1
Luận văn
Xuất khẩu điều sang thị trường
Mỹ
2
Lời nói đầu
**** *** *** *** *** *** ***
Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước Việt
Nam trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay. Đây là một
trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước. Để hoàn thành được nhiệm vụ đó cũng như giúp Việt Nam bắt kịp
được với tiến trình toàn cầu hoá và hội nhập, chúng ta cần phải tăng cường mở
rộng thị trường, đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu và tiếp tục phát huy các
mặt hàng thế mạnh.
Hiện nay Mỹ đã và đang là đối tác quan trọng, một thị trường lớn có khả
năng tiêu thụ nhiều hàng hoá, sản phẩm của Việt Nam. Các mặt hàng xuất khẩu
chủ lực của Việt Nam cũng chính là những mặt hàng mà thị trường này có nhu
cầu nhập khẩu hàng năm với khối lượng như giầy dép, thuỷ hải sản, nông sản…
Trong đó điều là một trong những mặt hàng nông sản quan trọng nhất được bán
rộng rãi, chiếm thị phần cao trên thị trường Mỹ. Vì vậy đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hoá nói chung và đẩy mạnh xuất khẩu điều nói riêng vào thị trường Mỹ là
một việc làm cần thiết đối với nước ta hiện nay. Tuy nhiên để làm được điều này
Việt Nam cần tập trung nghiên cứu tìm cách giải quyết các vướng mắc, cản trở
hoạt động xuất khẩu sang Mỹ và tìm ra các giải pháp căn bản để đẩy mạnh xuất
khẩu nhân điều.
"Xuất khẩu điều sang thị trường Mỹ" làm đề tài cho môn đề án môn học
của mình.
Bố cục của đề tài được chia làm ba phần:
I: Một số lý luận về hoạt động xuất khẩu
II: Thực trạng xuất khẩu điều vào thị trường Hoa Kỳ
III: Đề xuất thúc đẩy phát triển ngành điều và đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ
3
Xuất khẩu điều sang thị trường Mỹ
I. Một số lý luận về hoạt động xuất khẩu
1 Khái niệm về xuất khẩu
1.1 Khái niệm
Xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh thu doanh lợi bằng cách bán hàng hóa
hoặc dịch vụ ra thị trường nước ngoài dựa trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương
tiên thanh toán, với mục tiêu là lợi nhuận.
Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hoặc với cả hai quốc gia.
Mục đích của hoạt động này là thu được một khoản ngoại tệ dựa trên cơ sở khai
thác lợi thế so sánh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Khi
việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia đều có lợi thì các quốc gia đều tích cực
tham gia mở rộng hoạt động này.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là
hoạt động đầu tiên của thương mại quốc tế. Xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như trên toàn thế
giới:
2.1. Xuất khẩu tạo ra nguồn thu ngoại tệ
Ngoại tệ sử dụng làm phương tiện thanh toán trong khi đó xuất khẩu góp
phần làm tăng dự trữ ngoại tệ một quốc gia. Đặc biệt với các nước đang
phát triển đồng tiền không có khả năng chuyển đổi thì ngoại tệ có được
nhờ xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà về cung cấp
ngoại tệ, ổn định sản xuất, qua đó góp phần vào tăng trưởng và phát
triển kinh tế.
2.2. Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH - HĐH) đất nước
Đối với mọi quốc gia đang phát triển thì bước đi thích hợp nhất là phải
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để khắc phục tình trạng nghèo
làn lạc hậu chận phát triển. Tuy nhiên quá trình công nghiệp hoá phải có
một lượng vốn lớn để nhập khẩu công nghệ thiết bị tiên tiến. Xuất khẩu
là một hoạt động tạo một nguồn vốn rất quan trọng nhất, tạo tiền đề cho
nhập khẩu, nó quyết định đến qui mô tốc độ tăng trưởng của hoạt động
nhập khẩu. Ở một số nước một trong những nguyên nhân chủ yếu của
tình trạng kém phát triển là do thiếu tiềm năng về vốn do đó họ cho
nguồn vốn ở bên ngoài là chủ yếu, song mọi cơ hội đầu tư vay nợ và
viện trợ của nước ngoài chỉ thuận lợi khi chủ đầu tư và người cho vay
thấy được khả năng sản xuất và xuất khẩu – nguồn vốn duy nhất để trả
nợ thành hiện thực.
2.3. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH
Thứ nhất: Xuất khẩu tạo tiền đề cho các ngành khác cùng có cơ hội phát triển.
Điều này có thể thông qua ví dụ như khi phát triển ngành dệt may xuất
khẩu, các ngành khác như bông, kéo sợi, nhuộm, tẩy…sẽ có điều kiện
phát triển.
4
Thứ hai: Tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở
rộng thị trường tiêu dùng của một quốc gia. Nó cho phép một quốc gia
có rthể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lương lớn hơn nhiều lần giới
hạn khả năng sản xuất của quốc gia đó thậm chí cả những mặt hàng mà
họ không có khả năng sản xuất được.
Thứ ba: Góp phần thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của
từng quốc gia. Nó cho phép chuyên môn hoá sản xuất phát triển cả về
chiều rộng và chiều sâu.
2.4. Xuất khẩu góp phần giải quyết việc làm cho xã hội và cải thiện đời sống
nhân dân
Đối với công ăn việc làm, xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động thông
qua việc sản xuất hàng xuất khẩu. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra ngoại tệ để
nhập khẩu hàng tiêu dùng đáp ứng yêu cầu ngay càng đa dạng và phong
phú của nhân dân.
2.5. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ
kinh tế đối ngoại.
Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, ngoại giao có tác động
qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là cơ sở tiền đề vững
chắc để xây dựng các mối quan hề kinh tế đối ngoại sau này, từ đó kéo
theo các mối quan hệ khác phát triển như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc
tế, tín dụng quốc tế… ngược lại sự phát triển của các ngành này lại tác
động trở lại hoạt động xuất khẩu làm cơ sở hạ tầng cho hoạt động xuất
khẩu phát triển.
II. Thực trạng xuất khẩu điều vào thị trường Hoa Kỳ
2.1 Đặc điểm ngành công nghiệp chế biến điều xuất khẩu ở Việt Nam
Điều là một trong sáu mặt hàng nông sản giữ vai trò quan trọng trong
xuất khẩu của Việt Nam và có vị thế cao trên thế giới. Nếu như xuất
khẩu cà fê, gạo đứng thứ 2 thế giới, cao su đứng thứ 4, chè đứng thứ 5
thì xuất khẩu nhân điều và hạt tiêu đen của Việt Nam thường xuyên giữ
ở vị trí số một.
2.1.1 Về nguồn cung điều xuất khẩu Việt Nam
Nguyên liệu điều của Việt Nam chủ yếu được nhập khẩu từ các nước
Châu Phi chiếm khoảng 40 % , trong đó sản lượng điều trong nước chỉ
có thể đáp ứng được 60% nhu cầu (theo ước tính của Vinacas năm 2009)
Điều thô được cung cấp từ trong nước đáp ứng khoảng 60% nhu cầu,
được cho là đứng vị trí số 1, hương vị thơm ngon, màu sắc tự nhiên,
không nhiễm dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, chất lượng hơn hẳn nhân
điều của Ấn Độ, Brazil hay Tanzania.
Theo hiệp hội điều Việt Nam( Vinacas), Việt Nam hiện có khoảng
400.000 héc ta hạt điều, trồng chủ yếu ở các tỉnh phía nam, với năng
suất 1,06 tấn/héc ta. Đứng đầu về sản xuất và xuất khẩu điều là tỉnh
Bình Phước. Với diện tích hơn 150 ngàn ha, chiếm 45% diện tích điều
5
cả nước; năng suất cao từ 1,1 – 1,5 tấn/ha và có trên 200 cơ sở chế biến
hạt điều, Bình Phước là thủ phủ điều cả nước và ngành điều trở thành
ngành nông sản chủ lực của tỉnh.
Bảng 1: Diện tích, sản lượng, kim ngạch xuất khẩu điều ước tính năm 2010 so
với 2009.
ước tính 2010 2009
Diện tích (hécta) Không có số liệu
398.100
Sản lượng (tấn) 400.000-450.000
293.500
Mục tiêu xuất khẩu 180.000 177.200
2 tháng đầu
năm 2010
2 tháng đầu
năm 2009
Khối lượng xuất khẩu (tấn) 19.900 20.800
Kim ngạch xuất khẩu (triệu
USD)
108 94.4
Theo ước tính của Vinacas ()
Cũng theo Vinacas, điều thô nhập từ các nước châu Phi, trong 5 năm (từ
2006 đến 2010) ngành điều VN nhập gần 1 triệu tấn điều thô từ các
nước châu Phi như Bờ Biển Ngà (trên 50%), Guinea Bissau,
Mozambique và một số nước châu Á như Indonesia, Campuchia.
2.1.2 Công nghệ chế biến điều
Thời gian đầu , công nghệ chế biến hạt điều trong nước kết hợp thủ
công và cơ giới, trong đó hai công đoạn quan trọng là cắt tách vỏ hạt và
bóc vỏ lụa nhân vẫn dựa vào thủ công, việc nhập khẩu máy móc, công
nghệ nước ngoài là rất tốn kém chi phí lên đến 16 đến 20 tỷ đồng nhập
khẩu dây chuyền cắt, tách hạt tự động từ nước ngoài. Hiện nay Việt
Nam đã có công nghệ sản xuất điều của riêng mình. Thay vì nhập khẩu
dây chuyền ngoài thì nay doanh nghiệp chỉ mất khoảng 5 tỷ đồng nhờ
công nghệ trong nước. Điều này tiết kiệm chi phí và nâng cao năng suất
rõ rệt trong sản xuất chế viến điều cho các doanh nghiệp Việt Nam. Bên
cạnh đó dây chuyền chế biến hạt điều trong nước sản xuất giúp giảm
được khoảng 50% - 60% lao động/mỗi dây chuyền. Các khâu trong dây
chuyền của một nhà máy chế biến điều đều được tự động hóa, và đều
được chế tạo trong nước.
2.1.3 Lợi thế sản xuất và xuất khẩu điều của Việt Nam
Theo lý thuyết về lợi thế so sánh của Ricardo các mặt hàng nông sản
Việt Nam có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới.
Với nguồn lao động sẵn có và chi phí chế biến rẻ là một yếu tố quan
trọng trong việc tạo ra lợi thế so sánh trong xuất khẩu, đây cũng là một
trong những đặc điểm của các quốc gia đang phát triển. Ngành điều hiện
nay thu hút khá lớn nguồn lao động tham gia chế biến xuất khẩu, hơn
nữa lại chủ yếu là lao động phổ thổng nên mức lương lại giữ ở mức
6
thấp. Việc nguồn lao động, chi phí rẻ và có khả năng đáp ứng tạo ra lợi
thế lớn cho Việt Nam trong việc xuất khẩu nhân điều ra thế giới.
Bên cạnh đó, hiện nay ở Việt Nam đã có công nghệ chế biến điều
riêng thay vì nhập khẩu máy móc rất đắt từ nước ngoài. Với năng suất
cao, tỷ lệ hạt bể vỡ thấp hơn nữa giá thành lại rẻ, đây là một trong những
yếu tố góp phần đưa Việt Nam trở thành nước đứng đầu thế giới về xuất
khẩu nhân điều kể từ năm 2008. Theo đánh giá của Bộ công thương thì:
“Công nghệ chế biến hạt điều Việt Nam chính là báu vật, bí kíp vì đã
góp phần vào sự thành công của ngành điều trong nước trong vòng 20
năm trở lại đây”.
2.1.4 Các nhà máy chế biến điều ở Việt Nam và tiêu chuẩn áp dụng khi xuất
khẩu
Với mục tiêu tiếp tục phát huy thế mạnh và giữ vững vị trí xuất khẩu
nhân điều trên thế giới, hiện nay ngành điều đang tích cực các khâu chế
biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm, xây dựng thương hiệu và thực hiện tốt
vệ sinh an toàn thực phẩm.
Hai tiêu chuẩn phổ biến của ngành điều Việt Nam áp dụng khi thực hiện
xuất khẩu là ISO 9001:2000 và HACCP. Đến hết năm 2009, theo ước
tính của Bộ công thương cả nước có trên 200 DN chế biến hạt điều
trong đó có 20 DN đạt ISO 9001:2000 và HACCP. Các doanh nghiệp
chế biến điều hầu hết là vừa và nhỏ, trong đó trong 203 doanh nghiệp
tham gia xuất khẩu điều chỉ có 38 doanh nghiệp có kinh nghạch xuất
khẩu từ 5 triệu USD trở lên.
2.1.5 Những lợi ích mang lại từ việc xuất khẩu điều với nền kinh tế quốc dân
Với việc thu hút số lượng lớn nhân công, tạo việc làm, tăng thu ngoại tệ, xuất
khẩu điều cũng như với việc xuất khẩu các mặt hàng nông sản khác của Việt
Nam mang lại lợi ích lớn đến nền kinh tế quốc dân.
Thứ nhất: Giải quyết việc làm tạo, thu nhập cho người lao động. Bên cạnh đó
cây điều được trồng chủ yếu ở các địa bàn khó khăn, đã góp phần hỗ
trợ tích cực cho cải thiện đời sống nông dân ở các vùng nông thôn.
Giúp xóa đói giảm nghèo cho người dân.
Thứ hai: Mang lại nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia, trước tình trạng khan hiếm
ngoại tệ như hiện nay. Năm 2009 Việt Nam xuất khẩu nhân điều đạt
kim ngạch 850 triệu USD. Dự kiến đến hết năm 2010 xuất khẩu điều
sẽ đạt 1,12 tỷ USD tiếp tục dẫn đầu thế giới.
Thứ ba: Đóng góp lớn vào ngân sách nhà nước. Việc xuất khẩu nhân điều giữ
vị trí số một, với nguồn thu ngoại tệ lơn đồng nghĩa với việc đóng góp
vào ngân sách nhà nước cũng tăng cao.
Thứ tư: Việc phát triển của ngành điều tạo ra thúc đẩy phát triển cho các lĩnh
vực khác trong nền kinh tế quốc dân, như ngân hàng, tín dụng, bảo
hiểm…
7
2.2 Đặc điểm của thị trường Hoa Kỳ
2.2.1 Đặc điểm cơ bản của thị trường Mỹ
Thứ nhất: Mỹ là một thị trường khổng lồ. Dung lượng thị trường Mỹ rất lớn do
Mỹ có dân số đông, thu nhập bình quân đầu người cao. Sức mua của
người Mỹ lớn vì họ chi tiêu mua sắm nhiều. Theo thống kê, trong 15
năm qua, tỷ lệ tiết kiệm của người Mỹ đã từ 6% giảm xuống còn 1%.
Hàng hoá mà người Mỹ tiêu dùng hầu hết được nhập khẩu từ bên ngoài.
Có thể đánh giá rằng Mỹ là một xã hội tiêu thụ.
Thứ hai: Cơ cấu thị trường và mặt hàng tiêu thụ ở Mỹ rất đa dạng, nhu cầu hàng
hoá ở từng vùng không giống nhau. Hàng hoá dù có chất lượng cao hay
vừa đều có thể bán trên thị trường Mỹ vì ở đây có nhiều tầng lớp dân cư
với mức sống khác nhau. Tuy nhiên, đòi hỏi của người tiêu dùng Mỹ đối
với sản phẩm cũng rất khắt khe, sản phẩm không chỉ chất lượng tốt mà
giá cả phải hợp lý và dịch vụ đảm bảo
Thứ ba: Với sức hấp dẫn của mình, Mỹ là một thị trường cạnh tranh gay gắt.
Hàng hoá của một nước vào thị trường Mỹ phải cạnh tranh với các mặt
hàng tương tự từ nhiều nước khác và hàng sản xuất trong nước. Mấu
chốt để cạnh tranh trên thị trường Mỹ là giá cả, chất lượng và dịch vụ.
Đôi khi đòi hỏi về giá cả lại lớn hơn đòi hỏi về chất lượng. Do người
tiêu dùng Mỹ thích thay đổi, họ muốn mua những hàng hoá rẻ, chất
lượng vừa phải hơn những mặt hàng bền mà giá lại đắt. Vì nguyên nhân
này mà các hàng hoá của Trung Quốc rất thành công trên thị trường Mỹ.
Một điều nữa cần lưu ý là khi bán hàng trên thị trường Mỹ, công tác
marketing đóng vai trò hết sức quan trọng.
Thứ tư: Thị trường Mỹ được quản lý trên cơ sở pháp luật. Trong thương mại,
các văn bản luật bao gồm luật điều chỉnh chung, luật điều chỉnh từng
nhóm các mặt hàng và thậm chí một số mặt hàng có luật điều chỉnh
riêng. Các luật này rất chặt chẽ và đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt. Hệ
thống luật này khá phức tạp và làm cho các nhà xuất khẩu nước ngoài
gặp khó khăn nếu không nắm vững.
2.2.2 Những khó khăn khi xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ
Thứ nhất: Hàng hóa Việt Nam vào Mỹ gặp nhiều rào cản. Người Mỹ đã gắn
thương mại hàng hóa với môi trường, coi như một đạo luật nhưng thực
chất là rào cản phi quan thuế mới trong giao thương hàng hóa. Hiện nay
vào thị trường Mỹ gặp phải khá nhiều quy định, rào cản theo hướng bất
lợi cho một quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
Từ khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực bắt đầu từ ngày
10/12/2001, có thể khẳng định rằng việc hiệp định thương mại Việt -
Mỹ có hiệu lực tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng nông
sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ, một thị trường có sức mua lớn
nhất thế giới. Xuất khẩu nông sản vào thị trường Mỹ là một thế mạnh
của Việt Nam trong hơn chục năm qua nhưng điều đó dường như đã
thay đổi khi thị trường nước này ngày càng có nhiều quy định, đòi hỏi
8
nhà xuất khẩu phải vượt qua. Ví dụ như Mỹ áp dụng đạo luật Lacey
trong xuất khẩu đồ gỗ, các quy định của Farm Bill 2008 của Mỹ, hay áp
dụng phương pháp “zeroing” (quy về bằng không) khi tính toán biên độ
phá giá…Điều này khiến cho 5 tháng đầu năm 2010 Việt Nam lại trở
thành nước nhập siêu nông sản từ Mỹ, lần đầu tiên trong 5 năm qua.
Để giảm thiểu bớt rào cản chỉ khi phía Mỹ đồng ý cho Việt Nam hưởng
Quy chế hưởng Hệ thống thuế quan phổ cập (GSP) và công nhận Việt
Nam là nước có nền kinh tế thị trường thì khi đó xuất khẩu nông sản vào
Mỹ mới thuận lợi.
Thứ hai:
Mỹ là một thị trường không nhưng có những quy định khắt khe mà còn
có sự cạnh tranh gay gắt. Theo thống kê, đối thủ chính của Việt Nam
trong ngành hàng cà phê hiện là Indonesia và Ấn Độ. Hạt tiêu thì có
Indonesia, Ấn Độ, Malaysia; cao su là Thái Lan, lndonesia, Malaysia;
hải sản là Thái Lan, Philippines. Riêng về hai ngành hàng có kim ngạch
nhập khẩu cao nhất vào Mỹ hiện nay là may mặc và giày dép thì các đối
thủ chính của Việt Nam là Trung Quốc, Bangladesh, Thái Lan,
Philippines cùng với một số
nước thuộc vùng Nam Mỹ, châu Âu.
Thứ ba:
Nhưng khó khăn về vấn đề luật lệ, các quy tắc thương mại khi làm ăn
với Mỹ. Luật pháp chi phối môi trường kinh doanh ở Mỹ, và các doanh
nghiệp thường có thói quen kiện tụng, đưa nhau ra tòa để giải quyết các
tranh chấp thương mại. Do vậy các doanh nghiệp Việt Nam phải thật
cẩn trọng quan hệ làm ăn. Việc sử dụng luật sư tư vấn để hạn chế những
tranh chấp hay xác định rõ các điều khoản ký trong hợp đồng sẽ giúp
cho phía doanh nghiệp Việt Nam chủ động trong những tranh chấp với
doanh nghiệp Mỹ.
2.3 Xuất khẩu điều sang thị trường Hoa Kỳ
2.3.1. Tình hình xuất khẩu điều của Việt Nam hiện nay
Theo Vinacas- hiệp hội điều Việt Nam, hiện nay Việt Nam đang là nhà
xuất khẩu nhân điều lớn nhất thế giới với 37% thị phần xuất khẩu điều
thế giới. Vị trí này được Việt Nam duy trì liên tục từ năm 2006, năm
2009 Việt Nam xuất khẩu 177.000 tấn nhân điều các loại, đạt kim ngạch
850 triệu USD. Ngoài nguyên liệu trong nước, Việt Nam còn nhập thêm
hạt điều thô về chế biến xuất khẩu; trên 95% lượng điều dành cho xuất
khẩu mỗi năm. Năm 2007, xuất khẩu điều đạt 150 ngàn tấn nhân điều,
giá trị 641 triệu USD, tăng 18,2 % về lượng, 27,2% về giá trị xuất khẩu
so với năm 2006.
Dự kiến năm 2010 xuất khẩu điều sẽ đạt 1,12 tỷ USD với tổng sản
lượng 400.000 tấn tiếp tục dẫn đầu thế giới. chiếm 36% tấn nhân điều
giao dịch.
9
Bảng 2: Sản lượng và giá trị xuất khẩu nhân điều Việt Nam qua các năm
Năm 2006 2007 2008 2009 9 tháng
đầu năm
2010
Số lượng
xuất khẩu
(tấn)
127.000 150.000 167.000 177.000 143.000
Giá trị (triệu
USD)
504 641 920 850 788
Theo ước tính của Vinacas ()
Về tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sang các thị trường, kim nghạch xuất
khẩu hạt nhân điều sang các thị trường thế giới tăng mạnh trong 4 tháng
đầu 2010 so với cùng kì năm ngoái. Trong đó có 4 thị trường tăng
trưởng trên 100% là: Nga, Ucraina, Canada, Thái Lan. Ngược lại, cũng
có 5 thị trường sụt giảm kim ngạch so cùng kỳ: Hy Lạp, Pakistan, Trung
quốc, Nauy ,Philippines. (bảng phụ lục số 1)
Hiện nay, giá điều xuất khẩu không chỉ Việt Nam mà các nước xuất
khẩu khác thời gian gần đây tăng mạnh. Đầu năm 2010, thao thống kê
của hiệp hội điều Việt Nam, giá điều trung bình đạt 5.213 USD/tấn, tăng
780 USD/tấn so với cùng kỳ năm ngoái. Trong quý I, các doanh nghiệp
chế biến điều đã xuất khẩu được 30.602 tấn, đạt 159,53 triệu USD, giảm
3,3% về lượng nhưng vẫn tăng 13,6% về kim ngạch.
Tuy nhiên nguồn nguyên liệu hiện nay đang thiếu trầm trọng:
Trong nước do nắng nóng kéo dài đã ảnh hưởng đến quá trình sinh
trưởng, ra hoa và tạo quả của cây điều; diện tích điều giảm nhanh do
tình trạng chặt bỏ cây điều chuyển sang trồng các loại cây khác như cao
su, sắn. Bên cạnh đó do sản lượng điều trên thế giới giảm mạnh khoảng
20%. Chính thực trạng như vậy dẫn đến việc cạnh tranh thu mua nguyên
liệu giữa các quốc gia rất quyết liệt khiến giá điều thô tăng lên mực cao
mức giá điều thô bị đẩy tăng 30% so với cùng kỳ năm 2009 (khoảng
1.000USD/tấn).Cùng với việc doanh nghiệp thiếu vốn nghiêm trọng
khiến từ giờ đến cuối năm các doanh nghiệp Việt Nam sẽ thiếu hụt điều
khô nghiêm trọng ước tính khoảng 150.000 tấn điều thô các loại, ảnh
hưởng lớn đến mục tiêu xuất khẩu đề ra.
2.3.2 Thực trạng xuất khẩu điều sang thị trường Hoa Kỳ
Năm 2008, Việt Nam đã vượt qua Ấn Độ trở thành nước cung cấp
điều lớn nhất sang thị trường Hoa Kỳ nói riêng và thế giới nói chung.
Nhân điều của Việt Nam được đối tác phía Mỹ đánh giá có chất lượng
tốt nhất. Theo Hiệp hội điều Việt Nam (Vinacas), xuất khẩu hạt điều của
Việt Nam vào Hoa Kỳ chiếm 33,29% tổng kim ngạch nhập khẩu hạt
điều của quốc gia này.
10
Theo thống kê của Bộ công thương Việt Nam, tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu điều của Việt Nam sang Hoa Kỳ năm 2008 đạt 25,12% với kim
ngạch 249,57 triệu USD. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế
nên nhu cầu điều giảm xuống khiến mức mức độ tăng trưởng lượng điều
xuất khẩu sang Mỹ giảm so với độ tăng trưởng của năm 2007. Hiện nay
Hoa Kỳ vẫn là thị trường nhập khẩu hạt điều chủ yếu của Việt Nam.
Bốn tháng đầu năm 2010, xuất khẩu hạt điều Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt
71 triệu USD, chiếm 29,8% trong tổng số điều xuất khẩu.
( Theo dõi bảng phụ lục số 1 và 2)
Tuy vậy, xuất khẩu điều của Việt Nam sang Mỹ vẫn vấp phải những hạn
chế sau:
2.3.2.1 Về vấn đề xuất phát từ nội bộ ngành:
Thứ nhất: Bên cạnh niềm tự hào là nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới, điều ngon
nhất thế giới thì ngành điều nước ta lại phải đối mặt với vấn đề là không
có thương hiệu, không được người tiêu dùng trên thế giới biết đến. Mặc
dù là nhà xuất khẩu điều lớn nhất thế giới, sản phẩm điều Việt Nam có
mặt tại hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, nhưng vẫn chủ yếu là sản
phẩm sơ chế, rồi sau đó được các hãng trên thế giới nhập khẩu - chế
biến- đóng nhãn hiệu - cung cấp cho thị trường. Do đó, người tiêu dùng
trên thế giới không biết mình đang dùng sản phẩm điều từ Việt Nam. Hệ
quả là phần lớn lợi nhuận trong chuỗi cung ứng điều rơi vào tay các
hãng nước ngoài, khi mà lẽ ra chúng ta là người được hưởng quyền lợi
đó.
Các doanh nghiệp điều Việt Nam chưa xây dựng được thương hiệu,
cũng như quan tâm xây dựng, bảo hộ nhãn hiệu sản phẩm của doanh
nghiệp. Việc xây dựng bảo hộ nhãn hiệu cho sản phẩm của mình được
coi là bước đầu tiên và là cơ sở để triển khai các hoạt động phát triển
thương hiệu. Thực tế cho thấy có không ít các doanh nghiệp do chưa
đăng ký nhãn hiệu sản phẩm đã bị doanh nghiệp khác hoặc các chủ thể
nước ngoài chiếm đoạt tên sản phẩm gây thiệt hại nghiêm trọng. Tính
đến thời điểm này, số các doanh nghiệp đã đăng ký nhãn hiệu cho sản
phẩm hạt điều còn rất thấp.
Theo thống kê của Cục Sở hữu Trí tuệ thì hiện nay tại Việt Nam mới chỉ
có 145 nhãn hiệu đã được đăng ký cho sản phẩm hạt điều, trong số đó
chỉ có bốn nhãn hiệu của các doanh nghiệp tại tỉnh Bình Phước - địa
phương hiện có sản lượng điều lớn nhất cả nước. Nguyên nhân do các
doanh nghiệp kinh doanh và chế biến điều phần lớn là chế biến sản
phẩm hạt điều bán thành phẩm rồi xuất khẩu, chưa đưa sản phẩm cuối
cùng đến người tiêu dùng trong nước cũng như nước ngoài. Do đó, nhu
cầu đăng ký nhãn hiệu chỉ thực sự cần và được chú trọng nếu doanh
nghiệp có sản phẩm hoàn chỉnh để đưa ra thị trường trong và ngoài
nước.
11
Thứ hai: Về chất lượng chế biến sản phẩm, nhân điều Việt Nam còn dính nhiều
tạp chất. Mặc dù tỷ lệ tạp chất có trong sản phẩm nhân điều Việt Nam
thấp hơn nhiều so với các nước khác nhưng gần đây đã phát hiện ra
mảnh kim loại, các vụn sạn và cả tóc; vấn đề nữa là sâu bệnh trên hạt,
các chấm sâu làm hạt điều xấu và giảm chất lượng hàng rất nhiều. Bên
cạnh đó, Hội nghị ngành điều do Hiệp hội các ngành công nghiệp thực
phẩm (AFI) tổ chức 2007 tại Mỹ nhận định: Việt Nam nhập nguyên liệu
từ nhiều nguồn và cách chế biến khác nhau, do đó mùi vị, màu sắc
không đồng nhất và sử dụng biện pháp bảo quản bằng khí CO2 thay vì
Nitơ như hiện nay.
Số lượng nhà máy đạt tiêu chuẩn còn rất ít. Một số mới chỉ đạt tiêu
chuẩn Việt Nam đối với hạt điều cho nguyên liệu đầu vào chứ chưa phù
hợp với thành phẩm đầu ra theo tiêu chuẩn quốc tế. Chưa kể, trên thực tế
nhiều doanh nghiệp hiện nay vẫn chưa áp dụng tiêu chuẩn VN cho chế
biến hạt điều một cách chưa thật sự nghiêm túc. Nếu những sự việc này
còn tiếp diễn chăc chắn sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến vị thí của nhân
điều Việt Nam trên đất Mỹ.
Thứ ba: Một số doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu điều sang Mỹ thời gian
gần đây còn mất uy tín nghiêm trọng. Trong văn bản của Hiệp hội Công
nghiệp thực phẩm Mỹ (AFI), họ không kiện, mà chỉ thông báo tên DN
Việt Nam chậm giao hàng làm các doanh nghiệp Mỹ gặp rắc rối. Hợp
đồng đã ký từ năm trước, nhưng khi giá điều lên cao, các doanh nghiệp
điều Việt Nam đã không giao hàng mà đem bán đi nơi khác lấy giá cao.
Sau đó giá nguyên liệu điều thô tiếp tục tăng cao, các doanh nghiệp
không đủ sức mua để trả nợ. Doanh nghiệp chế biến điều còn tìm cách
dùng keo 502 để dán hạt điều vỡ. Lô hàng đưa ra nước ngoài, bị nhà
nhập khẩu từ chối nhận hàng, hàng bỏ tại cảng, mất mát, hao hụt
Những thiệt hại vật chất do cách làm ăn mất uy tín chưa đo đếm được,
nhưng nếu còn diễn ra tình trạng đó, chắc chắn không chỉ Mỹ mà còn
nhiều quốc gia khác sẽ dần giảm nhập khẩu điều từ Việt Nam để chọn
các nhà cung cấp uy tín hơn.
Thứ tư: Sự mâu thuẫn giữa các nhà máy lớn và cơ sở nhỏ chế biến trong ngành.
Hiện nay Việt Nam có tổng hơn 200 doanh nghiệp lớn nhỏ tham gia chế
biến xuất khẩu điều thế nhưng số lượng doanh nghiệp lớn là rất ít.
Những những năm gần đây, hàng trăm điểm sản xuất nhỏ ra đời, thậm
chí chỉ vài ba bàn tách nhân với 4- 5 người làm, dăm sáu người là có thể
ngồi làm ở mọi nơi, mọi chỗ. Ưu thế này giúp những cơ sở nhỏ luôn
nắm ưu thế trong việc ra giá mua nguyên liệu. Do số lượng và khả năng
tài chính nhỏ bé, các cơ sở tư nhân chỉ cần mua vào một vài tấn một
ngày và họ cứ việc giữ nhịp mua vào chừng đó thôi. Với từng cơ sở nhỏ
bé, việc tăng giá mua vào lên 500đ/kg chỉ phải chi thêm ra năm trăm
ngàn đồng/tấn, sẽ được bù lại trong khâu chi phí giá thành thấp, nhưng
với các nhà máy lớn, do phải mua vào hàng chục, hàng trăm tấn /ngày
12
thì việc tăng thêm 500đ/kg là cả một vấn đề. Nếu đối tượng này chỉ có
một số ít thì không đủ điều tiết giá, nhưng khi số cơ sở nhỏ lên đến
hàng trăm, như hiện nay thì một ngày, hàng trăm tấn điều đã được hút
vào các cơ sở, khi đó các nhà máy muốn mua được hàng chục tấn/ngày
buộc phải lao theo giá của cơ sở nhỏ, vượt khỏi giới hạn giá mua vào đã
được cân đối với giá bán ra của các hợp đồng, và nguy cơ thua lỗ cũng
trở thành khổng lồ.
Về chi phí nhân công. Tiền lương trả theo sản phẩm ở các cơ sở nhỏ
thường cao hơn so với tiền lương làm việc tại nhà máy vì ngoài tiền
lương, các nhà máy phải thêm nhiều khoản khác như bảo hiểm, quần áo
bảo hộ, bảo hiểm y tế, các khoản đóng góp cho xã hội, khấu hao tài
sản…Vì chạy theo tiền lương trước mắt nhiều người lao động tại các
nhà máy thường bỏ về làm cho các cơ sở tư nhân. Các nhà máy càng
ngày càng thiếu vắng lao động.
Xuất hiện mâu thuẫn giữa giá bán ra của cơ sở tư nhân và sức ép tăng
cao doanh số của các nhà máy. Nhờ đầu ra là các nhà buôn và các nhà
máy đang cần tăng doanh số, các cơ sở tư nhân không bao giờ phải lo
lắng về đầu ra. Hiện giờ, không có một nhà máy điều nào ở Việt Nam có
số lượng 2.000 lao động tập trung, chủ yếu chỉ là những nhà máy có từ
100 đến 500 lao động tập trung. Với số lao động đó, chỉ có thể chế biến
5 -7 tấn/ngày, để xuất khẩu 1 công điều loại WW320, những nhà máy đó
cần phải làm liên tục khoảng 50 – 80 ngày. Nhưng trên thực tế thì
khoảng vài chục doanh nghiệp hiện nay vẫn xuất khoảng 10 -20 công
WW320/tháng. Để có được số hàng trên họ phải mua lại từ những cơ sở
nhỏ. Phải chấp nhận với những mức giá đắt rẻ khác nhau vì hợp đồng
đầu ra đã phải ký trước khi làm thủ tục vay vốn theo quy định của Ngân
hàng. Vậy là thêm một điều kiện nữa để cho cơ sở nhỏ tạo ra áp lực lên
các nhà máy lớn.
Thứ năm: Về sức ép lao động và an toàn vệ sinh thực phẩm. Các nhà máy không
chỉ mua lại hàng thành phẩm từ những cơ sở nhỏ, cũng vẫn do động lực
tăng nhanh doanh thu, doanh số, sản lượng , do các cơ sở nhỏ thiếu lao
động, ngại đầu tư thiết bị cơ giới hóa và tự động hóa vì chi phí lớn, các
nhà máy phải đưa hàng, gồm cả hàng tách nhân và hàng bóc vỏ lụa từ
trong khuôn viên nhà máy– nơi có đủ điều kiện kiểm soát an toàn vệ
sinh thực phẩm ra ngoài để làm.
Đã và đang xảy ra cuộc chiến nội bộ giữa các nhà máy nhằm chiếm lĩnh
thị phần lao động từ các cơ sở nhỏ chế biến điều xuất khẩu. Hàng hóa
được giao đến mọi nơi, giao cho mọi loại đối tượng ở các cơ sở nhỏ.
Việc chế biến một cách manh mún hoặc chế biến ở những nơi tập trung
đông người tiềm ẩn vô vàn những nguy cơ mất an toàn vệ sinh thực
phẩm. Những hoạt động ngoài luồng và không thể kiểm soát được này
càng làm tăng nguy cơ của ngành chế biến điều VN.
13
Thông tin từ Vinacas cho biết, Cơ quan quản lý thực phẩm và dược
phẩm Mỹ (FDA) đã có văn bản gửi Vinacas rằng họ sẽ sang kiểm tra
các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu điều vào Mỹ trong thời gian tới,
trong đó, có tiêu chí về an toàn vệ sinh thực phẩm. Nếu các doanh
nghiệp Việt Nam không có cải thiện, nâng cao chất lượng vệ sinh chắc
chắn sẽ ảnh hưởng đến lượng hàng xuất sang Mỹ, thậm trí có thể gửi trả
lại lô hàng.
Thứ sáu: Nguồn cung điều thô trong nước đang bị đe dọa nghiêm trọng vì diện
tích cây điều giảm do người nông dân không còn mặn mà với việc trồng
cây điều. Tại các tỉnh trồng điều nhiều như Bình Thuận, Bình Phước,
Bình Định người nông dân đã chặt bỏ cây điều để trồng cây khác,
nặng nề nhất là Bình Phước, hàng trăm héc-ta điều đã bị phá bỏ. Theo
Bộ NN&PTNT, năm 2010 diện tích cây điều sẽ là 400.000ha chứ không
phải là 450.000ha như đã lạc quan trước đây. Trong khi đó, ngành điều
rất khó có thể bù đắp nguồn nguyên liệu bằng cách nhập khẩu điều thô,
vì phải chịu dựng lãi suất ngân hàng cùng với việc giá cả thị trường bấp
bênh. Lý giải về tình trạng này, nhiều chuyên gia cho rằng, mặc dù tiềm
năng trồng điều của nước ta rất lớn nhưng thời gian qua, năng suất liên
tục sụt giảm do giá vật tư tăng cao, chi phí đầu vào lớn, dẫn đến tình
trạng người trồng giảm thu nhập, không có khả năng tái đầu tư. Chính
điều này làm nảy sinh tâm lý chán nản, không chú tâm chăm sóc của
người dân. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất mùa diễn ra
liên tục ở hầu hết các tỉnh trồng điều như Đồng Nai, Bình Dương, Bình
Phước. Đó là chưa kể, những tác động từ bên ngoài như ảnh hưởng của
thời tiết, mưa trái mùa vừa qua làm hơn 100.000ha điều bị nhiễm bệnh.
Năng suất, sản lượng sụt giảm đáng kể, cộng với giá thu mua không
được cải thiện khiến bà con chặt bỏ điều chuyển sang trồng các loại cây
trồng mới
Bên cạnh đó, giá thu mua điều tại vườn cũng rất thấp, theo Vinacas ước
tính chỉ khoảng 6.800-7.000 đồng/kg, giảm 3.000- 5.000 đồng/kg so với
thời điểm đầu năm 2009. Vì vậy, ở một số nơi, người dân ồ ạt chặt bỏ
điều để trồng cây khác khiến diện tích điều sụt giảm đáng kể.
Cùng với đó các nước châu Phi đang có kế hoạch chế biến hạt điều để
xuất khẩu thay vì xuất khẩu thô như lâu nay. Điều này ảnh hưởng
nghiêm trọng đến nguồn cung điều thô trong tương lai khi mà Việt Nam
nhập khá nhiều từ các nước Châu Phi.
2.3.2.2 Vấn đề xuất phát từ khách quan:
Thứ nhất: Do đặc thù kinh doanh, thời gian thanh toán tiền hàng xuất khẩu từ
phía đối tác Mỹ rất chậm, khiến doanh nghiệp không đủ điều kiện đáp
ứng đủ thủ tục để được hoàn thuế. Việc chậm hoàn thuế giá trị gia tăng
khiến ngành điều mất đi cơ hội tái sinh nguồn vốn. Do bán hàng chậm
phải chịu lãi suất kéo dài, áp lực trả nợ ngân hàng cũng rất lớn
14
Thứ hai: Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thiếu vốn nghiêm trọng để mua
nguyên liệu.Vào đầu vụ, doanh nghiệp chế biến điều phải vay vốn thu
mua nguyên liệu để dự trữ sản xuất trong năm. Hiện nay rất nhiều doanh
nghiệp nhỏ ngành điều đang lâm vào tình cảnh thiếu nguyên liệu sản
xuất. Ngoại trừ các doanh nghiệp thuộc tốp 20 doanh nghiệp lớn nhất,
các doanh nghiệp nhỏ hầu như không vay được vốn tạm trữ nguyên liệu.
Tình hình sẽ còn nghiêm trọng hơn vào các quý 4-2010 và quý 1-2011.
Nhu cầu vốn ngân hàng của ngành này khá lớn, theo tính toán số tiền
cần để mua hết lượng điều trong nước và nhập khẩu đủ sản xuất vào
khoảng 6.800 tỉ đồng.
2.3.3 Đánh giá cá nhân về những khó khăn, hạn chế doanh nghiệp Việt Nam
mắc phải:
2.3.3.1 Về vấn đề xuất phát từ nội bộ ngành
- Nguyên nhân là ở tầm vĩ mô, chúng ta đang thiếu một chiến lược
thương hiệu điều ở tầm quốc gia, chưa làm nổi bật được giá trị cốt lõi
của điều Việt Nam.
Do nhận thức của các doanh nghiệp về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc
đăng ký nhãn hiệu nói riêng và phát triển thương hiệu nói chung còn hạn
chế. Họ thấy không cần phải đăng ký hoặc không có đủ thông tin, kiến
thức để thực hiện việc đăng ký nhãn hiệu cho các sản phẩm của mình.
Bên cạnh đó, việc thay đổi nhận thức của họ là việc không thể thực hiện
một sớm một chiều vì từ lâu họ đã quen với việc kinh doanh mà không
cần đăng ký nhãn hiệu.
Thứ hai là do nhu cầu thực tế của doanh nghiệp về sử dụng nhãn hiệu
cho sản phẩm của mình chưa thật cấp thiết. Các doanh nghiệp kinh
doanh và chế biến điều phần lớn là chế biến sản phẩm hạt điều bán
thành phẩm rồi xuất khẩu, chưa đưa sản phẩm cuối cùng đến người tiêu
dùng trong nước cũng như nước ngoài. Do đó, nhu cầu đăng ký nhãn
hiệu chỉ thực sự cần và được chú trọng nếu doanh nghiệp có sản phẩm
hoàn chỉnh để đưa ra thị trường trong và ngoài nước.
- Về những vi phạm thương mại của không đáng có của doanh nghiệp
Việt Nam chủ yếu là do tính dự báo hiện trạng thị trường không chính
xác, cũng như năng lực quản lý quá kém của các doanh nghiệp Việt
Nam, dẫn tới những thua thiệt trên. Đây cũng chính là những vẫn đề
chung của các doanh nghiệp sản xuất nông sản khác trên Việt Nam. Để
điều Việt Nam có thế phát huy và củng cố vị trí số một trên thế giới thì
cần phải có chiến lược cụ thể thay đổi tác phong kinh doanh thiếu
chuyên nghiệp trong sản suất cũng như thực hiện xuất khẩu.
- Về vấn đề nguồn cung điều thô trong nước, khi mà hiện nay bà con nông
dân đã phá nhiều diện tích trồng điêu đi thay vào đó là trồng các cây
kinh tế lợ nhuận khác. Đó là do chúng ta chưa bảo đảm quyền lợi của
người nông dân. Giá điều thô mà các bà con bán cho nhà lái thu mua là
15
rất thấp. Lợi nhuận thu được không cao trong khi đó những chi phí, giá
cả các mặt hàng khác không ngừng một tăng khiến bà con không thực sự
chú tâm vào cây điều.
- Việc tồn tại nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ quá nhiều hiện nay, cũng
như chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm còn tồn tại nhiều bất ngành
còn do thiếu sự vào cuộc của các cấp các ngành trung ương. Mẫu thuẫn
nảy sinh của các doanh nghiệp ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động
xuất khẩu của ngành điều. Điều này sẽ còn tiếp diễn nếu các cơ quan bộ
ngành không có biện pháp tích cực hạn chế các cơ sở sản xuất nhỏ sẽ
dẫn đến làn tăng nguy cơ của ngành điều Việt Nam. Theo nhận định của
một số chuyên gia là: nếu ngành điều Việt Nam có đầy đủ các giấy phép
chứng nhận chất lượng sản phẩm sẽ giúp giá trị của nhân điều Việt Nam
nâng cao thêm 20%- 40% giá trị ban đầu. Thực trạng chất lượng vệ sinh
an toàn thực phẩm hiện nay do không chỉ đến từ phía doanh nghiệp mà
còn xuất phát từ hình thức chế biến hiện nay khi mà một khối lượng lớn
nhân điều thiếu trong hợp đồng xuất khẩu nhân điều được nhập từ các
cơ sở nhỏ. Chất lượng không đồng nhất do cơ sở, điều kiện chế biến
không đạt chuẩn sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu của Việt
Nam hiện nay.
2.3.3.2 Về vấn đề xuất phát từ khách quan
Hiện nay, khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập với thế giới ngày càng trở
lên sâu rộng khiến cho không riêng gì ngành điều mà cả nền kinh tế
Việt Nam cũng đang bắt đầu phụ thuộc vào quy luật cung cầu của thị
trường thế giới. Không chỉ cung cầu, mức giá điều đang diễn ra nhiều
thay đổi mà các ngành gạo, cà phê, tiêu cũng đã từng phải trả giá cho
chuyện lên xuống thất thường của thị trường mà không thể chuyển mình
đáp ứng kịp. Như ngành cà phê, đã có lúc giá thị trường thế giới lên cao
khiến doanh nghiệp trong nước chạy theo thu mua, trồng trọt. Hiện nay,
khi mà ngành điều còn phải nhập một lượng lớn điều thô, các doanh
nghiệp VN phải tổ chức lại sản xuất, đầu tư công nghệ, quy hoạch tốt
vấn đề cung cầu, tổ chức hệ thống tiêu thụ, thu mua, chế biến. Để có thể
thích ứng với nền kinh tế thế giới biến động như hiện nay.
III :Đề xuất thúc đẩy phát triển ngành điều và xuất khẩu sang Mỹ
3.1 Triển vọng, thách thức phát triển của ngành điều trong tương lai
3.1.1 Triển vọng trong tương lai
Với 37% thị phần điều xuất khẩu trên thế giới, trong tương lai ngành
điều Việt Nam sẽ được củng cố và tiếp tục giữ vững vị trí số một. Theo
dự báo của Vinacas, năm 2010, ngành điều Việt Nam sẽ đạt tổng sản
lượng là 400.000 tấn, có tổng giá trị 1,2 tỷ USD, trong đó kim ngạch
xuất khẩu ước đạt 1 tỷ USD.
- Với việc tích cực đầu tư mở rộng diện tích trồng điều nguồn cung
điều thô trong tương lai sẽ được ổn định và phong phú hơn. Phó Chủ
tịch Thường trực Vinacas Nguyễn Đức Thanh cho biết, tính đến đầu
16
năm 2010 đã có 4 doanh nghiệp đầu tư trồng khoảng 8.000ha điều ở
Campuchia và sắp tới có thể cả nước Lào. Đó là Donafood (Đồng Nai),
Tanimex và Lafooco ở Long An, Mỹ Lệ của Bình Phước. Lào là quốc
gia mà Vinacas nhắm đến hợp tác trồng, có thể lên đến 200.000ha điều ở
2 nước này, biến bán đảo Đông Dương thành trung tâm chế biến điều
nhân lớn nhất thế giới sẽ là hiện thực. Đây là điều hoàn toàn có thể thực
hiện được tạo ra hướng phát triển đầy triển vọng của ngành điều Việt
Nam trong tương lai.
- Trong năm tới, theo dự báo của hiệp hội điều Việt Nam, các doanh
nghiệp sẽ tiến hành đầu tư, phát triển nhiều sản phẩm từ hạt điều thô
như cồn khô,nhựa làm từ vỏ điều, thực phẩm… sẽ gia tăng đáng kể. Góp
phần thúc đẩy đưa ngành điều phát triển.
- Cùng với đó số tiền đâu tư cho ngành điều đang được thông qua ước
tính lên đến 1.000 tỉ đồng để phát triển vùng nguyên liệu, hiện đại hóa
và đầu tư nghiên cứu những sản phẩm mới. Đây là một phần trong
Chiến lược phát triển ngành điều Việt Nam giai đoạn 2011-2020 của
Hiệp hội điều Việt Nam (Vinacas) xây dựng. Số tiền này không những
mở rộng diện tích trồng điều mà còn giúp các doanh nghiệp đào tạo
công nhân có tay nghề, nâng cao công nghệ chế biến và đẩy mạnh xúc
tiến thương mại trong và ngoài nước.
- Giữ vững vị trí số 1 về xuất khẩu nhân điều trong nhiều năm, hiện nay
thương hiệu điều Việt Nam đang từng bước được khẳng định. Từ đó tạo
điều kiện phát triển, nâng cao lượng hàng xuất khẩu cũng như giá trị
trong những năm tới.
- Ngày 20/3/2010 tại thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước, sàn giao dịch
điều đầu tiên ở Việt Nam được thành lập, đã thu hút hàng trăm khách
hàng trong và ngoài nước đến tìm hiểu thông tin và đăng ký giao dịch về
mặt hàng điều. Việc khai trương sàn giao dịch điện tử sẽ góp phần đưa
ngành điều Việt Nam chiếm lĩnh vị trí số 1 trên thị trường thế giới và
phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu 1 tỷ USD trong năm 2010.
Với thị trường Mỹ
Được đối tác Mỹ nhận xét điều Việt Nam thơm ngon và chất lượng nhất
thế giới. Với giá trị dinh dưỡng cao và đặc biệt tốt cho những người mắc
bệnh tim mạch, tiểu đường, người béo phì ăn kiêng. Hạt điều không chỉ
chứa một lượng đáng kể các khoáng chất, magie, photpho, kẽm, đồng và
mangan có lợi cho sức khỏe nói chung và chế độ ăn lành mạnh mà còn
được sử dụng phổ biến trong các liệu pháp ăn kiêng và giảm cân. Đây là
một trong những điểm mà người không chỉ Mỹ và các nước phát triển
khác rât yêu thích.Trong tương lai chắc chắn Việt Nam sẽ tiếp tục giữ vị
trí số về thị phần điều trên thị trường Mỹ. Hiện nay tuy trưa có nhiều
doanh nghiệp điều Việt Nam bị kiện so với các mặt hàng xuất khẩu sang
Mỹ khác nhưng những nhận định, phê bình từ phía bạn là những bài học
cho Việt Nam kinh nghiệm cho phía Việt Nam.
Việc các doanh nghiệp Việt Nam đang từng bước đầu tư đổi mới, nâng
cao chất lượng chế biến, loại bỏ tạp phẩm, giữ chữ tín trong kinh doanh
17
sẽ đóng góp quan trọng nâng cao thị phần điều trên Mỹ- một thị trường
tiêu thụ lớn trên thế giới.
3.1.2 Thách thức phát triển của ngành
Thứ nhất:
Vấn đề về nguồn cung điều thô trong tương lai. Mặc dù Việt Nam đang
tích cực đầu tư, mở rộng diện tích trồng điều sang Campuchia, Lào thế
nhưng trước thực trạng hiện nay nguồn cung điều thô sẽ có những biến
động khó lường. Đó là diện tích trong nước ngày càng giảm đi. Việc lợi
ích người dân chênh lệch so với những cơ sở, doanh nghiệp chế biến
xuất khẩu do giá thu mua điều thô thấp dẫn đến việc không mặn mà lắm
đên cây điều. Gần đây nhất, dự án trồng 10.000ha điều ở Bình Dương bị
thất bại, cùng với đó, khi mà các nước Châu phi đang thực hiện nhập
khẩu công nghệ chế biến điều sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
nguồn cung điều hiện nay.
Thứ hai:
Thách thức về thương hiệu điều. Hiện nay tỉnh Bình Phước là tỉnh đang
đi đầu trong việc xây dựng thương hiệu điều Việt. Thế nhưng điều đó
còn là rất ít so với rất nhiều tỉnh là tham gia xuất khẩu điều hiện nay.
Thực hiện chiến dịch marketing quảng bá sản phẩm, sở hữu trí tuệ như
thế nào để quả điều Việt Nam trở lên phổ biến được biết đến trên thế
giới chính là một thách thức đến ngành điều của Việt Nam hiện nay.
Thứ ba:
Những thách thức liên quan đến chi phí sản xuất và vốn kinh doanh.
Đây là một trong những vấn đề nổi cộm của ngành thời gian gân đây.
Hiện nay, ngành điều đang đối mặt với tình trạng thiếu lao động phổ
thông trầm trọng cùng với đó chi phí sản xuất không ngừng tăng cao làm
ảnh hưởng đến sản lượng xuất khẩu cũng như giá thành điều xuất khẩu
của Việt Nam. Việc thời gian gần đây, khi mức giá không chỉ nhân điều
mà điều thô đang được đẩy lên khá cao khiến các doanh nghiệp Việt
phải bỏ vốn mua điều dự trữ. Thế nhưng do thiếu vốn, trong khi vay
ngân hàng, các tổ chức tín dụng gặp nhiều khó khăn đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến nguồn nguyên liệu chế biến. Những thách thức này
cần phải được xem trọng và tập trung giải quyết không nhữn từ phía
doanh nghiệp mà càn có sự tham gia giúp đỡ các các ban ngành cơ quan
chức năng.
Thứ tư:
Vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm. Việc hiện nay các doanh nghiệp Việt
Nam thường vi phạm về vệ sinh thực phẩm như lẫn nhiều tạp chất trong sản
phẩm, dùng keo 502 để gắn vỏ điều đã ảnh hưởng đến chữ tín của các doanh
nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó sản phẩm không đồng nhất và rất ít các
doanh các cơ sở, doanh nghiệp có hệ thống tiêu chuẩn chất lượng. Trong khi
Việt Nam có rất nhiều cơ sở nhỏ lẻ, sản xuất chế biến không đồng bộ ảnh
hưởng nhiều đến mặt bằng chung của chất lượng sản phẩm. Làm thế nào để
hệ thống tiêu chuẩn hiện nay cần phải được áp dụng rộng rãi, sự đồng bộ
18
chất lượng trong sản phẩm chính là những thách thức cần phải có sự tham
gia của các cơ quan chức năng hiện nay.
Với vị trí xuất khẩu nhân điều số một sang Mỹ cũng như trên thế giới, Việt Nam
đã đang tiếp tục giữ vững và phát huy nhưng ưu điểm của ngành điều trong thời
gian qua để tiếp tục nâng cao kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên trước những vô
số khó khăn ngành điều Việt Nam thời gian qua gặp phải, theo em không chỉ từ
phía nhà nước mà từ các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những bước đi tích
cực hơn nữa để phát huy lợi thế vốn có của ngành điều hiện nay:
3.2 Từ phía nhà nước, cơ quan chức năng:
Thứ nhất:
Nhà nước cần đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản
phẩm, hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu điều hiện nay Việt
Nam ra thế giới để điều Việt Nam có vị thế, được biết đến nhiều hơn trên
thế giới.
Hỗ trợ hông qua các biện pháp đó là giảm thiểu hoặc gỡ bỏ thuế nhập
khẩu nhiên liệu điều thô hiện nay khi mà 40% điều thô được nhập khẩu tù
Châu Phi. Thực hiện hỗ trợ vốn, tín dụng cho các doanh nghiệp trước thực
trạng khan hiếm nguồn vốn mua nguyên liệu cũng như đầu tư hiện nay.
Cần thúc đẩy, đàm phán để Việt Nam có thể hưởng quy chế Hệ thống
thuế quan phổ cập (GSP) và được Mỹ công nhận là nước có nền kinh tế
thị trường, khi đó xuất khẩu nông sản vào Mỹ mới thuận lợi.
Thứ hai:
Để ngành điều Việt Nam phát triển bền vững và khẳng định được vị thế
của mình trên thị trường thế giới và đạt sản lượng 2 tấn/ha trong năm
2010. Bộ NN&PTNT cần quy hoạch ngay vùng chuyên canh điều, xây
dựng một chuỗi sản xuất bền vững liên kết 6 nhà (từ người nông dân, nhà
khoa học, nhà quản lý tới người thu mua, doanh nghiệp chế biến và xuất
nhập khẩu) nhằm gia tăng giá trị cho hạt điều Việt Nam trên thị trường thế
giới.
Việc đoàn kết nông dân, người quản lý thu mua, doanh nghiệp chế biến và
xuất nhập khẩu hiện nay là việc làm rất quan trọng khi mà cả nước có trên
200 doanh nghiệp, cơ sở điều lớn nhỏ và người dân trồng điều lại không
mặn mà lắm. Người trồng điều cần được sự quan tâm của ngành nông
nghiệp trong việc phổ biến kỹ thuật canh tác để thâm canh, tăng năng
suất. Giải quyết mối quan hệ này sẽ tạo cơ sở phát triển bền vững cho
ngành điều Việt Nam cũng như giảm thiểu giá thành sản xuất đảm bảo lợi
ích phù hợp giữa các bên thúc đẩy ngành phát triển.
Thứ ba:
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Hiệp hội điều Việt Nam
(Vinacas) không những tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra chất
lượng điều của nông dân, thương lái và các doanh nghiệp sản xuất chế
biến điều, an toàn lao động, vệ sinh môi trường…mà còn cần hướng dẫn
cho các cơ sở chế biến điều trên cả nước mà còn thực hiện thực hiện
những tiêu chí về an toàn vệ sinh thực phẩm, để có thể nhận cấp giấy
19
chứng nhận quốc gia về an toàn vệ sinh thực phẩm cho những cơ sở này.
Việc làm này sẽ đảm bảo chất lượng sản phẩm nhân điều cho các doanh
nghiệp Việt Nam xuất khẩu điều vào Mỹ trong thời gian tới, trong đó, có
tiêu chí về an toàn vệ sinh thực phẩm. Đây cũng là yêu cầu của phía Mỹ
trong thời gian tới. Đảm bảo chất lượng khi họ thực hiện kiểm tra các sản
phẩm điều của Việt Nam.
3.3 Từ phía doanh nghiệp
Thứ nhất:
Các doanh nghiệp Việt Nam không những phải phát triển thương hiệu mà
còn cần từng bước đầu tư đổi mới, nâng cao chất lượng chế biến giữ chữ tín
trong kinh doanh để nâng cao thị phần điều trên thị trường Mỹ- một thị
trường tiêu thụ lớn trên thế giới.Đây là việc làm cơ bản cần tiến hành trong
các doanh nghiệp Việt Nam trước thực tế bất cập. Thị trường Mỹ-thị trường
nươc phát triển- đòi hỏi rất cao trong chất lượng sản phẩm với hệ thống
giám sat, quản lý chặt chẽ từ phía chính phủ. Việc phát triển thương hiệu,
nâng cao chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ làm tăng vị thế, nâng cao
giá thành sản phẩm cho nhân điều Việt Nam.
Thứ hai:
Các doanh nghiệp chế biến điều cần đầu tư cho người trồng điều nhằm
chủ động nguồn nguyên liệu, gắn kết nhà máy với vùng nguyên liệu.
Việc Việt Nam trở thành quốc gia số một xuất khẩu điều thế nhưng
người nông dân lại không mặn mà với cây điều, rõ bỏ thực hiện trồng
các kinh tế khác là một thực trạng đáng buồn khi mà nguồn cung nguyên
liệu đang khan hiếm như hiện nay. Chỉ có đảm bảo lợi ích cho người
nông dân, gắn nông dân với doanh nghiệp khi đó nguồn cung nguyên
liệu mới được đảm bảo.
Thứ tư:
Cần chuyển hướng tập trung vào thị trường trong nước. Hiện nay 95%
điều là giành cho xuất khẩu còn thị trường trong nước chỉ có 5% trong
khi giá trong nước lại cao hơn gần gấp đôi. Đây là một điểm hạn chế của
ngành điều Việt Nam hiện nay. Khi khủng hoảng kinh tế xuất hiện, nhu
cầu trên thế giới giảm sút điều đó cũng đồng nghĩa với việc doanh thu
của các doanh nghiệp giảm. Tập trung trước hết vào thị trường trong
nước sẽ giúp các doanh nghiệp bớt phụ thuộc vào thị trường bên ngoài,
nâng cao doanh thu và giảm thiểu rủi ro.
20
Kết luận
Điều là một trong sáu mặt hàng nông sản giữ vai trò quan trọng trong xuất
khẩu của Việt Nam. Với việc thu hút số lượng lớn nhân công, tạo việc làm, tăng
thu ngoại tệ, xuất khẩu điều cũng như xuất khẩu các mặt hàng nông sản khác của
Việt Nam mang lại lợi ích lớn đến nền kinh tế quốc dân. Trong xu hướng hội
nhập kinh tế sâu rộng như hiện nay, ngành điều Việt Nam đang đứng trước rất
nhiều cơ hội cũng như thách thức, đỏi hỏi cần phải có những bước đi tích cực để
có thể tiếp tục giữ vững vị trí số một của mình trên thị trường thế giới. Những
khó khăn, thách thức khách quan cũng như trong nội bộ ngành như: vấn đề về
nguồn cung điều thô, chất lượng sản phẩm hay thương hiệu… cần phải được nhà
nước, chính phủ, cơ quan chức năng và các doanh nghiệp tập trung giải quyết,
nếu không chăc chắn thị phần điều của Việt Nam sớm muộn sẽ bị các nước như
Ấn Độ, Brazil rút ngắn.
Hiện nay Mỹ đã và đang là đối tác quan trọng, là thị phần xuất khẩu chủ yếu
của ngành điều Việt Nam nói riêng và các ngành hàng nông sản khác nói chung.
Để giữ vững thị phần cũng như đẩy mạnh xuất khẩu nhân điều sang Mỹ cần đòi
hỏi rất cao trong chất lượng sản phẩm với hệ thống giám sát, quản lý chặt chẽ từ
phía chính phủ cùng với phát triển thương hiệu, nâng cao chất lượng vệ sinh an
toàn thực phẩm. Điều này sẽ làm tăng vị thế, nâng cao giá thành sản phẩm cho
nhân điều Việt Nam. Khi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008
qua đi, thị trường Mỹ đang dần ổn định trở lại, chắc chắn trong tương lai xuất
khẩu nhân điều của Việt Nam sang Mỹ nói riêng và thế giới nói chung sẽ tiếp
tục phát huy thế mạnh của mình, giữ vững vị trí số một trên thị trường thế giới.
21
Bảng phụ lục
Bảng phụ lục 1: Tham khảo thị trường xuất khẩu hạt điều trong tháng 9 và 9
tháng năm 2009
Nguồn: Vinacas- hiệp hội điều Việt Nam
Lượng: tấn; Trị giá: 1.000 USD)
Nước
T9/09 9T/09
Lượng
Trị giá
Lượng
Trị giá
Mỹ 4.265 21.293 40.553 188.374
Trung Quốc 3.225 15.718 26.526 115.891
Hà Lan 2.348 11.341 18.167 91.080
Ôxtrâylia 1.250 6.612 8.431 40.685
Anh 696 3.523 5.704 27.753
Canađa 347 1.720 3.635 17.746
Nga 426 2.034 3.031 14.210
Đức 240 1.123 1.969 9.449
Thái Lan 125 681 1.440 6.877
Italia 95 418 1.377 4.449
UAE 44 142 1.159 4.519
Đài Loan 107 594 823 4.466
Tây Ban Nha
70 410 791 4.175
Philippine 95 434 770 2.935
Nhật Bản 63 320 622 2.728
Hồng Kông 75 470 600 3.432
Singapore 78 391 586 2.517
Na Uy 66 348 559 2.939
Pakixtan 69 402 491 2.583
Malaixia 16 95 428 1.846
Hy Lạp 15 99 380 2.108
Ucraina 60 292 366 1.470
Bỉ 16 106 287 1.642
Ba Lan 0 0 222 1.261
Thuỵ Sĩ 0 0 48 218
Ixraen 0 0 31 171
22
Bảng phụ lục 2:
Thị trường xuất khẩu hạt điều của Việt nam 4 tháng đầu năm 2010
ĐVT: USD
Nguồn: Vinacas- hiệp hội điều Việt Nam
Thị trường
Tháng 4
4 tháng
% tăng,
giảm
T4/2010 so
với T3/2010
% tăng,
giảm
4T/2010 so
với 4T/2009
Tổng cộng 79.074.133 238.837.670
+51,18 +23,14
Hoa Kỳ 28.479.256 71.028.871 +90,31 +21,80
Hà Lan 11.650.722 34.754.554 +10,39 +17,65
Trung quốc
8.872.423 33.586.095 +92,76 -26,12
Australia 6.568.717 18.998.667 +88,18 +71,13
Anh 2.979.581 8.615.809 +79,66 +33,50
Canada 2.622.833 9.180.249 +3,51 +208,94
Nga 2.457.502 10.671.741 +32,26 +286,77
Thái Lan 1.993.827 6.328.937 +5,41 +143,25
Đức 1.905.680 5.048.113 +30,76 +31,45
Tiểu v
ương
qu
ốc Ả Rập
thống nhất
664.989 3.006.920 +20,41 +20,80
Italia 579.294 2.115.922 -22,46 +38,42
Tây Ban
Nha
538.562 2.487.937 -21,35 +55,91
Philippines
491.030 1.234.796 +326,58 -1,12
Đài Loan 360.877 1.473.562 +155,92 +24,22
Singapore 278.881 425.031 +280,72 +1,26
Malaysia 266.697 951.048 -24,37 +55,22
Nhật Bản 229.450 1.193.167 -63,66 +60,93
Hồng Kông
214.006 2.105.598 -57,27 +67,49
Nauy 103.250 1.171.922 -68,02 -13,98
Ucraina 101.151 936.412 +7,24 +213,18
Hy Lạp 94.901 410.531 -3,16 -42,25
Pakistan 0 804.532 * -26,32
Thuỵ Sĩ 0 174.860 * +26,48
23
MỤC LỤC
Lời nói đầu 1
I. Một số lý luận về hoạt động xuất khẩu 3
1 Khái niệm về xuất khẩu 3
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu 3
II. Thực trạng xuất khẩu điều vào thị trường Hoa Kỳ 4
2.1 Đặc điểm ngành công nghiệp chế biến điều xuất khẩu ở Việt Nam 4
2.1.1 Về nguồn cung điều xuất khẩu Việt Nam 4
2.1.2 Công nghệ chế biến điều 5
2.1.3 Lợi thế sản xuất và xuất khẩu điều của Việt Nam 5
2.1.4 Các nhà máy chế biến điều ở Việt Nam và tiêu chuẩn áp dụng khi
xuất khẩu 6
2.1.5 Những lợi ích mang lại từ việc xuất khẩu điều với nền kinh tế quốc
dân 6
2.2 Đặc điểm của thị trường Hoa Kỳ 7
2.2.1 Đặc điểm cơ bản của thị trường Mỹ 7
2.2.2 Những khó khăn khi xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ 7
2.3 Xuất khẩu điều sang thị trường Hoa Kỳ 8
2.3.1. Tình hình xuất khẩu điều của Việt Nam hiện nay 8
2.3.2 Thực trạng xuất khẩu điều sang thị trường Hoa Kỳ 9
2.3.2.1 Về vấn đề xuất phát từ nội bộ ngành: 10
2.3.2.2 Vấn đề xuất phát từ khách quan: 13
2.3.3 Đánh giá cá nhân về những khó khăn, hạn chế doanh nghiệp Việt Nam
mắc phải: 14
2.3.3.1 Về vấn đề xuất phát từ nội bộ ngành 14
2.3.3.2 Về vấn đề xuất phát từ khách quan 15
III :Đề xuất thúc đẩy phát triển ngành điều và xuất khẩu sang Mỹ 15
3.1 Triển vọng, thách thức phát triển của ngành điều trong tương lai 15
3.1.1 Triển vọng trong tương lai 15
3.1.2 Thách thức phát triển của ngành 17
3.2 Từ phía nhà nước, cơ quan chức năng: 18
3.3 Từ phía doanh nghiệp 19
Kết luận 20
Bảng phụ lục
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO