được đánh giá như một cái mốc
quan trọng trong việc chuyển đổi cơ chế trên cơ sở phê phán một cách nghiêm khắc cơ chế
tập trung quan liêu, bao cấp mà nguồn gốc từ kinh tế hiện vật và những hậu quả của nó.
Đảng nhất quán chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Cũng từ đó tạo ra
những tiền đề cần thiết để chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Vậy nền kinh tế thị trường là gì? đó là nền kinh tế mà trong đó các vấn đề kinh tế cơ
bản được quyết định chủ yếu bằng sự cung cầu trên thị trường. Động lực phát triển của nền
kinh tế thị trường là lợi ích cá nhân thông qua lợi nhuận của người sản xuất và lợi ích của
người tiêu dùng.

Từ khái niệm trên và thực tế ta có thể thấy rằng kinh tế thị trường hoạt động đặc
trưng nhất của nó là cơ chế thị trường và nó này sinh ra nhiều vấn đề, trong đó vấn đề
trung tâm nhất đối với người tiêu dùng và các nhà doanh nghiệp là:
Sản xuất cái gì?
Sản xuất như thế nào?
Sản xuất cho ai?
Với cơ chế thị trường hoạt động theo các quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông
tiền tệ…. Với sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối
lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã hội. Nhờ đó có thể
thoả mãn được nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau và
nhiều vấn đề khác. P.Samuelson đã nói rằng “cơ chế thị trường không phải là sự hỗn độn
mà là một trật tự kinh tế, một nền kinh tế thị trường là một cơ chế tinh vi phối hợp một
cách không tự giác của cá nhân và doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị trường.
Nó là một phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu các cá
nhân khác nhau. Không có bộ não trung tâm mà nó vẫn giải được bài toán mà máy tính lớn
nhất ngày nay không thể giải nổi. Nó tự nhiên, và cũng như xã hội loài người, nó đang
thay đổi”. Cơ chế thị trường tự động kích thích sự phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế

theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu, nhu cầu xã hội, nhu cầu con người không ổn định , đa
dạng và chỉ có thị trường mới hoàn thành chức năng sứ giả nối người sản xuất với người
tiêu dùng lên hàng đầu “khách hàng là thượng đế”. Và cũng nhờ cơ chế thị trường mới giải
quyết tốt 3 vấn đề cơ bản của nền sản xuất đó là sản xuất cái gì? như thế nào? cho ai?
Thông qua lợi nhuận. Đây là điều mà các cơ chế kinh tế trước đây không thể giải quyết
được hoặc giải quyết được nhưng còn nhiều vướng mắc. Song bất kỳ một tấn huy chương
nào cũng có hai mặt trái của nó. Nhà kinh tế học nổi tiếng Samuelson đã nói rằng “sau khi
tìm hiểu về bàn tay vô hình, chúng ta không nên quá say mê với vẻ đẹp của cơ chế thị
trường, coi đó là hiện thân của sự hoàn hảo là tích luỹ của sự hài hoà, của đấng cao siêu,
nằm ngoài tầm tay con người” Cùng với báo cáo của ban chấp hành trung ương tại Đại hội
VII đã nêu rõ “sẽ là sai lầm nếu cho rằng nền kinh tế thị trường là liều thuốc vạn năng.
Cùng với sự kích thích của sản xuất phát triển, kinh tế cũng là môi trường thuận lợi làm
nảy sinh ra và phát triển nhiều loại tiêu cực xã hội, thị trường như hiện tượng thai nghén,
chưa biết sẽ ra sao. Điều đó bao hàm cả khả năng thất bại”.

Cơ chế thị trường không bảo đảm được việc tạo ra một cơ cấu sản phẩm tối ưu phù
hợp với yêu cầu xã hội, gây khủng hoảng thừa nên lãng phí lao động và tài nguyên gắn
liền với khủng thừa là thất nghiệp, một căn bệnh nan giải. Do chạy theo lợi nhuận nên các
nhà sản xuất có thể gây nên những tác động tiêu cực cho xã hội như ô nhiễm môi trươngf,
cạn kiệt tài nguyên, phân hoá giàu nghèo và tình trạng độc quyền xoá bỏ cạnh tranh làm
nền kinh tế mất tính hiệu quả… những hậu quả này toàn xã hội phải gánh chịu.
c. Tính tất yếu khách quan quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế:
Với những ưu điểm trên trong lâu dài sẽ ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế – xã
hội – môi trường nên nó đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước vào nền tk để bảo đảm
sự ổn định, công bằng và hiệu quả, từ đó ta thấy vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước bắt
nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp hành động chung và do tính chất xã hội hoá cao của
sản xuất quy định. Lực lượng sản xuất càng phát triển, trình độ xã hội hoá càng cao thì
phạm trù thực hiện vai trò này ngày càng rộng và mức độ đổi mới càng cao.
Thực tế cho thấy từ khi đổi mới nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi căn bản.
Những nền kinh tế thị trường ở nước ta mới chỉ sơ khai, chưa đầy đủ. Trong kinh tế thị

trường Nhà nước với tư cách là người điều hành, quản lý xã hội, đồng thời là khách hàng
lớn, các chủ thể kinh tế . Nhà nước thường bảo đảm các dịch vụ bưu điện, thông tin liên
lạc, phát thanh, truyền hình, giao thông vận tải…. Nhà nước dùng pháp luật để điều hành,
dùng các chính sách đối ngoại, chính sách kinh tế và những công cụ khác để tác động,
vạch ra kế hoạch phát triển, hạn chế những tiêu cực do kinh tế thị trường gây ra, chống
khủng hoảng và thất nghiệp.
Sự can thiệp của Nhà nước một mặt nhằm định hướng thị trường phục vụ tốt các
mục tiêu kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ, mặt khác nhằm sửa chữa, khắc phục những
khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường tạo ra những công cụ quan trọng điều tiết thị
trường ở tầm vĩ mô mà không vi phạm cơ chế điều chỉnh ở tầm vi mô, nhờ sự can thiệp
của Nhà nước ở tầm vĩ mô đã kìm chế được một phần sức mạnh nguy hiểm của tính tự
phát chứa đựng trong lòng thị trường, đồng thời phát huy được những ưu thế vốn có của
nền kinh tế thị trường.

II. vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp hoạt
động chng và do tính chất xã hội hoá của sản xuất quy định. Lực lượng sản xuất ngày càng
phát triển, trình độ xã hội hoá càng cao thì phạm trù thực hiện vai trò này ngày càng rộng
và mức độ đổi mới càng cao.
Vai trò cnn trong nền kinh tế thị trường được thực hiện qua các chức năng cơ bản
sau.
a. Định hướng:
Có thể nói vận mệnh của nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào sự định hướng của Nhà
nước. Nếu Nhà nước ta đi chệch hướng thì dù chúng ta có làm tốt đến đâu thì kết quả cũng
chỉ là con số không và còn tệ hơn nữa. Vì vậy đòi hỏi Nhà nước chúng ta phải nắm bắt các
quy luật vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội và chỉ bảo được các biến động có
thể xảy ra, từ đó đưa ra những ưu sách nhằm tác động, khống chế, điều tiết các sự việc xấu
có thể xảy ra. Và cũng qua đó đem ra những quyết định đúng đắn về con đường mà chúng
ta sẽ đi sao cho nó phù hợp với quy luật nhưng lại hạn chế những sự việc xấu có thể xảy ra
ở mức tối thiểu nhằm mục đích đẩy mạnh sự phát triển nền kinh tế.

b. Thiết lập khuôn khổ pháp luật:
Chức năng này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. ở đây Nhà nước
đề ra các quy tắc, trò chơi kinh tế mà các doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả bản thân
Chính phủ đều phải tuân thủ. Nó bao gồm quy định về tài sản, các quy tắc về hợp đồng và
hoạt động kinh doanh, các trách nhiệm tương hỗ của các liên đoàn lao động, ban quản lý
và nhiều luật lệ để xác định môi trường kinh tế.
Về nhiều mặt, các quyết định của khuôn khổ pháp luật xuất phát từ những mối quan
hệ vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Các luật lệ đưa ra nhằm đáp ứng những giá trị
và quan điểm được đồng tính rộng rãi về sự công bằng hơn là qua một sự phân tích kinh tế
được mài dũa rất cẩn thận về chi phí và lợi lộc. Những khuôn khổ pháp luật có thể tác
động sâu sắc tới các ứng xử kinh tế của con người.
c. Điều phối, điều tiết:
Nhà nước cần sửa chữa những khiếm khuyết của thị trường để thị trường hoạt động
có hiệu quả bằng hình thức điều phối, điều tiết mọi hoạt động cũng như vật chất một cách

hợp lý, phù hợp với điều kiện địa lý và môi trường sống để hạn chế những sự lãng phí
không cần thiết từ ddó nâng cao hiệu quả kinh tế.
d. Đảm bảo sự công bằng:
Mục đích của chức năng này là để vừa đảm bảo ổn định xã hội, vừa không làm triệt
tiêu tính tích cực sản xuất kinh doanh của các thành viên trong xã hội. Để thực hiện chức
năng này, một mặt Nhà nước phải tạo ra những cơ sở về tổ chức để mọi người có cơ hội
ngay nhau và đều được hưởng phần tương xứng với kết quả lao động và phần đóng góp
của mình. Mặt khác trong điều kiện hoạt động hoàn hảo nhất, lý tưởng nhất của cơ chế thị
trường, vẫn phải thấy rằng sự phân hoá, bất bình đẳng sinh ra từ kinh tế thị trường là tất
yếu. Một hệ thống thị trường có hiệu quả vẫn có thể xảy ra sự bất bình đẳng lớn. Vì vậy
Chính phủ cần thiết phải thông qua những chính sách để phân phối lại thu nhập lớn hơn
người nghèo mà điển hình là giá điện loại hai.
Bên cạnh đó còn phải có hệ thống hỗ trợ thu nhập để giúp đỡ cho người già, người
tàn tật, người không nơi nương tựa….
e. Kiểm soát ổn định kinh tế vĩ mô:

Từ khi ra đời CNTB từng gặp những thăng trầm chu kỳ lạm phát (giá cả tăng) và
suy thoái (nạn thất nghiệp rất cao). Đôi khi những hiện tượng này rất dữ dội, như thời kỳ
siêu lạm phát ở Đức những năm 3.
Nhờ học thuyết của John Meynar Keynes và những người theo học thuyết ông mà
chúng ta hiểu được làm thế nào để kiểm soát những thăng trầm của chu kỳ kinh doanh.
Nhà nước cần phải sử dụng quyền lực của mình một cách thận trọng gián tiếp thông qua
luật pháp để kiểm soát nền kinh tế một cách có hiệu quả nhằm ổn định nền kinh tế. Vì một
nền kinh tế phát triển thì trước hết mức độ dao động của nó phải thấp, đều và hiện có xu
hướng phát triển.
Tóm lại: Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
đòi hỏi phải phát hiện ra những khuyết tật của kinh tế thị trường TBCN để tìm ra những
định chế có khả năng xoá bỏ được những khuyết tật đó và tạo ra một kinh tế thị trường
XHCN.
Vai trò này cũng đòi hỏi phải thay thế dần phương thức phân phối tư bản bằng
phương thức phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Nói rộng ra là sáng tạo ra những cách
quản lý mới để hướng tới XHCN.

Tuy nhiên để thực hiện vai trò của Nhà nước trong kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN là cực kỳ khó khăn vì không thể chia tách thị trường nước ta ra khỏi thị
trường thế giới bao gồm cả thị trường các nước tư bản. Bởi lẽ học thuyết Ken – dơ đã chỉ
rõ XHCN có hai khuyết tật là khủng hoảng kinh tế chu kỳ và thất nghiệp. Bây giờ khuyết
tật thứ ba đã xuất hiện đó là dung túng cho đầu cơ ở thị trường chứng khoán phát triển đến
mức cực kỳ nguy hiểm từ thập niên 7 với sự lợi dụng những công cụ tài chính và biến
chúng những công cụ bán không vì vậy nên chúng ta paỉ thực hiện bằng hai cách.
Đối thoại với các nước tư bản để họ thấy được các khuyết tật và tự điều chỉnh.
Khéo léo dùng những giải pháp đặc biệt để ngăn chặn tác động xấy của liên Ngân
hàng như việc cấm bán khôngs trong Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị
trường chứng khoán của ta.
III. Đặc trưng của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam và thực trạng nền kinh tế nước ta.

1. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nhìn lại thực tiễn những năm đối với cùng với những bước đi có tính quy luật của
bước chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
cùng với kinh nghiệm tổng kết được của những bước đã và đang tìm kiếm con đường
tương tự.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII thông qua các năm 1991 đã nêu lên bảng đặc
trưng bản chất của xã hội chủ nghĩa và những phương hướng quan điểm tổng quát và phát
triển kinh tế – xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà nước ta sẽ xây dựng là nền
kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội (xã hội chủ nghĩa). Mặc dù nền kinh tế nước
ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát
triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị
trường hiện đại. Bởi vậy chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn
kinh tế hàng hoá giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường tự do mà đi thẳng vào phát triển
kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nội dung và yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt
khác, thế giới đang nằm trong thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa xã hội, cho nên sự
phát triển kinh tế – xã hội nước ta phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết,

khách quan và cũng là nội dung, yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, và văn minh” vừa là mục tiêu vừa là nội dung nhiệm vụ cả
việc phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Đảng và Nhà nước khuyến
khích mọi người dân trong xã hội làm giàu một cách hợp pháp. Dân có giàu thì nước với
mạnh, nhưng dân giàu phải làm cho nước mạnh bảo đảm độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh
thổ của quốc gia.
Thứ hai, nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai
trò chủ đạo của nền kinh tế Nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu quan trọng có ý
nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Nền kinh tế hàng hoá, nền
kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng
nền kinh tế thị trường mà chúng ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại, cho nên
cần có sự tham gia bởi “bàn tay hữu hình” của Nhà nước trong việc điều tiết, quản lý nền

kinh tế đó. Đồng thời chính nó sẽ bảo đảm sự quản lý, điều tiết, định hướng phát triển nền
kinh tế thị trường của Nhà nước thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò
chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước.
Kinh tế Nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số lĩnh vực then chốt, có ý
nghĩa là “đài chỉ huy”, là “mạch máu” của nền kinh tế. Cùng với việc nhấn mạnh vai trò
chủ đạo của kinh tế Nhà nước, cần coi trọng vai trò của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế
hỗn hợp, đặt chúng trong mối quan hệ gắn bó, hữu cơ, thống nhất, không tách rời, biệt lập.
Thứ ba, Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo đinh hướng XHCN ở nước ta
là Nhà nước pháp quyền XHCN, là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Thành tố quan
trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là Nhà nước tham gia vào
các quá trình kinh tế. Và khác với Nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới.
Nhà nước ta là Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”, Nhà nước công nông, Nhà nước của
đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nó có đủ
bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới đã bảo đảm giữ vững định hướng XHCN trong việc
phát triển kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất Nhà nước là một
nội dung và là một điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế
thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trường khác hiện có trên thế giới.
Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường
với sự tham gia quản lý, điều tiết của Nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất – kinh doanh

trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Các quy luật của kinh tế hàng hoá,
kinh tế thị trường (quy luật giá trị, quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh
– hợp tác ….) sẽ chi phối các hoạt động kinh tế. Quy luật giá trị quy định mục đích theo
đuổi trong hoạt động kinh tế và lợi nhuận (là giá trị không ngừng tăng lên), quy định phân
bổ các nguồn lực vào các lĩnh vực kinh tế trong một cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua
các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô, cùng với việc sử dụng các lực lượng kinh tế của
mình (kinh tế Nhà nước ), Nhà nước tác động lên mối quan hệ tổng cung – cầu thực hiện
sự điều tiết nền kinh tế thị trường. Như vậy cơ chế thị trường hoạt động của nền kinh tế là:
thị trường điều tiết nền kinh tế, Nhà nước điều tiết thị trường và mối quan hệ Nhà nước –
thị trường – các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, thống nhất.

Thứ năm, mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ
sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là nội dung quan trọng của
nền kinh tế thị trường ở nước ta. Quá trình phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã
hội hoá nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sở phát triển của nền kinh tế thị
trường là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng
quan trọng của nền kinh tế thị trường hiện đại là mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài.
Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế với những khu vực hoá và toàn cầu hoá đang ngày
càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cách mạng khoa học công
nghệ hiện nay. Tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không muốn, ít nhiều đều bị lội
cuốn, thu hút vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh nguy cơ
tụt hậu xa hơn và vượt quá thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để phát triển
trong điều kiện của kinh tế thị trường hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín
nền kinh tế trong trạng thái tự cung tự cấp, mà phải mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế
giới. Sự mở cửa, hội nhập được thực hiện trên ba nội dung chính là: thương mại, đầu tư và
chuyển giao khoa học – công nghệ. Tuy nhiên sự mở cửa hội nhập không có nghĩa là sự
hoà tan, đánh mất mình, mà phải trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Thứ sáu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc đảm bảo công bằng xã hội
cũng là một nội dung rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta phát triển trong
công bằng và phát triển bền vững là những thuật ngữ phổ biến và là xu thế của thời đại
ngày nay. Phát triển trong công bằng được hiểu là những chính sách phát triển phải đảm

bảo sự công bằng xã hội, là tạo cho mọi tầng lớp nhân dân đều có cơ hội tham gia vào quá
trình phát triển và được hưởng những thành quả tương xứng với sức lực, khả năng và trí
tuệ của họ bỏ ra, làm giảm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư và
giữa các vùng. Khác với nhiều nước chúng ta phát triển kinh tế thị trường nhưng chủ
trương bảo đảm công bằng xã hội trong tất cả các giai đoạn của sự phát triển kinh tế ở
nước ta. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng sự bảo đảm công bằng trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta hoàn toàn xa lạ và khác hẳn về chất đối với chủ nghĩa
bình quân, mức độ bảo đảm công bằng xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển, khả năng

và sực mạnh kinh tế của quốc gia. Vì vậy nếu quá nhấn mạnh tới công bằng xã hội trong
điều kiện nền kinh tế còn kém phát triển, ngân sách còn eo hẹp, thì chắc chắn sẽ làm triệt
tiêu động lực phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Thứ bẩy, giải quyết mối quan hệ giữa lao động và tư bản (vốn), thông qua phân
phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, được thực hiện
theo kết quả lao động là chủ yếu kết hợp với một phần theo vốn và tài sản. Đây là điểm
khác biệt giữa nền kinh tế thị trường trong CNTB, với nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta. Trong mối quan hệ giữa lao động và tư bản (vốn), giữa lao động sống và
lao động quá khứ (lao động đã được vật hoá), CNTB nhấn mạnh đến yếu tố tư bản (vốn )
hơn là nhân tố lao động (lao động sống), nhấn mạnh đến yếu tố tích luỹ – đầu tư hơn là
yếu tố tiền lương – thu nhập của người lao động. Ngược lại chủ nghĩa xã hội đặt con
người ở vị trí trung tâm của sự phát triển, cho nên trong phân phối thu nhập và thành quả
lao động của xí nghiệp, XHCN nhấn mạnh đến nhân tố lao động (lao động sống) và yếu tố
tl – thu nhập của người lao động. Tuy nhiên, trong khi nhấn mạnh đến vai trò chủ yếu của
lao động, chúng ta không thể coi trọng đến vai trò chủ yếu của yếu tố vốn, đến tăng cường
tích luỹ đầu tư (cả Nhà nước và tư nhân) và đến mối quan hệ biện chứng giữa tư bản (vốn)
và điều bình thường. Chỉ có trên cơ sở đó mới tăng số người giàu có trong xã hội. Tăng số
người có thu nhập cao đồng thời giảm số người có thu nhập cao đồng thời giảm số người
có thu nhập thấp trong xã hội và thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, vừa là
mục tiêu vừa là nội dung quan trọng của chính sách thu nhập và chính sách điều tiết thu
nhập của Nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta.

Tóm lại, quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
phải là “quá trình thực hiện dân giàu nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân
dân làm chủ, nhân ái có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho
mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”. Việc phát triển nền kinh tế gắn liền với
việc giải quyết các vấn đề xã hội, phát triển kinh tế ở nước ta phải là phát triển bền vững.
Chúng ta cần phải biết kế thừa và phát triển những thành tựu của loài người. Trước hết
phải sử dụng văn minh của kinh tế thị trường (KTTT), loại bỏ những khuyết tật vốn có của

nó để xây dựng XHCN có kết quả. ở nước ta nếu biết sử dụng KTTT với động lực cạnh
tranh làm cho của cải dồi dài cộng thêm yếu tố chính trị một Nhà nước thực sự của dân, do
dân, vì dân vì ý tưởng về kinh tế thị trường định hướng XHCN sẽ được thực hiện.
2. Thực trạng nền kinh tế nước ta.
Sau hơn 10 năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc vượt qua khủng
hoảng triền miên kéo dài hàng chục năm, từ năm 1991 đến nay nền kinh tế bắt đầu có sự
tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước, thời kỳ sau cao hơn thời kỳ trước. Tuy nhiên khó
khăn và thách thức vẫn đang còn lớn, điển hình là nền kinh tế nước ta vẫn mang tính chất
nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn nhỏ bé,kết cấu hạ tầng còn kém phát triển, năng
suất, chất lượng và hiệu quả còn rất thấp. Cụ thể trong nông nghiệp còn lạc hậu, chủ yếu
bằng công cụ thô sơ nên năng suất thấp. Trong khi đó công nghiệp chủ yếu nhập máy móc,
thiết bị từ nước ngoài và phải phụ thuộc vào họ. Công nghiệp chưa phục vụ tích cực cho
nông nghiệp, điều này làm cho kinh tế nước ta mang tính chất nông nghiệp lạc hậu.
Đầu tư khoa học công nghệ tuy có tăng nhưng còn thấp so với nhu cầu sử dụng.
Chúng ta còn thiếu những chính sách cụ thể để tạo môi trường thuận lợi cho việc ứng dụng
rộng rãi hơn nữa các thành tựu khoa học công nghệ. Việc sử dụng đãi ngộ đối với cán bộ
khoa học kỹ thuật còn chậm, thêm vào đó là cơ sở hạ tầng còn thấp kém gây ra lãng phí
nguồn chất xám quý giá.
Khả năng kiềm chế lạm phát chưa được triệt để. Ngân sách thu và chi chưa được
cân đối. Nợ nước ngoài còn nhiều và chưa có khả năng thanh toán. trongkhi đó nhiều
ngành, nhiều cơ sở, nhiều cán bộ quản lý chưa có ý thức tiết kiệm làm thất thoát, lãng phí
rất lớn. Tình trạng tham nhũng, buôn bán lậy còn phổ biến như vụ Minh Phụng và Vũ

Xuân Trường là điển hinh và đây cũng là vấn đề mà cả xã hội quan tâm. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến những tệ nạn này, trong đó phải kể đến sự tác động của kinh tế thị trường.
Một hiện tượng đáng lưu ý nổi lên trong giai đoạn đầu bước sang KTTT ở Việt
Nam là tính trạng đọng vốn lòng vòng, thất thoát tài sản của Nhà nước, làm ăn thua lỗ
trước sự cạnh tranh của thị trường ngày càng tăng. Nếu tính từ giai đoạn một khi tổng
thanh toán nợ với trên 10.000 doanh nghiệp Nhà nước kê khai xác nhận 8841 tỷ đồng tiền
nợ, 4624 doanh nghiệp đang hoạt động nợ lẫn nhau với tổng số 2459 tỷ đồng.

Kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác còn thấp, chưa phát huy và đầy đủ sức mạnh
của cơ chế thị trường. Đối với kinh tế tư nhân chưa tháo hết những trở ngại gây khó khăn
cho sự phát triển sản xuất, thiếu sự quản lý, hướng dẫn. Tình trạng làm ăn trái pháp luật
diễn ra khá phổ biến ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp Nhà nước kinh tế tập thể. Nhà
nước điều tiết nền kinh tế thông qua kinh tế quốc doanh. Hiện nay kinh tế hàng hoá mới
phát triển, lực lượng sản xuất còn ở tình trạng thấp, chưa phát triển cân đối, mô hình sở
hữu lúc này có các đặc trưng sau:
Vốn trong tay Nhà nước dwois hình thức các xí nghiệp quốc doanh bị phân tán ở
các vùng.
Chủ sở hữu tài sản ở các xí nghiệp quốc doanh không rõ ràng.
Quyền sở hữu tài sản của Nhà nước với quyền kinh doanh của các xí nghiệp vẫn bị
nhập lại làm một.
Từ những đặc điểm trên cho thấy các xí nghiệp quốc doanh kinh tế tập thể chưa làm
chủ và giữ vai trò then chốt của mình trong nền kinh tế.
Cơ chế thị trường đang ở giai đoạn sơ khai mang nhiều yếu tố tự phát, hiệu lực
quản lý của Nhà nước còn thấp và chưa phát huy đầy đủ sức mạnh của cơ chế thị trường.
Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, vì vậy nên khả năng tự ý thức chưa cao, bởi lệ thi
hành chưa nghiêm túc. Công tác kế hoạch hoá còn yếu kém, hệ thống Ngân hàng còn tiêu
cục, chế độ phân phối chưa hợp lý, thực hiện tuỳ tiện chưa thống nhất.
Tích luỹ, đầu tư cho sản xuất còn thiếu tương đối nghiêm trọng. Các nguồn vốn đầu
tư cho nước ngoài là chủ yếu dẫn đến mất tính tự chủ trong liên doanh, phải phụ thuộc vào
nước ngoài.
Hệ thống quản lý chưa phát huy được sức mạnh, tệ nạn xã hội phát sinh nhiều và có
xu hướng ngày một tăng.

Đứng trước tình trạng trên chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là đổi mới nền kinh
tế, chuyển sang kinh tế thị trường. Song mô hình KTTT dù ở đâu cũng có những ưu khuyết
điểm của nó. Mặt khác để đạt được sự đổi mới theo các mục tiêu, định hướng XHCN mà
Đảng và Nhà nước đã lựa chọn thì việc Nhà nước can thiệp vào nèn kinh tế là tất yếu
khách quan không thể thiếu được. Đây là điều kiện cần thiết để điều chỉnh cơ chế thị

trường vận hành theo một quỹ đạo, mục tiêu đã chọn, làm cho nó tăng tính tích cực và
giảm tối đa tính tiêu cực của nó.
IV. Mục tiêu và chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước.
1. Các mục tiêu quản lý vĩ mô của Nhà nước.
a. Mục tiêu phân bố nguồn nhân lực có hiệu quả:
Muốn phân bổ nguồn lực có hiệu quả Nhà nước phải dựa vào công cụ kế hoạch để
hoạch định sự phát triển toàn diện của nền kinh tế. Thông qua công cụ này, Nhà nước có
thể nắm bắt những yếu tố ảnh hưởng đến mức cung và mức cầu, trạng thái nền kinh tế các
vùng trong cả nước để từ đó phân bố nguồn lực Nhà nước: vốn, lao động… cho phù hợp
và sử dụng có hiệu quả nhất để từ đó nâng cao sản lượng thực tế tương ứng với mức sản
lượng tiềm năng. Tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng tốt và ổn định. Nhờ công cụ
này mà Chính phủ khẳng định được ý đồ của mình trong nhiều lĩnh vực: xây dựng công
trình công cộng, thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật, giảm bớt những rủi ro đối với
các thành phần kinh tế, bảo đảm các hoạt động kinh tế chung.
b. Mục tiêu phân bố công bằng sản phẩm làm ra và giải quyết tốt vấn đề xã hội:
Để đảm bảo phân bố công bằng và giải quyết tốt vấn đề xã hội, Nhà nước cần sử
dụng các công cụ luật pháp điều tiết thu nhập, bảo hộ và giáo dục. Nâng cao trình độ văn
hoá dân tộc và cộng đồng trong quá trình phát triển kinh tế. Các biện pháp can thiệp của
Nhà nước có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp song phải thực hiện nguyên tắc phân phối theo
lao động đối với sản phẩm làm ra. Đối với các vấn đề xã hội cần có chính sách thiết thực
phù hợp với từng điều kiện: trợ cấp, phân phối lại bảo hiểm phát triển công nghệ.
c. Mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế:
Để giải quyết tốt mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế, Nhà nước phải tạo ra môi
trường tốt cho thị trường phát huy các mặt tích cực của nó. Xác định rõ quyền sở hữu tài
sản và đảm bảo mọi nguồn lực tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm mới,

khuyến khích phát minh sáng kiến, sử dụng nguồn lực chất xám, cạnh tranh lành mạnh,
chống độc quyền …. Thúc đẩy thị trường phát triển toàn diện tất cả các yếu tố: lao động,
vốn, kỹ thuật, đất đai trong tất cả các lĩnh vực và trong mọi không gian.
d, Mục tiêu củng cố và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội:

Để đạt được mục tiêu trên phải phát triển giáo dục và đào tạo, nâng cao đầu tư năng
lực khoa học và công nghệ để đáp ứng nhu cầu hiện tại và chuẩn bị cho thế kỷ 21.
Đất nước ta tiến lên XHCN với mục tiêu chung là dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng và văn minh. Các mục tiêu trên được dựa trên cơ sở lấy con người phục vụ con người
làm nền tảng đưa đất nước và con người Việt Nam vươn tới XHCN, một xã hội mà đông
đảo quần chúng nhân dân đang mong muốn.
2. Chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế của nước ta.
Nhà nước ta thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh tế nhằm khắc phục những hậu quả
của nền kinh tế thị trường và đạt được những mục tiêu đã đề ra. Muốn vậy Nhà nước
chúng ta phải tạo ra được môi trường, điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh
nghiệp bao gồm:
a. Giữ vững ổn định chính trị:
Đây là một vấn đề quan trọng bởi lẽ chính trị có ổn định thì khi đó Nhà nước mới
tập trung được sức lực cho thị trường. Chúng ta chủ trương chuyển sang cơ chế thị trường
trên cơ sở ổn định chính trị, lấy ổn định chính trị làm tiều đề và điều kiện cho cải cách kinh
tế, mặt khác cùng nhận thức rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính, trên cơ
sở đổi mới quản lý của Nhà nước nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của quản lý của
nó cho phù hợp với điều kiện KTTT. Và tiếp tục ổn định chính trị đưa cải cách tiến lên
những bước phát triển mới.
b. Nhà nước định hướng và ban hành hệ thống luật pháp phục vụ kinh doanh:
Nhà nước phải xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển phù hợp với điều
kiện kinh tế xã hội nước ta theo các mục tiêu mong muốn, Trong nền kinh tế của nước ta
hiện nay Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được tự do lựa chọn phương án sản
xuất kinh doanh. Nhà nước không can thiệp vào quyết định của họ vì sản suất cái gì? bằng
cách nào? tiêu thụ ở đâu? Trong khi lựa chọn các phương án sản xuất kinh doanh doanh
nghiệp lấy lợi nhuận của mình làm thước đo hiệu quả. Song Nhà nước lại ban hành luật

chống độc quyền tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và lại không ảnh
hưởng đén đất nước.
c. Nhiều nước tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất hàng hoá nhiều thành

phần phát triển:
Chúng ta thấy mỗi cơ chế kinh tế chỉ có thể hoạt động khi có môi trường với những
điều kiện kinh tế – xã hội cần và đủ. Thực tiễn cho thấy rằng con đường lịch sử tự nhiên
của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển rất lâu dài. Ngày nay khi kinh nghiệm
lịch sử của các nước đã trở thành lý luận, các nước đi sâu có thể rút ngắn chặng đường
phát triển của mình chỉ bằng cách Nhà nước chủ động sử dụng kiến trục thượng tầng –
quyền lực Nhà nước để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp yên
tâm đầu tư, mở rộng phát triển sản xuất. Để hoàn thành vai trò của mình thông qua chức
năng quản lý vĩ mô Nhà nước ta sẽ và đã làm.
Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hoá giá cả thương mại hoá nền kinh tế.
Quy định và bảo đảm các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Đa dạng hoá chế độ sỡ hữu về tư liệu sản xuất.
Xây dựng hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường.
ổn định về chính trị – xã hội.
d. Phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, có hiệu quả tạo ra động
lực cần sản xuất:
Có thể nói đây là một chức năng không kém phần quan trọng bởi lẽ trong đời sống,
khi tình trạng bất bình đẳng vượt quá khuôn khổ cho phép sẽ dẫn đến sự phản ứng của dân
cư trong lĩnh vực chính trị – xã hội, mâu thuẫn gay gắt về lợi ích giữa các giai cấp có thể
dẫn tới sự đe doạ ổn định về mặt chính trị nên không tạo môi trường xã hội lành mạnh để
các doanh nghiệp làm ăn.
Trong nền kinh tế thị trường sự khác nhau về sở hữu của cải, về năng lực sở trường
trình độ tay nghề và may mắn dẫn đến sự khác nhau trong thu nhập. Nhà nước cần phải lựa
chọn phương án phân phối lại như thế nào để cho các hoạt động kinh tế có hiệu quả trong
sự bất bình đẳng cho phép.
c. Can thiệp vào quá trình kinh tế khi cần thiết:
Định hướng, tạo môi trường, phân phối một chiến lược dài hạn. Trong quá trình
thực hiện chiến lược đó, dưới ảnh hưởng của quan hệ kinh tế quốc tế. Chính vì vậy trong

quá trình thực hiện mục tiêu định hướng của các chương trình dài hạn những “cú sốc” làm

chệch mục tiêu là điều không thể tránh khỏi. Trong trường hợp đó Nhà nước cần phải sử
dụng những công cụ như: lãi suất, thuế, khối lượng tiền tệ và chỉ tiêu ngân sách để làm
giảm những chấn động do cú sốc gây ra, đưa nền kinh tế đi theo định hướng.
f. Quản lý tài sản quốc gia, phân bố các nguồn lực một cách hợp lý:
Trong nền KTTT hướng tới ở nước ta, Nhà nước cùng một lúc phải hoàn thành hai
nhiệm vụ lớn trong lĩnh vực kinh tế.
Điều khiển sự vận động của nền kinh tế bằng cách hoạch định các chiến lược phát
triển kinh tế xã hội dài hạn và ngắn hạn. Quyết định các phương án phân phối và phân phối
lại thu nhập quốc dân sao cho bình đẳng công bằng, hiệu quả tạo môi trường thuận lợi,
hướng dẫn cho các doanh nghiệp làm ăn, can thiệp vao nền kinh tế mỗi khi có “cú sốc” để
làm giảm các chấn động mục tiêu hiệu quả để đạt được mục đích chung của toàn xã hội.
cùng với chức năng điều khiển nền kinh tế Nhà nước còn phải đóng vai trò của
quản lý tài sản quốc gia, phân bố các nguồn lực của sản xuất một cách hợp lý.
Nhà nước là người thay mặt nhân dân quản lý các đặc quyền đặc lợi về kinh tế
trong lĩnh vực quốc gia. Về mặt đối ngoại Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm về các nguồn
lực, ngăn chặn mọi âm mưu từ bên ngoài đến các vùng đặc quyền đặc lợi trong vùng đất
vùng trời và vùng biển. Về mặt đối nội Nhà nước là người chủ sở hữu các nguồn lực này,
phân bố sử dụng giữa các thành phần kinh tế sao cho hợp lý.
Đồng thời Nhà nước còn là chủ sở hữu của khu vực doanh nghiệp Nhà nước, với tư
cách là chủ sở hữu của doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước quản lý trực tiếp và đóng vai trò
độc quyền ở các thị trường quan trọng, quyết định sự tồn tại của thể chế, với tư cách là
người chủ quản lý đất nước, Nhà nước là người trọng tài, là chủ thể quá trình phân công lại
vai trò giữa các thành phần kinh tế, không làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của toàn xã
hội.
3. Vai trò của Nhà nước Việt Nam trong thời kỳ chuyển nền kinh tế sang vận
hành theo cơ chế thị trường.
Từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung mang nặng tính hiện vật, tự cung tự cấp vận
hành theo cơ chế chỉ huy chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nền kinh tế phải trải qua thời kỳ quá


độ - đó là thời kỳ cơ chế cũ chưa hoàn toàn mất đi, cơ chế mới chưa thực sự ra đời, hoạt
động trên cơ sở của chính nó và phát sinh tác dụng. Trong điều kiện đó vai trò của Nhà
nước cực kỳ quan trọng, trong lịch sử phải mất hàng trăm năm nền sản xuất hàng hoá
TBCN mới phát triển lên trình độ kinh tế thị trường có sự can thiệp cuả Nhà nước. ở nước
ta Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng để rút ngắn chặng đường lịch sử hàng trăm năm
trong khoảng thời gian vài chục năm. Xuất phát từ quan niệm đó Nhà nước ta cần thực
hiện những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Nhà nước sử dụng quyền lực kinh tế – chính trị của mình để tiếp tục quá trình tự
do giá cả, thương mại hoá nền kinh tế với những nội dung cơ bản là:
Xoá bỏ tình trạng độc quyền và xây dựng các đạo luật chống độc quyền bằng cách
tạo điều kiện cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
Tạo điều kiện, các tiền đề kinh tế – pháp lý cho sự hoạt động của thị trường cần
thiết như thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường lao động.
- Nhà nước là người đảm nhận vai trò thiết lập và duy trì uyền sở hữu các nguồn lực
kinh tế theo hướng xác định rõ sở hữu đích thực của công dân, của các doanh nghiệp tập
thể, tư nhân và Nhà nước. Cụ thể là:
Giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân với các quyền cụ thể như thừa
kế, thế chấp, cho thuê, chuyển đổi và chuyển nhượng.
Cho thuê hoặc đấu thầu các tài sản phục vụ sản xuất kinh doanh.
- Nhà nước đóng vai trò “bà đỡ” cho sự ra đời của cơ chế thị trường, các thành phần
kinh tế, hướng dẫn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế kinh doanh có hiệu quả.
Để hoàn thành chức năng “bà đỡ”, hướng dẫn các nổ lực của thị trường Nhà nước cần
phải:
- Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật tạo môi trường đầu tư hấp dẫn cho các doanh
nghiệp.
Xây dựng các khuôn khổ pháp lý sao cho thoả mãn các yêu cầu, một mặt các doanh
nghiệp tự do kinh doanh, mặt khác Nhà nước vẫn có thể kiểm soát nghĩa vụ của các doanh
nghiệp trước Nhà nước.
Ban hành các chính sách kinh tế hấp dẫn để khuyến khích các doanh nghiệp trong
và ngoài nước đầu tư mở rộng sản xuất.


- Cải tổ bộ máy hành chính sao cho gọn nhẹ, năng động, đơn giản hoá các thủ tục
hành chính.
V. Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà
nước ta hiện nay.
Trong thời đại ngày nay, việc nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước là xu hướng
khách quan đối với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị. Ngày nay, không có
một Nhà nước nào đứng ngoài đời sống kinh tế, không có một nền KTTT nào thuần tuý
mà ở những mức độ khác nhau đều có sự can thiệp của Nhà nước.
Mỗi quốc gia, trong các trường hợp kinh tế phát triển thành công hay suy thoái trì
trệ, giàu hay nghèo, ổn định hay rối loạn đều tìm thấy nguyên nhân chủ yếu ở vai trò của
Nhà nước. Vì thế chuyển sang kinh tế thị trường chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ chính là
vai trò của Nhà nước. ở nước ta quản lý Nhà nước về kinh tế là sự quan tâm đặc biệt của
Đảng và Nhà nước và tất cả chúng ta. Vì trong một thời gian dài đã tồn tại trong kinh tế
hiện vật với sự cường điệu quá mức vai trò của Nhà nước trở thành nhân tố kìm hãm sự
phát triển kinh tế tạo ra mô hình XHCN hành chính Nhà nước. Vì vậy chuyển sang kinh tế
thị trường, vai trò của Nhà nước trong kinh tế là quan trọng và là xu hướng tất yếu. Vì vậy
chúng ta luôn luôn phải củng cố và nâng cao thông qua các công cụ quản lý vĩ mô như:
Luật pháp.
Kế hoạch: Kinh tế xã hội
Sản xuất kinh doanh
Chính sách tài chính.
Chính sách tiền tệ.
Kinh tế quốc tế.
Thông qua các công cụ quản lý vĩ mô chúng ta phải:
1. Xác định mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội phù hợp với đặc
điểm kinh tế xã hội ở nước ta và bối cảnh quốc tế hiện nay.
Bối cảnh quốc tế hiện nay đang đứng trước diễn biến mới, xu thế thương mại hoá
toàn cầu cùng với xu thế hoà bình ổn định, cải cách và chuyển dịch cơ cấu để phát triển…
đang là sự lựa chọn của các quốc gia để tồn tại và phát triển. Cạnh tranh kinh tế quốc tế

ngày càng ác liệt, toàn diện để tìm kiếm thị trường,nguồn nguyên liệu vốn đầu tư, khoa

học công nghệ, chất xám… nên làm nảy sinh nhiều vấn đề và nó tác động sâu sắc đến mọi
mặt của đời sống kinh tế – xã hội nước ta, tạo ra những cơ hội và thách thức mới, đòi hỏi
chúng ta phải xác định mục tiêu và chiến lược phát triển một cách đúng đắn có cơ sở,
không được tuỳ tiện nhằm phát huy những thành tựu đã đạt được, ra sức phấn đấu tranh
thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra những cơ sở vật chất và nguồn lực cho bước phát triển
nhanh và bền vững về kinh tế, chặn đứng tiến tới đẩy lùi tiêu cực, bất công xã hội, xoá đói
giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, củng cố quốc phòng an ninh,
giữ vững ổn định chính trị – xã hội, phấn đấu thực hiện vượt mức các mục tiêu đề ra, đưa
đất nước ngày một thoát khỏi tình trạng nước nghèo lạc hậu, tạo đà mạnh mẽ để phát triển
nhanh chóng vào những năm đầu thế kỷ 21 và sau đó.
2. Tăng trưởng kinh tế và điều kiện đảm bảo tăng trưởng cao và bền vững.
Tăng trưởng kinh tế và việc tăng GDP bình quân theo đầu người. Hiện nay ở nước
ta GDP còn thấp khoảng 230 USD một người, là một trong những nước nghèo nhất trên
thế giới vì vậy vấn đề đặt ra là Nhà nước chúng ta cần phải có chiến lược năng động, sáng
tạo để cùng nhân dân phấn đấu đưa nước ta ra khỏi danh sách các nước nghèo trên thế
giới, muốn vậy Nhà nước chúng ta phải.
- Có những phương pháp hữu hiệu để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước bằng
cách.
Đảm bảo lãi suất tiền gửi phải cao hơn tỷ lệ lạm phát
Phát hành công trái để huy động vốn.
Phát triển chúng tôi cổ phần và thị trường chứng khoán.
Tạo môi trường các biện pháp vĩ mô để kiềm chế lạm phát đảm bảo được thu hút
tiền gửi tiết kiệm dài hạn, trung hạn.
Kết hợp chặt chẽ các hình thức đầu tư.
Đối với đầu tư FDI cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách và cải tiến quản
lý.
Cải cách thủ tục hành chính cho phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời đảm bảo

thủ tục gọn nhẹ.

Tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội nhằm tăng sức hấp dẫn và tạo
môi trường đầu tư thuận lợi.
Cần có cơ quan quản lý nợ nước ngoài để tư vấn cho việc huy động, quản lý, sử
dụng và trả nợ.
- Ngoài ra Nhà nước ta phải có chiến lược phát triển khoa học công nghệ và cần
phải quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng nhất.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và dân số.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và vấn đề môi trường.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và phân phối thu nhập.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng và thị trường.
3. Đổi mới cơ chế quản lý và sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước tránh hai
khuynh hướng.
Quan niệm vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước một cách máy móc, duy trì,
phát triển một cách tràn lan, không tính đến hiệu quả.
Coi hình thức sở hữu là nhân tố chủ yếu, cho kinh tế tư nhân có hiệu quả nên cần tư
nhân hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
4. Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ.
Pháp luật là công cụ để điều chỉnh các hoạt động trong sản xuất kinh doanh theo
một xu hướng nhất định và đảm bảo công bằng, đưa lại lợi ích cao nhất vì vậy nên nó rất
quan trọng.
Đối với nước ta hệ thống pháp luật chưa được hoàn thiện còn bất động sản, thị
trường vốn, thị trường chứng khoán công ty tài chính, chế độ kế toán, kiểm toán và báo
cáo tài chính công khai bắt buộc.
Bổ sung điều chỉnh bộ luật thức tránh chồng chéo phân tán theo hướng mở rộng.
Khuyến khích đầu tư trong nước, sửa đổi, bổ sung luật Công ty và luật doanh
nghiệp tư nhân, kiểm soát độc quyền và cạnh tranh.
Xây dựng bộ luật thương mại, luật ngân sách, luật hành chính Nhà nước, các hiệp

định đa phương và song phương.

Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật, hoàn thiện hệ thống các cơ quan thi hành
pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền và quản lý kinh tế bằng pháp luật.
Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân, nhất là những người lãnh đạo chủ
chốt.
5. Cải cách hành chỉnh gắn liền với đổi mới kinh tế.
Hệ thống hành chính nước ta đang gặp nhiều khó khăn, vì vậy nên nó tác động rất
lớn đến sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy chúng ta cần phải cải cách hành chính trên
các mặt:
Thể chế hành chính.
Tổ chức bộ máy.
Xây dựng đội ngũ công chức hành chính.
Cải cách thủ tục hành chính.
Mỗi một biện pháp đều có tính ưu việt của nó song cũng có nhiều nhược điểm, vì
vậy chúng ta cần phải kết hợp để bổ sung cho nhau, trong đó biện pháp kinh tế phải được
coi trọng đặc biệt. Con người là mối tổng hoà của các quan hệ xã hội, hoạt động và nhiều
động cơ, nên việc quản lý phải dùng tổng hợp các biện pháp nhờ vậy Nhà nước ta mới
quản lý có hiệu quả nền kinh tế thị trường đạt được mục tiêu của mình.








Phần III. Kết thúc vấn đề
Nhà nước nói những chức năng của mình sẽ góp phần tích cực trong việc định
hướng, xây dựng và quản lý nền kinh tế. Đối với nước ta nền kinh tế còn kém phát triển,

lạc hậu bị phân tán cùng với đội ngũ cán bộ quản lý còn yếu kém về kinh nghiệm thì vai
trò quản lý của Nhà nước lại càng quan trọng. Nhà nước đóng vai trò là kim chỉ nam cho

×