Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

nghiên cứu triết học thiền trong kinh văn nguyên thuỷ của phật giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.79 KB, 13 trang )










NGHIÊN CỨU TRIẾT HỌC

ĐỀ TÀI: “THIỀN TRONG KINH VĂN
NGUYÊN THUỶ CỦA PHẬT GIÁO”
THIỀN TRONG KINH VĂN NGUYÊN THUỶ CỦA PHẬT GIÁO
HOÀNG THỊ THƠ (*)
Trong bài viết này, tác giả trình bày nội dung và ý nghĩa của Thiền Phật giáo
trong một số tác phẩm tiêu biểu của Phật giáo. Qua đó, một mặt, tác giả
khẳng định sự hiện diện của Thiền trong kinh điển Phật giáo; mặt khác, tác
giả chỉ ra sự khác biệt giữa Thiền Phật giáo và Thiền trong Yoga của
Bàlamôn giáo. Cuối cùng, tác giả khẳng định giá trị lịch sử cũng như giá trị
hiện đại của Thiền.
Từ góc độ lịch sử tư tưởng, bài viết này cố gắng làm rõ rằng, ngay trong kinh
điển Phật giáo Nguyên thuỷ đã có tư tưởng Thiền, đó chính là tư tưởng và
phương pháp tu tập của Đức Phật trên con đường Người tìm đạo. Thiền là
một sản phẩm độc đáo của tư duy lý luận tổng hợp của triết học - tôn giáo
không tách rời thực tiễn tu tập và đạo đức truyền thống Ấn Độ mà Đức Phật
đã kế thừa một cách có chọn lọc từ truyền thống Bàlamôn giáo. Thiền luôn là
cơ sở lý luận và thực hành tu tập để triển khai tinh thần triết học tôn giáo từ
Phật giáo Nguyên thuỷ cho tới Thiền tông Trung Quốc, đồng thời luôn trong
khuynh hướng hiện đại hóa của Đại thừa Phật giáo.
1. Siddhartha Gautama và nguồn gốc của Thiền Phật giáo Nguyên thuỷ


Kinh Phật, cả Đại thừa và Tiểu thừa, đều ghi nhận rằng, Đức Phật Thích Ca
(khoảng 477 - 397 TCN.)(1), tên là Siddhartha Gautama, pháp danh là
Buddha) lúc khởi đầu sự nghiệp tu tập đã theo học Yoga của hai đạo sĩ
Bàlamôn là Kalama và Udraka Ramaputra(2). Nhiều sử liệu cũng cho biết
rằng, đương thời, Đức Phật thực hành Yoga để tìm kiếm khả năng điều thân
và điều tâm bằng luyện khí, đó là một kỹ năng tu luyện phổ biến của hầu hết
các tôn giáo Ấn Độ. Bản thân Đức Phật cũng thực hiện phép tu Yoga một
cách nghiêm ngặt trong quá trình giác ngộ. Cuộc đời tìm đạo, đắc đạo và
truyền đạo của Đức Phật luôn gắn liền với hình ảnh và tinh thần tu luyện điển
hình của Phật giáo là “Thiền”. Thực ra “Thiền” (Dhyana) là một khái niệm,
một phép tu quan trọng trong các phép tu luyện của Yoga và nó đã được Đức
Phật chọn làm phương pháp đặc trưng tu dưỡng thân - tâm của riêng Phật giáo.
Sự lựa chọn “Thiền” của Đức Phật phản ánh sự kế thừa có lựa chọn truyền
thống tu dưỡng tâm linh của Ấn Độ cổ theo khuynh hướng coi trọng trí tuệ,
đặc biệt là trí tuệ hướng nội. Bởi vì, Thiền của Phật giáo chú trọng mục đích
giác ngộ (ngộ) và không hoàn toàn giống Yoga lấy rèn luyện công năng siêu
phàm làm trọng. Do vậy, Thiền (Dhyana) của Phật giáo có một nội hàm riêng
trong hệ lý luận nhận thức và giải thoát của Phật giáo Nguyên thuỷ. Từ đây,
Thiền không còn hoàn toàn giống với Yoga truyền thống của Bàlamôn giáo.
Trong các kinh văn cổ về cuộc đời Đức Phật, nhiều đoạn tả tỉ mỉ việc thực
hành thiền - định của Người. Chẳng hạn, lúc Phật còn là Thái tử nhỏ đã biết
“khoanh tréo hai chân theo lối kết già, trầm ngâm lặng lẽ, chăm chú vào hơi
thở, niệm sổ tức quán, định tâm và đắc quả sơ thiền (tầng thiền Jhana thứ
nhất, là một trạng thái tâm phát triển khá cao nhờ an trụ)”. Hay khi đi tìm đạo,
“… Ngài nhập Nhị Thiền rồi Tam Thiền và Tứ Thiền”(3). Kinh Trung A Hàm
(Majjhima Nikaya) quyển I, trang 242 cũng ghi lại công phu luyện hơi thở
của Phật khi giác ngộ: “… hãy tham thiền về sự nín thở! Rồi tôi kiểm soát
chặt chẽ hơi thở vô và hơi thở ra, từ miệng và mũi… Rồi tôi kiểm soát hơi thở
vô, thở ra bằng miệng, mũi và tai. Lúc ngưng thở… Rồi tôi ngưng thở bằng
miệng mũi và tai…, tôi vẫn kiên trì tinh tấn ”. Thiền - định của bản thân Đức

Phật cũng được tả chi tiết trong kinh văn về quá trình 49 ngày (bảy tuần)
thiền - định dưới gốc Bồ đề để suy niệm về lẽ Giải thoát(4). Trong đó, đặc
trưng độc đáo của Thiền là cách tiếp cận hướng nội, quay trở vào bên trong
để đạt tới giác ngộ: “Ngài phải tự mình suy niệm và quay trở vào bên trong để
tìm Chơn lý. Và Ngài đã tìm ra Chơn lý bên trong Ngài”(5).
Về căn bản, Đức Phật đã tiếp thu một cách sáng tạo cách tu luyện nội tâm của
Yoga. Người đánh giá cao Yoga và chỉ ra rằng, “Yoga là kiềm chế dòng ý
thức (Vrtti) của tâm (Citta)”(6). Khác với Yoga truyền thống, cái mới của
Phật giáo là lập trường triết học - tôn giáo giải thoát hướng nội – giải thần
quyền(7) – bình đẳng. Sự sáng tạo này được thể hiện trong lối tu luyện Tứ
niệm xứ(8)

- lối tu luyện để đạt tới giải thoát bình đẳng tự tại, chứ không phải
để đạt được công năng dị biệt hay để hòa nhập Tiểu ngã (Atman) với Đại ngã
(Brahman) theo tinh thần giải thoát của thần quyền như các tôn giáo khác ở
Ấn Độ cổ. Tứ niệm xứ chính là kinh văn Nguyên thuỷ về Thiền định của Phật
giáo.
Phật giáo Nguyên thuỷ chưa bàn nhiều về Thiền như một đối tượng độc lập,
nhưng Thiền luôn gắn liền với con đường thực hành giải thoát và là một
phương pháp hành đạo căn bản của Phật giáo. Do vậy, ngay từ thời đó, Thiền
đã có một vị trí nhất định trong hệ thống và cấu trúc giáo lý, cũng như trong
tu tập của Phật giáo. Kimura Taiken, nhà Phật học Nhật Bản, đã nhận xét vai
trò của Thiền trong lịch sử Phật giáo như sau: “ không một giáo lý nào
trong Phật giáo được thành lập ngoài Thiền. Vì xây dựng trên cái gọi là tự
lực chủ nghĩa, nên nếu rời xa Thiền thì tất cả chỉ còn là một loại lý luận
suông nếu rời xa Thiền thì không có Tuệ là lẽ tất nhiên, nhưng đồng thời
cũng không có Giới nữa”. Thậm chí, ông còn nhấn mạnh rằng, “ sự phát đạt
của giáo lý Phật giáo chẳng qua cũng chỉ là sự phát đạt và biến thiên của
Thiền quán”(9). Có thể đây là một trong những lý do khiến Đức Phật chọn
Thiền làm phương pháp tu luyện của riêng Phật giáo ở Ấn Độ.

2. Tứ niệm xứ - Kinh văn Nguyên thuỷ về Thiền của Phật giáo
Tư tưởng về Thiền trong kinh điển gốc thể hiện cụ thể nhất ở phần Chính
niệm và được triển khai thành Đại niệm xứ (còn gọi là Tứ niệm xứ), tức là lý
thuyết về kỹ thuật Thiền. Trong các kinh điển khác của Phật giáo, tư tưởng về
Thiền còn được diễn đạt theo nhiều cách khác, như Kinh Tứ niệm xứ
(Satipatthanas-suttam), Thân hành niệm (Kayagatasatis-suttam), Kinh Song
tầm (Dvedhavitakka-suttam), Thiền minh sát (Vipassana)
Tứ niệm xứ (Sattipatthana sutra) là kinh văn Nguyên thuỷ về Thiền được dịch
sang Hán văn và chuyển sang âm Việt thành An Ban Thủ Ý. Nội dung của Tứ
niệm xứ là bốn bài tập quán tưởng, hướng dẫn theo dõi hơi thở ra - vào liên
tục để tập trung ý nghĩ vào từng đối tượng cụ thể: 1) Thân niệm xứ - tập trung
toàn bộ dòng tâm thức và hơi thở vào quán thân xác của chính mình; 2) Thọ
niệm xứ - quán dòng cảm xúc của chính mình; 3) Tâm niệm xứ - quán dòng
tâm thức đang chảy trong chính mình; 4) Pháp niệm xứ - buông bỏ hết và
dừng cả dòng ý thức. Tất cả các bước của Tứ niệm xứ đều nhằm mục đích
“chế ngự tham ưu ở đời” để đạt tới mục đích giải thoát(10).
Đức Phật rất coi trọng Tứ niệm xứ và coi “đây là con đường duy nhất…, để làm
thanh tịnh chúng sinh, để vượt qua mọi buồn phiền, than khóc, để xoá đi mọi
đau đớn và hoảng sợ, để đi đúng lối, để chứng được Niết Bàn, mà ta gọi là Tứ
niệm xứ”(11).
Khi truyền bá vào Trung Quốc, một phần của Tứ niệm xứ được An Thế Cao
dịch âm thành An Ban Thủ Ý(12)

(Anapanasati) còn gọi là Nhập tức xuất tức
niệm. An Ban Thủ Ý đặc biệt nhấn mạnh việc dùng hơi thở ra hít vào để làm
ngừng ý nghĩ, làm tiêu ý niệm mà nhập vào thiền - định. Nội dung An Ban
Thủ Ý gồm: 4 hành (đếm hơi thở ra hít vào; thuận theo hơi thở; tâm niệm
chuyên nhất vào một niệm (chỉ); quán tưởng hướng vào trong (quán)), trừ 2
ác, 16 thắng. Đây là bộ kinh về Thiền được coi là lưu hành sớm nhất ở Trung
Quốc. Tên kinh đã được chuyển rất nghĩa sát và cụ thể “An” là hơi hít vào,

“Ban” là hơi thở ra; “Niệm hơi thở chẳng lìa gọi là An Ban thủ Ý”(13). Đại
sư Trí Khải (358-597), ông tổ của Thiên Thai tông Trung Hoa, khi nghiên cứu
kinh này đã thừa nhận luyện thở là một trong những lối nhập định hay nhất.
Trong Lục Diệu Pháp Môn, đại sư đã nhắc lại: “Có hai cách thiền thông
thường nhất là: 1 - đếm hơi thở và 2 - đình chỉ hoặc giữ hơi thở lại”(14).
Đến giai đoạn Bồ Đề Đạt Ma, trong số bốn pháp môn Thiền ở Trung Quốc
lúc đó, An Ban Thủ Ý được đánh giá cao và được xếp làm pháp môn Thiền cơ
sở cho những người mới nhập môn(15). Khi Thiền Đại thừa đạt tới đỉnh cao
với nhiều phái thiền như Tào Động, Lâm Tế, Dương Kỳ, Vô Ngôn,… với các
pháp môn Thiền như công án, niệm chú, đánh, hét,… thì pháp môn An Ban
Thủ Ý vẫn giữ vị trí “là bước thiền đầu tiên trong tiến trình ổn định các cơ
năng của thân, làm lắng dịu các tư tưởng biên biệt và tăng cường sức tập
trung , theo rõi hơi thở ra vô bằng con mắt tâm Như thế, thở trở thành một
vận chuyển kinh nghiệm tâm linh, cái trung gian giữa thân và tâm”(16). Kỹ
thuật này còn được các đạo gia gọi là phép Sổ tức quán.
Nội dung của Tứ niệm xứ với công phu An Ban Thủ Ý (kỹ thuật thở để an
tâm) luôn gắn liền với yêu cầu tự nhận thức về sự chuyển biến dòng ý thức
của chính thiền giả với mục đích cuối cùng của luyện thở là kiểm soát dòng ý
thức tự phát, chứ không thiên về luyện các công năng dị biệt hay để hoà nhập
với Đại Thiên (Brahman) như Yoga của Bàlamôn giáo.
Tóm lại, Tứ niệm xứ và An Ban Thủ Ý là những kinh văn Nguyên thuỷ có nội dung
về Thiền rất rõ ràng. Trong suốt lịch sử phát triển của Phật giáo, cho tới nay, kinh
điển Nguyên thuỷ về Thiền vẫn luôn được coi là những bài đầu tiên và cơ bản của
mọi thiền gia và thiền phái, kể cả Tiểu thừa (Theravada) và Đại thừa (Mahayana)
Phật giáo.
3. Thiền trong Tam Tạng kinh (Tripitaka) Nguyên thuỷ
Hệ thống kinh điển của Phật giáo, còn gọi là Tam Tạng kinh (Tripitaka), gồm
Kinh tạng (Sutra-Pitaka), Luật tạng (Vinaya-Pitaka) và Luận tạng
(Abhidharma-Pitaka). Mỗi tạng (Pitaka) phản ánh một phương diện, một
trình độ phát triển của Phật giáo và có niên đại riêng. Kinh tạng chứa nội

dung giáo lý do chính Đức Phật truyền giảng. Luật tạng bao gồm các giới luật
của giáo đoàn. Luận tạng là phần có nội dung chuyên về luận giải các tư
tưởng trong hai tạng trên. Do vậy, Kinh tạng và Luật tạng(17) có tính nguyên
thuỷ hơn so với Luận tạng cả về niên đại lẫn khuynh hướng triển khai hay
bảo tồn tư tưởng gốc. Do vậy, tư tưởng Thiền triển khai trong các tạng đó vừa
có tính nhất quán, vừa có mức độ và mục đích khác nhau.
- Kinh tạng (Sutra-Pitaka) ghi nhận những tổng kết kinh nghiệm tu đạo, chủ
yếu là thực hành thiền - định của Đức Phật thành Tứ diệu đế (Ariyasatyani),
gồm có Khổ đế (Dukkha), Tập đế (Samudaya), Diệt đế (Nirodha) và Đạo đế
(Magga). Trong đó, Thập nhị nhân duyên (Dvadasanga-Pratiyasamutpada)
và Bát chính đạo (Astangika-Marga) là luận thuyết cốt lõi của giáo lý Phật
giáo. Tinh thần Thiền của Đức Phật cũng được khẳng định rõ ràng trong cấu
trúc đó.
Khổ đế khẳng định rằng, nếu quán danh sắc và quay ngược trở vào nội tâm
để soi xét thì sẽ hiểu rõ được thế nào là khổ. Thực chất cái khổ (có tính phổ
quát) của con người chính là tính quy định của tồn tại người. Đó là do bản
chất vô thường của pháp hữu vi (trong đó có con người) quy định: “Sanh là
khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi là khổ, ưu não là khổ, oán gặp
nhau là khổ, ái biệt ly là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại, năm thụ uẩn là
khổ”. Tinh thần hướng nội, nội quán của Thiền đã được xác định ngay từ đây.
Tập đế nhất quán tinh thần hướng nội, tiếp tục tìm kiếm và khẳng định rằng,
nguyên nhân sâu xa của khổ là sự ngu dốt (vô minh). Vì vô minh nên con
người bị dục, ái (Tanha) dẫn dắt. Cho nên, con người không thoát được (về
mặt nhận thức) tính quy định của tồn tại tương đối (vô thường) của đời người
để nhận thức bản tính “vô ngã” đích thực và do đó, cứ trôi lăn trong vòng khổ
lụy.
Tiếp đó, Diệt đế chủ trương rằng, để xoá tận gốc nguyên nhân của khổ phải
bắt đầu từ bên trong, từ diệt vô minh trong tâm thức về bản ngã(18). Thực
chất, nội dung của Diệt đế là thuyết Duyên sinh vô ngã, là sự nhất quán của
vũ trụ luận Duyên khởi về bản chất vô thường của tồn tại người. Phật giáo cho

rằng, con người có thể nhận thức được, thậm chí “liễu tri” (tuệ) được luật vô
thường và luật vô ngã của các pháp hữu vi (bao gồm danh sắc của chúng
sinh) để tự diệt được vô minh, tự đạt tới giải thoát. Trên con đường đó, mọi
người đều bình đẳng như nhau về khả năng và cơ hội.
Đạo đế là con đường tu đạo được chính Đức Phật thể nghiệm và khái quát
thành Bát chính đạo, gồm chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp,
chính mệnh, chính tinh tấn, chính niệm và chính định. Từ góc độ nghiên cứu
tư tưởng Thiền, có thể thấy, chính kiến, chính tư duy, chính niệm và chính
định cũng đồng thời là hai bước đầu chuẩn bị và hai bước cuối hoàn thiện
trong quy trình tu tập thiền - định. Chính kiến và Chính tư duy (tuệ) về thực
chất là bước xác định lập trường giải thoát khỏi vô minh. Chính niệm là bước
tiếp theo, lấy bản thân ý thức và dòng suy tư của chính mình làm đối tượng
quan sát để cuối cùng đạt tới làm chủ một cách đúng đắn dòng ý thức. Chính
định (Samyag Samadhi) là làm chủ sự tĩnh lặng ý thức (vô thức, vô niệm) một
cách đúng đắn. Đây là bước tu thứ tám và là bước quan trọng nhất trong Bát
chính đạo. Định cũng là mắt khâu quyết định trong mô hình Tam học (Giới -
Định - Tuệ). Không có Định thì cũng không giữ được Giới và không đạt được
Tuệ.
Đức Phật đã tiếp thu trực tiếp kỹ thuật thiền “hướng nội” của Yoga, song triển
khai theo tinh thần trung đạo để làm phép tu căn bản của Phật giáo. Đây là
một trong những định hướng mà sau này Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung
Quốc đã tiếp tục phát triển thêm tinh thần “vô chấp”, “vô trụ” thành Phật giáo
Đại thừa nói chung và Thiền tông Trung Quốc nói riêng.
Luật tạng (Vinaya pitaka) là các giới luật để đảm bảo sự tồn tại và phát triển
vững mạnh của tăng đoàn Phật giáo. Luật tạng quy định rõ 227 giới cho nam
tu sĩ (tăng, Bhikkhu) và 348 giới cho nữ tu sĩ (ni, Bhikkhuni); “thập giới” và
“ngũ giới” cho tín đồ tại gia (cư sĩ). Có thể chia nội dung Giới theo nhiều
cách, song từ góc độ Thiền, giới luật được chia thành ba loại: Biệt giải thoát
giới, tức là những giới luật chung về lối sống đạo đức của tín đồ và tu sĩ trên
con đường giải thoát; Định cộng giới, tức là lấy Thiền - Định làm giới để đạt

được tâm thanh tịnh; Đạo cộng giới, tức là lấy Tuệ làm giới để đạt được giải
thoát. Về sau, Kinh Bát Nhã, với lập trường triết lý tính Không, đã khái quát
tâm thức của người tu đạo thành Giới Ba La Mật, với ý nghĩa đó là sự siêu
việt vượt mọi quy định về giới khi đã đạt được Tuệ giải thoát bằng thiền -
định. Luật tạng đã kết hợp các mặt đạo đức - thực hành - giải thoát của Phật
giáo với nhau thành cấu trúc biện chứng Tam học (Sikssa) của giáo lý gồm ba
phần: Giới - Định - Tuệ.
Như vậy, rõ ràng, trong Kinh và Luật - phần tối cổ của kinh văn Phật giáo
Nguyên thuỷ, Thiền đã có một vị trí quan trọng.
Luận tạng (Abhidharma-Pitaka) là tập hợp những luận giải tư tưởng kinh
điển, Những luận giải này chỉ hình thành khi bắt đầu có sự tranh luận về các
khái niệm có tính triết học - tôn giáo thâm sâu của giáo lý. Trong thực tế, tinh
thần của những luận giải đó ngày càng hiện đại hơn. Do vậy, Luận tạng còn
có thể được coi là thần học hay tôn giáo học của Phật giáo. Những luận giải
đó chính là những tiền đề tư tưởng đầu tiên cho sự hình thành của Đại thừa
Phật giáo. Đây cũng chính là tiền đề lý luận đầy đủ cho Phật học và Thiền
học về sau. Hội nghị kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ ba(19) được coi là
mốc lịch sử của sự ra đời Luận tạng với sự xuất hiện của các luận giải khác
nhau về nội dung tư tưởng của kinh điển gốc. Chúng được gọi là các
Abhidharma, dịch âm là A Tỳ Đạt Ma. Đó chính là hình thức nguyên thuỷ của
Luận tạng. Trong Luận tạng, Thiền bắt đầu thể hiện rõ dần vai trò và vị thế
độc lập và nổi trội, nhất là trong các vấn đề về phương pháp nhận thức và lý
luận nhận thức. Do vậy, ngay từ đầu, tuy chưa được khẳng định như một hệ
vấn đề độc lập, nhưng Thiền tham dự hầu hết các vấn đề căn bản có tính
quyết định xu hướng phát triển của các thời kỳ lịch sử Phật giáo.
Kết cấu tổng thể Tam học của giáo lý Phật giáo gồm ba bộ phận thống nhất
chỉnh thể không tách rời là Giới - Định - Tuệ. Trong đó, Thiền chính là nội
dung của Định hay nói chính xác hơn, Thiền chính là một bộ phận cấu thành
quan trọng của Tam học. Bởi vì, “không trì giới thì tâm không tịnh do đó
không định được tâm, mà không định được tâm thì không đạt được Tuệ”.

Song đáng chú ý là, kết cấu bộ ba này được nhất quán ở mọi cấp độ lý thuyết
và thực hành. Chẳng hạn, nội dung của Thiền Phật giáo cũng tuân thủ nguyên
tắc kết hợp ba phương pháp tu tập tổng hợp “Tam đạo” (Marga). Cụ thể, đó
là Kiến đạo, Tu đạo và Vô học đạo. Người tu thiền nếu không hiểu “đạo” -
con đường độc đáo của Thiền - là con đường “nội quán trực giác” thì không
thể tu thiền, không thể vừa tư biện, vừa trực quán. Trên con đường rèn luyện
để đạt tới Tuệ, thiền giả phải vượt qua được những cái bẫy của lôgíc thông
thường, đó là Vô học đạo. Thiền giả phải tu luyện sao cho đồng thời đạt được
cả sự yên tĩnh lẫn vận động tích cực. Đó là sự yên tĩnh gần như tuyệt đối của
tâm (chỉ), nhưng không phải là sự trống rỗng, mà trong sự yên tĩnh tuyệt đối
đó, tâm thức tập trung cao độ hướng đến Tuệ (quán).
Như vậy, trong kinh văn Nguyên thuỷ, ngay trong mỗi tạng của Tam Tạng
kinh, Thiền đều có một vị trí không thể thiếu. Ý nghĩa của Thiền luôn được
bảo tồn cùng quá trình phát triển của Phật giáo nói chung, cũng như sự phân
chia thành các tông phái ngày càng đa dạng của Phật giáo nói riêng.
4. Ý nghĩa của Thiền Phật giáo Nguyên thuỷ
Từ góc độ giá trị phương pháp tu luyện nội tâm, Thiền là một trong những giá
trị truyền thống hướng nội của phương Đông nói chung và của Ấn Độ nói
riêng. Từ xa xưa, Thiền đã được Phật giáo Nguyên thuỷ góp phần bảo tồn và
phát triển cho tới tận ngày nay. Tư tưởng Thiền Phật giáo luôn được đánh giá
như một cơ sở nội tại tiềm năng cho những phát triển lý luận cũng như thực
hành tôn giáo theo hướng triển khai các tư tưởng Đại thừa nói chung và Thiền
tông nói riêng. Từ tính Thiền đến Thiền tông là một quá trình phát triển, hoàn
thiện trong mối liên hệ có tính lịch sử giống như cấu trúc lý luận và thực hành
tôn giáo được triển khai trong lòng Phật giáo liên tục từ Nguyên thuỷ cho tới
đỉnh cao là Phật giáo Thiền tông Đại thừa Trung Quốc.
Từ góc độ nhận thức luận và giải thoát luận, Thiền luôn là nhân lõi về lý luận
và thực hành tôn giáo để làm mới các vấn đề của giáo lý Phật giáo theo
hướng hiện đại hóa, thế tục hóa,… mỗi khi Phật giáo triển khai các phong
trào chấn hưng hay phục hưng Phật giáo. Thiền học - một hệ thống lý luận về

Thiền của Phật giáo - là sản phẩm của quá trình phát triển tính Thiền thành hệ
thống lý luận và tu tập của Phật giáo trong một lịch sử bề thế với sự giao lưu,
tiếp biến của không chỉ những nền văn hóa, văn minh hay tôn giáo ở phương
Đông, mà còn lan sang cả phương Tây.
Trong tương lai, giá trị nhân bản hướng nội của phương Đông sẽ được Thiền
Phật giáo tiếp tục góp phần bảo tồn và phát triển. Giá trị này là một trong
những nguồn nội năng để Thiền Phật giáo ngày càng được phổ cập hóa, đa
dạng hóa và hiện đại hóa trong thời đại mới./.

(*) Tiến sĩ, Trưởng phòng Triết học phương Đông, Viện Triết học, Viện Khoa
học xã hội Việt Nam.
(1) Có nhiều quan điểm khác nhau về niên đại của Đức Phật, 477 - 397 là kết
luận nghiên cứu của Giáo sư K.T.S. Sarao, Trưởng khoa Phật học, Đại học
Delhi trong K.T.S.Sarao. The Origin and Nature of Ancient Indian Buddhism,
Easten Book Linkers, Indological Publishers & Booksellers, Delhi, India,
1998.
(2) Tarthang Tulku. Hành Thiền là phương thức khai tâm. Tạp chí Giác Ngộ,
số 12, tr. 19.
(3) Krisnam Murti. Thiền đạo yếu pháp (người dịch: Viên Thông). Sách ấn
tống của GHP, Sài Gòn, 1974, tr. 26-27,49.
(4) Krisnam Murti. Sđd., tr. 42 - 44, 66 - 74.
(5) Krisnam Murti. Sđd., tr. 57.
(6) Historical Dictionary of Buddhism. Edited by Charles S.Prebish, Sri
Atguru Publications, Delhi, India, 1995, p.3.
(7) Có nghĩa là giải thiêng Bàlamôn giáo, giải cấu trúc uy quyền thần thánh
của Bàlamôn giáo.
(8) Kinh văn Nguyên thủy về Thiền của Phật giáo là Tứ niệm xứ, còn gọi là
Đại niệm xứ với công phu thiền - quán hay còn gọi là Thiền minh sát
(Viapassana).
(9) Kimura Taiken. Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận, t.1 (người dịch: Thích

Quảng Độ). Tu thư Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1969, tr. 492 - 493, 498.
(10) Trí Giả Thiên Thai. Tu tập chỉ quán toạ thiền pháp yếu. Nxb Thiền học,
Sài Gòn, 1980. tr. 366.
(11) Bhagavad-gita as It Is. Translated by Bhaktivedanta Swami Prabhupada,
The Bhaktivedanta Book Trust. New York, Los Angeles – London –
Bombay. Send print, 1986. tr. 201 - 202; Henrich Dumoulin. Zen Buddhism:
A History, Vol. 1: India and China, Macmillan Publisher, New York and
London, 1988, tr. 177 - 178.
(12) Hoặc dịch âm hơi khác đi là An Ban Thủ Ý.
(13) Ngô Di. Thiền và Lão Trang (người dịch: Đồ Nam). Nhà in Hạnh Phúc,
Sài Gòn, 1973, tr. 39.
(14) Chang Chen Chi. Thiền đạo tu tập (người dịch: Như Hạnh). Nxb Kinh
Thi, Sài Gòn, 1972, tr. 321-325.
(15) Ngô Di. Thiền và Lão Trang. Sđd., tr. 59.
(16) Philip Kaplaeo. Ba trụ thiền (người dịch: Đỗ Đình Đồng). Giáo hội Phật
giáo Huế, 1981, tr. 25-26.
(17) Kinh tạng và Luật tạng là kết quả của Hội nghị kết tập kinh điển lần thứ
nhất (100 ngày sau Phật diệt, khoảng 398 TCN.) và kết tập lần thứ hai
(khoảng 274 TCN.). Nội dung chính của hai tạng này là các vấn đề giáo lý và
giới luật để kiện toàn tăng đoàn Nguyên thuỷ.
(18) Thích Chơn Thiện. Phật học khái luận. Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1999, tr.
69 - 83.
(19) Khoảng năm 283 TCN., tức là 100 năm sau khi Phật nhập diệt.


×