Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Skkn tạo tâm thế mỗi ngày đến trường là một ngày vui cho học sinh lớp 11a5 trường thpt lam kinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.52 KB, 19 trang )

TẠO TÂM THẾ MỖI NGÀY ĐẾN TRƯỜNG LÀ MỘT NGÀY VUI CHO
HỌC SINH LỚP 11A5 – TRƯỜNG THPT LAM KINH
1. MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài:
Trường học là nơi đào tạo thế hệ trẻ cả về Văn - Đức - Thể - Mỹ, tức là
dạy kiến thức lẫn học làm người và kỹ năng sống. Đồng thời, trường học đối với
học sinh cũng là một môi trường giao tiếp, giữa học sinh với nhau, giữa học sinh
với giáo viên, giữa học sinh với các nhân viên trong trường, thậm chí có cả mối
quan hệ giữa học sinh với các phụ huynh của bạn mình. Trường học cịn là mơi
trường để rèn luyện, thử thách nhiều mặt của học sinh, như thực hiện kỹ năng
tiếp thu kiến thức, thể thao, kỹ năng hùng biện, kỹ năng làm thủ lĩnh (lãnh đạo)
… Như vậy, ở trường, học sinh không chỉ được học mà còn được rèn luyện,
được trải nghiệm, được vui chơi.
Nhiều trường học ở nước ta còn đề khẩu hiệu “Mỗi ngày đến trường là
một ngày vui”, có ý nhắc nhở các giáo viên phải tạo những điều kiện thuận lợi
nhất để học sinh được vui vẻ, hạnh phúc, thay vì phải lo lắng bao nhiêu thứ, từ
việc phải trả bài, làm bài kiểm tra, thực hiện các yêu cầu của giáo viên…! Thế
nhưng trên thực tế, bao nhiêu học sinh không cảm thấy vui vẻ khi đến trường,
mà trái lại phải chịu nhiều áp lực, lo lắng? Liệu có bao nhiêu giáo viên tự ý thức
về việc tạo niềm vui cho học sinh của mình, tự điều chỉnh biện pháp quản lý để
HS cảm thấy phấn khởi, hạnh phúc lúc bước vào trường hay chỉ chú tâm đáp
ứng yêu cầu chương trình, các hoạt động thanh tra, dự giờ của cấp trên? Các câu
hỏi đó là điều băn khoăn của những người có tâm huyết với nghề dạy học.
Điều 35 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi rõ: “Giáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước phát triển giáo dục nhằm nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài...” Đại hội đại biểu toàn quốc của
Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX cũng khẳng định “Phát triển giáo dục đào
tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát triển nguồn lực con người, yếu tố cơ bản
để phát triển xã hội, tăng cường kinh tế nhanh và bền vững...”[1] Xác định
được nhiệm vụ quan trọng đó nên những năm qua Bộ giáo dục đã khơng ngừng


đưa ra nhiều giải pháp mang tính cải tiến để thúc đẩy phát triển giáo dục. Cùng
với các cuộc vận động như “Dạy tốt, học tốt”; “Nói khơng với tiêu cực trong thi
cử và bệnh thành tích trong giáo dục”; “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo
đức, tự học và sáng tạo” … Ngày 22/ 07/2008 Bộ Giáo dục và đào tạo ra chỉ thị
40/2008/CT – BGDĐT phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực” trong các nhà trường nhằm thu hút, tạo hứng thú cho
học sinh đến trường để các em có tâm thế học tập tốt nhất.
Qua nhiều năm là công tác giáo dục, gần gũi với học sinh, tôi nhận thấy
rằng: Nhiều em học sinh khi đến trường có tâm lý uể oải, miễn cưỡng, thụ động.

skkn


Trong học tập và các hoạt động khác của tập thể, các em khơng có niềm say mê,
nhiệt tình. Học hành, thi cử chiếu lệ để rồi bỏ học giữ chừng.. Khi học sinh có
hứng thú tới trường, các em sẽ có tâm thế học tập tốt hơn, say mê, nhiệt tình tìm
hiểu, tiếp thu bài và kết quả học tập sẽ cao hơn. Sự ham thích đến trường của
học sinh, một phần là do sự động viên khéo léo từ cha mẹ, sự nhiệt tình của thầy
cơ và mơi trường học tập thân thiện.
Qua những lý do trên, tôi nhận thấy rằng, việc tạo hứng thú cho học sinh
đến trường là rất cần thiết. Với mong muốn góp một phần nhỏ bé, giúp học sinh
có niềm say mê học tập, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục và đào tạo, tôi
quyết định chọn đề tài: “Tạo tâm thế mỗi ngày đến trường là một ngày vui cho
học sinh lớp 11A5 – Trường THPT Lam Kinh”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Thông qua khảo sát các giờ học tập, sinh hoạt tập thể của học sinh, thấy
được thực trạng tâm lý của các em. Tôi nghiên cứu đề tài này với mong muốn
góp phần vào việc giúp giáo viên tạo niềm hứng khởi, say mệ cho các em mỗi
ngày đến trường. Giúp học sinh có niềm vui, có động lực gắn kết với mái trường
để có tâm thế học tập và rèn luyện tốt nhất.

- Giúp học sinh yêu quý, tự hào về ngơi trường của mình, u q, tự hào về
thầy cơ của mình, từ đó có chí hướng, động lực vươn lên, tiếp nối truyền
thống của các thế hệ đi trước. lan tỏa những điều tốt đẹp đến cộng đồng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh lớp 11A5, Trường THPT Lam Kinh. Năm học 2018 – 2019.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các tài liệu của Bộ Giáo dục, các tài liệu về
giáo dục học và lý luận dạy học có liên quan đến đề tài.
- Quan sát, dự giờ: Quan sát biểu hiện của học sinh về hứng thú học tập trong
các giờ học; Quan sát những biểu hiện của giáo viên về hứng thú đối với hoạt
động dạy trong giờ.
- Sử dụng phiếu điều tra về thực trạng hứng thú học tập của học sinh trong các
giờ học, các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
- Phương pháp trò chuyện: Phương pháp này được sử dụng trong các trường
hợp sau:
+ Đối với học sinh: Thời gian sinh hoạt 10 phút đầu giờ, giờ ra chơi, những hoạt
động ngoài giờ lên lớp…
+ Đối với giáo viên: Họp tổ chuyên môn, gặp gỡ riêng…
Phương pháp này giúp tơi phần nào tìm hiểu được tình hình học tập, mức độ tập
trung, hứng thú của học sinh khi đến trường.
- Tính tốn, thống kê, thử nghiệm sư phạm để xử lý số liệu thu thập được, từ
đó có cơ sở phân tích, so sánh, đánh giá rút ra nguyên nhân và kết luận cho
những nội dung cần tìm hiểu, từ đó có thể kiểm chứng tính khả thi và hiệu
quả của đề tài.

skkn


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận:

2.1.1. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh trung học: [2]
Lứa tuổi học sinh trung học là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết
thúc khi bước vào tuổi người lớn. Là thời kì đầu đạt được sự tăng trưởng về mặt
thể lực, lúc các em bắt đầu phát triển sự tự ý thức; Đây cũng là lúc ở các em có
sự hình thành thế giới quan và có xu hướng nghề nghiệp, tuy chưa thật rõ ràng.
Trong hoạt động giao tiếp, các em khao khát muốn có những quan hệ bình đẳng
và có nhu cầu sống cuộc sống tự lập. Tính tự lập của các em thể hiện ở ba mặt:
tự lập về hành vi, tự lập về tình cảm và tự lập về đạo đức, giá trị. Ở tuổi này
cũng đã xuất hiện mơt loại tình cảm đặc biệt – tình yêu nam nữ. Tình yêu của
lứa tuổi này cịn được gọi là “tình u bạn bè”, bởi vì cá em thường che giấu
tình cảm của mình trong tình bạn nên đơi khi cũng khơng phân biệt được đó là
tình bạn hay tình u. Do vậy mà các em không nên đặt vấn đề yêu đương quá
sớm vì nó sẽ ảnh hưởng đến việc học tập. Tình yêu của nam nữ thanh niên tạo ra
nhiều cảm xúc: căng thẳng vì thiếu kinh nghiệm, vì sợ bị từ chối, vì vui sướng
khi được đáp lại bằng sự yêu thương.
  Học sinh THPT được sinh ra trong một môi trường xã hội có nhiều thuận lợi,
nhưng ở các em cũng có những ưu điểm và nhược điểm mà trong cơng tác giáo
dục cần lưu ý:
            - Ở một số thanh niên tình cảm cách mạng và ý chí phấn đấu cịn yếu,
trình độ giác ngộ về xã hội cịn thấp. Các em có thái độ coi thường lao động
chân tay, thích sống cuộc sống xa hoa lãng phí, đua địi, ăn chơi…
            - Thanh niên là lứa tuổi mộng mơ, khao khát sáng tạo, thích cái mới lạ,
chuộng cái đẹp hình thức nên dễ bị cái đẹp bề ngoài làm lung lay ý chí, có mới
nới cũ…
            - Thanh niên rất hăng hái nhiệt tình trong cơng việc, rất lạc quan u đời
nhưng cũng dễ bi quan chán nản khi gặp thất bại.
            -  Thanh niên là tuổi đang phát triển về tài năng, tiếp thu cái mới nhanh,
rất thông minh sáng tạo nhưng cũng dễ sinh ra chủ quan, nơng nổi, kiêu ngạo ít
chịu học hỏi đến nơi đến chốn để nâng cao trình độ. Các em thích hướng đến
tương lai, ít chú ý đến hiện tại và dễ quên quá khứ.

            Ở lứa tuổi học sinh, tâm lý các em rất hiếu động, dễ thích nghi với mơi
trường hoạt động ở trường, lớp. Đây là điều kiện tốt để giáo viên tạo sự hứng
thú cho các em nếu hàng ngày đến trường, các em được vui chơi, sinh hoạt.
Trong học tập, các em được hoạt động nhóm, được làm thí nghiệm, được thể
hiện bản thân… các em sẽ ham học hơn, sẽ có tâm thế học tập tích cực hơn và sẽ
có kết quả học tập cao hơn.
2.1.2. Vị trí, vai trị của giáo viên chủ nhiệm và công tác chủ nhiệm ở
trường phổ thông.
Giáo viên chủ nhiệm là người được hiệu trưởng phân công chịu trách nhiệm
vè một lớp, thay mặt hiệu trưởng chịu trách nhiệm quản lý toàn diện lớp học từ
văn hóa đến giáo dục đạo đức, nhân cách. Chính vì thế, giáo viên chủ nhiệm là

skkn


cầu nối đa chiều giữa các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường với tập
thể học sinh lớp chủ nhiệm. Giáo viên chủ nhiệm ở trường phổ thông là linh hồn
của một lớp học, là người góp phần khơng nhỏ vào việc hình thành và ni
dưỡng nhân cách học sinh – Những chủ nhân tương lai của đất nước.
Ngày nay, với sự nhận thức ngày càng đúng đắn và sâu sắc về giáo dục, có
thể coi giáo viên chủ nhiệm là nhà quản lý với các vai trò: Người lãnh đạo lớp
học; Người điều khiển lớp học; Người thúc đẩy động cơ học tập của học sinh.
Chính vì có vị trí, vai trị to lớn trong cơng tác giáo dục mà nhiệm vụ của giáo
viên chủ nhiệm cũng nặng nề, vất vả. Nhiệm vụ cơ bản của họ là:
- Bao quát toàn bộ các phương diện của lớp học. thực hiện kiểm tra, đánh giá
sự tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu của học sinh.
-Là cầu nối giữa Ban giám hiệu, các tổ chức trong trường, các giáo viên bộ
mơn và tập thể học sinh lớp chủ nhiệm. Nói cách khác, giáo viên chủ nhiệm phải
là người đại diện cho cả hai phía: Đại diện cho các lực lượng trong nhà trường
và tập thể học sinh.

- Giáo viên chủ nhiệm phải gắn bó, gần gũi với học sinh, giúp học sinh tự giải
quyết các vấn đề đặt ra trong thực tiễn cuộc sống. thơng qua các hình thức gắn
kết giáo dục, giúp học sinh xác định rõ động cơ đến trường, có tâm thế tốt khi
đến trường để học tập, rèn luyện có hiệu quả tốt nhất.
2.1.3. Những giải pháp chung để tạo tâm thế tích cực cho học sinh đến
trường:
Xu hướng giáo dục hiện nay là: “Tạo môi trường thân thiện cho học sinh học
tập tích cực”. Để cho học sinh học tập tích cực thì phải tạo ra sự ham thích, tâm
thế thoải mái ở các em. Muốn thế, phải có một mơi tường thân thiện về trường,
lớp, thầy cơ, bạn bè. Phải có sự đổi mới khơng ngừng về phương pháp cũng như
hình thức dạy học. Người giáo viên phải ln ln biết làm mới mình trước học
sinh. Việc dạy học hiện nay không phải chỉ cung cấp kiến thức cho học sinh một
cách rập khuôn, nhàm chán mà cung cấp cho học sinh các phương pháp học tập
để các em tự tìm ra kiến thức một cách tích cực.
Đối với học sinh thì việc học tập, tiếp thu kiến thức của các em là vấn đề rất
quan trọng. Do đó, chúng ta phải làm thế nào để các em phát huy hết năng lực
vốn có của mình để có kết quả học tập tốt nhất. Xu hướng học tập hiện nay là
học sinh đi học một ngày từ hai đến ba buổi. Áp lực bài tập, áp lực các hoạt
động toàn diện làm cho đa số học sinh cảm thấy mệt mỏi. Nhiều giáo viên cũng
đã cố gắng tìm tịi, thử nghiệm những phương pháp giảng dạy mới mà quên đi
việc tạo hứng thú cho học sinh mỗi ngày đến trường để các em có sự ham thích,
từ đó mà chủ động, tích cực học tập.
Sự ham thích học tập của học sinh chủ yếu hình thành thơng qua các hoạt
động thực tế và hoạt động nhóm. Qua sự tác động của mơi trường cơ sở vật chất
như trường, lớp, cảnh quan, qua thái độ của thầy cơ, bạn bè. Do đó rất cần có
những biện pháp, những hoạt động, những cải tạo về trường lớp, về tác phong sư
phạm của giáo viên nhằm tạo cho học sinh một môi trường thân thiện gần gũi, từ
đó giúp các em có động lực và tâm thế vui vẻ, tích cực khi đến trường.

skkn



Những giải pháp được đưa ra là: Đánh giá lòng ham thích và mục tiêu đến
trường của các em học sinh trong những năm học gần đây từ đó, tìm ra những
ngun nhân tại sao các em ít có hứng thú đến trường. Đưa ra một số giải pháp
nhằm kích thích sự u thích được học tập, khám phá, tìm hiểu kiến thức; Kích
thích động cơ đến trường đẻ kết nối, giao lưu cùng bạn bè, thầy cơ; Kích thích
niềm say mê sáng tạo và hợp tác cùng sáng tạo.
Các giải pháp cụ thể là:
- Đổi mới phương pháp ứng xử sư phạm của giáo viên đối với học sinh, tạo
khơng khí thân thiện, gần gũi thấu hiểu, sẻ chia và đồng cảm.
- Nghiên cứu các phương pháp giảng dạy và hoạt động trên lớp của giáo viên,
nhằm tạo sự hứng thú cho học sinh trong từng giờ lên lớp, từng hoạt động của
nhà trường, đoàn thể.
- Tạo cảnh quan môi trường đẹp đẽ, thân thiện với học sinh.
- Cải tiên các hoạt động của nhà trường, của Đoàn thanh niên, tạo ra những sân
chơi bổ ích, thiết thực cho học sinh.
- Kết nối chặt chẽ cùng cha mẹ học sinh để cung cấp, sẻ chia phương pháp giáo
dục tích cực, nhằm tạo ra tâm thế tích cực cho các em đến trường.
2.2 Thực trạng vấn đề:
Trong thực tế, ở các trường học vẫn cịn tình trạng nhận thức chưa đúng đắn,
chưa phù hợp trong việc, coi nhẹ công tác chủ nhiệm lớp, chưa tập trung rèn
luyện, đổi mới phương pháp, kĩ năng trong  công tác chủ nhiệm lớp. Không ít
giáo viên hiện nay chỉ tập trung chủ yếu vào các tiết dạy văn hóa làm sao cho
tốt, cho giỏi, cịn việc giáo dục, rèn luyện học sinh thì chưa quan tâm nhiều.
Trong khi đó mục tiêu giáo dục của nước ta khơng chỉ giáo dục con người có tri
thức mà còn cần đào tạo con người, đào tạo thế hệ trẻ Việt Nam phát triển tồn
diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ, và kỹ năng sống có thể đáp ứng 
yêu cầu ngày càng cao của sự phát triển đất nước trong thời kì Cơng nghiệp hố
– hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.

Cha mẹ, gia đình học sinh phần lớn cũng tham gia thường xuyên vào việc giáo
dục các em ở nhà. Tuy vậy, họ là người không được đào tạo nghề dạy học nên
họ không đủ phương pháp, kĩ năng hoặc không có phương pháp và kĩ năng phù
hợp trong việc giáo dục trẻ nên việc giáo dục con cái gặp rất nhiều khó khăn.
Bản thân nhiều năm làm cơng tác chủ nhiệm lớp ở các lớp gia đình học sinh có
điều kiện kinh tế cịn khó khăn, bố mẹ làm việc vất vả thiếu sự quan tâm đến
việc học tập của con em,  điều kiện học tập của các em còn gặp nhiều khó khăn.
Chất lượng giáo dục của một số lớp đầu năm học còn thấp, còn một số học sinh
chưa ngoan vì thế việc đến trường, đến lớp của một bộ phận học sinh vẫn là sự
khiên cưỡng. Các em đến trường như là một “qn tính” ít có hứng thú để học
tập vươn lên.
– Một số học sinh chưa xác định động cơ học tập đúng đắn nên chưa chăm học.
– Cha mẹ chưa quan tâm đúng mức đến việc học của các em, cịn khốn trắng
cho nhà trường, chưa tạo điều kiện cho các em học tập.

skkn


Bên cạnh đó các trị chơi vơ bổ như: điện tử, phim ảnh không lành mạnh,
đã trực tiếp tác động làm ảnh hưởng khơng ít đến hứng thú đến trường của các
em.
Mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, muốn
đề ra các biện pháp giáo dục học sinh phù hợp, đạt hiệu quả thì trước hết giáo
viên phải hiểu học sinh, phải nắm được đầy đủ các thông tin cần thiết về từng
học sinh. Do vậy, ngay từ ngày đầu nhận lớp, tôi đã luôn trăn trở về vấn đề: Làm
thế nào để học sinh có tâm thế đến trường tốt nhất.
Lớp 11A5 do tơi chủ nhiệm gồm có 46 học sinh. Phần đơng là con em nông
thôn, ở các vùng lân cận Thị Trấn Lam Sơn như Thọ Xương, Xuân Lam, Xuân
Thiên, Sao Vàng, Xuân Thắng, Xuân Phú, Xuân Bái… Do địa bàn cư trú rộng,
nhiều học sinh ở xa trường, đi lại vất vả nên điều kiện học hành có nhiều hạn

chế. Phần nữa, l1A5 là lớp đại trà, học sinh có học lực trung bình và yếu, áp lực
học hành, thi cử với các em là rất nặng nề vì thế tinh thần ham học ở các em
không cao. Nhiều em đến trường học nhưng không xác định mục tiêu học tập rõ
ràng. Tâm thế đến lớp được chăng hay chớ, khơng có chí hướng phấn đấu vươn
lên.
Và đây là kết quả khảo sát ý kiến học sinh về hứng thú đến trường 10A1,
10 A5 Trường THPT Lam Kinh trong năm học 2016- 2017. Chúng tơi đặt ra câu
hỏi: Em có thích đi học khơng? Và kết quả trả lời:
Lớp
Sĩ số
Hứng thú
Khơng
hứng thú
10A5

46

24 – 52,2%

22 – 47,8%

Với câu hỏi: Mục đích học tập của em là gì?
Lớp

Sĩ số

Học để tiếp Học để làm Học vì tương Vì lý do chưa
thu kiến thức vui lòng cha lai
xác định
mẹ

10A5
46
04 – 8,7%
14 – 30,4%
20 – 43,5%
08 – 17,4%
Từ thực tế giảng dạy, ta thấy niềm vui và sự ham thích sẽ là một động
lực lớn giúp học sinh vượt qua khó khăn để vươn lên trong học tập. Xuất phát từ
những cơ sở đó, người giáo viên chủ nhiệm có những nỗ lực nhất định để phát
huy khả năng của mình. Trong mỗi giờ chuẩn bị bài, lên lớp tôi không ngừng tự
học tập, nghiên cứu để tìm ra những giải pháp nhằm gây hứng thú cho học sinh
để các em có tâm thế tốt nhất khi đến trường.
2.3. Các giải pháp:
2.3.1. Bước 1: Tìm ra những ngun nhân khiến học sinh khơng có tâm thế
tốt khi đến trường.
Người thầy giáo có tâm huyết phải ln trăn trở với câu hỏi: Vì sao học sinh
chưa yêu trường, yêu lớp. Vì sao học sinh đến trường trong tâm thế chán nản,
mệt mỏi, khơng có động cơ phấn đấu vươn lên.

skkn


Từ kinh nghiệm nhiều năm công tác, tôi nhận thấy rằng nguyên nhân chủ yếu
khiến cho học sinh chưa có tâm thế tốt khi đến trường là:
- Do lứa tuổi mới lớn cịn ham chơi, kết quả học tập khơng như là mong đợi.
Nhiều em học lực yếu, lên lớp khơng hiểu bài, giáo viên chưa có phương
pháp truyền đạt thu hút đến các em.
- Do giáo viên ứng xử khơng sư phạm: Khơng gần gũi học sinh, cịn áp đặt,
mắng chửi, tạo nhiều áp lực cho mỗi ngày đến lớp.
- Do trường lớp không được thân thiện, trường chưa ra trường, lớp chưa ra

lớp. Phòng học thiếu ánh sáng, thiếu khơng khí, bàn ghế cũ nát, nhà vệ sinh
bẩn thỉu…
- Do sân trường thiếu bóng cây xanh, thiếu chỗ vui chơi lành mạnh cho các
em.
- Do nhà trường không có những hoạt động phong trào gì vui có thể thu hút
học sinh tham gia, các em đến trường chỉ có học và học.
- Do phụ huynh chưa quan tâm đúng cách đến con cái, chưa tạo điều kiện tốt
để con em mình học tập, vui chơi lành mạnh. Chưa quản lý tốt con em mình
khi ở nhà, để bạn bè xấu lơi kéo…
Khi tìm ra đúng ngun nhân, chúng ta sẽ có những giải pháp đúng đắn,
thiết thực để mang đến cho học sinh niềm vui được đến trường.
2.3.2. Bước 2. Giải pháp cụ thể:
2.3.2.1. Xây dựng môi trường học tập thân thiện và lớp học hạnh phúc:
“Thân thiện” là có tình cảm tốt, đối xử tử tế, và thân thiết với nhau. Bản
thân khái niệm “thân thiện” đã hàm chứa sự bình đẳng, dân chủ về pháp lý và sự
đùm bọc, cưu mang đầy tình người về đạo lý. “Thân thiện” bắt nguồn từ sứ
mệnh của nhà trường và thiên chức của nhà giáo đối với thế hệ trẻ và xã hội, chứ
không dừng ở thái độ bề ngoài trong quan hệ ứng xử.
“Trường học thân thiện” đương nhiên phải “thân thiện” với địa phương địa bàn hoạt động của nhà trường; phải “thân thiện” trong tập thể sư phạm với
nhau; giữa tập thể sư phạm với học sinh; “Trường học thân thiện” phải đảm bảo
cơ sở vật chất phù hợp với yêu cầu giáo dục và thỏa mãn tâm lý người thụ
hưởng.
Trong trường học thân thiện sẽ có những lớp học hạnh phúc. “Lớp học
hạnh phúc” là nơi khiến cả cơ và trị đều có cảm giác “muốn đến”, khi đến sẽ có
hứng thú, niềm vui, sự mong chờ và những rung cảm.
Khác với lớp học truyền thống, lớp học hạnh phúc không áp đặt học sinh
phát triển theo khn mẫu mà đóng vai trị định hướng để các em được làm
những gì mình u thích và say mê. Ở đó, học sinh khơng bị áp đặt học theo
kiểu “nhồi nhét” mà được học những  gì có ý nghĩa với chúng, được khơi gợi
niềm yêu thích để tiếp tục tự tìm hiểu. Các mơn học được biến hóa thành những

bài học “trơn tru” qua những trị chơi, những trải nghiệm.
Để việc giáo dục phát triển không ngừng thì nhà trường phải kích thích
được sự ham thích đến trường của học sinh. Muốn vậy, cảnh quan trường lớp

skkn


phải đẹp đẽ, sạch sẽ, có cây xanh, bóng mát, khơng khí trong lành, có chân chơi
bãi tập thuận lợi, thoải mái thỏa mãn nhu cầu học tập, giải trí của học sinh.
Trường THPT Lam Kinh được công nhận đạt chuẩn Quốc gia năm 2017.
Về cơ bản đảm bảo đầy đủ cơ sở vật chất cho học sinh học tập, rèn luyện. Nhà
trường có đủ phịng học, phịng chức năng rộng rãi khang trang, có thư viện với
hàng nghìn đầu sách, phịng vi tính, phịng hóa sinh phục vụ tốt công tác giảng
dạy, học tập. Khuôn viên nhà trường rộng, xanh, sạch đẹp. Quan trọng là làm
sao để các em ln có ý thức u q, tự hào, gắn bó với ngơi trường của mình,
thực sự coi trường lớp là nhà mình, thầy cơ là cha mẹ, bạn bè là anh em của
mình. Trong q trình cơng tác của mình, tôi luôn cố gắng lan tỏa đến các em
học sinh những tình cảm nhân văn ấy để các em thực sự cảm thấy thân thiết với
mái trường, thầy cô và các bạn để các em ý thức được trách nhiệm làm chủ của
mình đối với ngơi trường mình đang theo học.
Trong những năm qua, nhà trường đang thực hiện mục tiêu xây dựng
“Trường học là công viên”, nhằm tạo ra một sắc thái mới đối với trường lớp, để
mái trường khơng chỉ là nơi để học tập mà cịn là nơi các em vui chơi, thư giãn.
Ngoài ra, nhà trường còn tạo cho học sinh ý thức làm chủ, ý thức giữ gìn và
chăm sóc “cơng viên ” của trường mình với các cơng việc sau: Mỗi lớp thực
hiện cơng việc trực tuần của mình bằng cách quét dọn khắp khn viên của
trường. Ngồi ra, mỗi lớp quản lý một khu vực tự quản sao cho luôn xanh, sạch,
đẹp… Mỗi lớp học, nhà trường giao cho một phòng học tự quản lý và giữ gìn
trong suốt ba năm
Thực hiện nhiệm vụ nhà trường giao, là một giáo viên chủ nhiệm, tôi luôn

đôn đốc, nhắc nhở các em thực hiện tốt, tự giác, nhiệt tình như làm việc ở nhà
mình. Mỗi tuần trực, cô giáo tham gia cùng học sinh quét dọn, chăm sóc cây cối.
Ở khu vực tự quản của lớp, tơi khuyến khích các em trồng hoa tạo cảnh quan
đẹp. Trong phịng học, tơi ln giáo dục học sinh ý thức coi lớp học như là nhà
của mình. Tổ chức xây dựng lớp học thành một căn nhà thân thiện bằng những
công việc cụ thể:
- Phân công tự quản hàng ngày, giáo dục ý thức giữ gìn lớp học sạch sẽ.
- Sắp xếp bàn ghế, đồ dùng dạy học hợp lý, đẹp mắt.
- Trang trí lớp học bằng ảnh Bác, khẩu hiệu hoặc các sản phẩm các em sáng
tạo trong các kỳ thi đua: Báo tường, cờ thi đua, giáy khen…
- Để lớp học trở thành nhà của học sinh, giáo viên chủ nhiệm cịn phải biết
xây dụng hình ảnh người giáo viên như một người mẹ hiền, đối xử với các
em bằng tình mẫu tử. Tránh quát mắng, xỉ nhục, địn roi. Thường xun ứng
xử bằng văn hóa khích lệ, động viên. Gặp nhau bằng nụ cười, bằng ánh mắt
thân thiện, bằng lời chào, câu cảm ơn, không dùng văn hóa chỉ trích, xúc
phạm…
Bên cạnh đó, tơi ln xác định vai trị kết nối của mình giữa các em học sinh
với nhà trường, giữa học sinh với cha mẹ các em và giữa học sinh với nhau để
tạo ra mối liên hệ chặt chẽ, đoàn kết, thân thiện. Trong năm học, tôi thường tổ
chức các hoạt động để các em được vui chơi, được gần gũi, làm việc cùng nhau,

skkn


sẻ chia với nhau mọi điều trong cuộc sống. các hoạt động vui chơi, gắn kết
cùng học sinh cũng là cơ hội để giáo viên chủ nhiệm phát hiện ra những tồn tại,
hạn chế của từng em, phát hiện và giải quyết kịp thời những mâu thuẫn ở các
em. Chính việc xây dựng môi trường học tập thân thiện đã giải tỏa áp lực nặng
nề của học sinh khi đến trường, tạo tâm lý thoải mái để các em học tập tốt hơn.
2.3.2.2. Tạo niềm vui cho học sinh khi đến trường:

Thực tế điều tra cho thấy, những học sinh có tâm thế thoải mái khi đến
trường, u thích được đến trường hầu như là các em học khá, giỏi. Có được
tâm thế thoải mái là vì các em hiểu được bài học và làm bài tập luôn được điểm
cao, được các thầy cô khen ngợi, được bố mẹ chiều chuộng, quan tâm. Cịn lại
những em có học lực trung bình và yếu, việc tiếp thu kiến thức và trả bài thực sự
là một cực hình. Các em ấy khơng thể tìm được niềm vui từ sách vở, vì thế cũng
đến trường với tâm thế gượng ép, khiên cưỡng. Vậy, làm cách nào để học sinh
đại trà có được niềm vui khi đến trường, làm sao để các em tiếp thu bài một cách
hiệu quả nhất, tôi đã tiến hành những biện pháp sau:
2.3.2.2.1. gần gũi với học sinh ở mọi lúc, mọi nơi.
Trường đẹp, trường chuẩn là một yếu tố quan trọng để học sinh thích đến
trường. Song, quan trọng nhất vẫn là đội ngũ giáo viên phải thực sự yêu thương
học trò. Người thầy, đặc biệt là thầy cơ chủ nhiệm có một vị trí rất lớn trong
lịng học sinh. Chính họ tạo ra nguồn cảm hứng để học sinh có u thích đến
trường hay khơng. Hiểu được điều đó, ngay từ khi học sinh bước chân vào lớp
10 THPT, tơi ln gần gũi, trị chuyện, tâm sự với các em để có những hiểu biết
về hồn cảnh gia đình, đặc điểm tâm sinh lý, sở trường, sở đoản của từng em.
Để gần gũi, thân thiết với các em học sinh, giáo viên chủ nhiệm phải
thường xuyên có mặt trên lớp nhắc nhở, động viên học sinh thực hiện nề nếp kỷ
cương trường lớp, kịp thời uốn nắn, ngăn chặn những hành vi tiêu cực. Bên cạnh
đó, người thầy phải luôn quan tâm, hỏi han học sinh của mình. Có thể chỉ là
những câu hỏi về gia cảnh, về đường xá, về một người thân yêu, về những kỷ
niệm đã qua… Hỏi han rồi, còn phải biết động viên, khích lệ học sinh, nhất là
đối với những em nhút nhát, thiếu tự tin. Hãy tìm một ưu điểm của em để khích
lệ, vừa tạo động lực cho học sinh cố gắng, vừa mang đến cho em sự tự tin.
Nhiều khi, chỉ một câu nói, một cử chỉ của thầy cơ làm cho các em khơng cịn sợ
hãi, khơng ác cảm với việc tới trường , thậm chí cịn làm thay đổi cuộc đời của
các em nữa.
Trước những tình huống éo le, bất thường, thầy cô phải kịp thời có phương
án giải quyết minh bạch, hợp lý, hợp tình để tạo niềm tin cho học sinh. Trong

các hoạt động phong trào của nhà trường, của Đoàn thanh niên như Văn nghệ,
TDTT, làm báo tường…, giáo viên chủ nhiệm cũng nên tham gia nhiệt tình, có
trách nhiệm. Sự có mặt của thầy cô sẽ tạo ra nguồn động viên thiết thực cho học
sinh, giúp các em hoạt động tích cực hơn, tránh những xung đột, bất hòa ở lứa
tuổi mới lớn.
Nhờ việc gần gũi, thân mật với học sinh, nhờ tình yêu thương chân thành với
các em mà tình cảm cơ trị gắn kết như tình cảm mẹ con, những em nhút nhát rụt

skkn


rè, ngày càng tự tin, mạnh dạn, lớp chủ nhiệm của tôi luôn là một tập thể xuất
sắc trong mọi hoạt động của nhà trường và vì thế các em ham thích được đến
trường để được thầy cơ u thương, chăm sóc.
2.3.2.2.2. Tổ chức nhiều hoạt động phong trào cho các em tham gia:
Hoạt động phong trào ở trường phổ thông là những hoạt động do tập thể lớp,
các tổ chức Đoàn, Hội, nhà trường khởi xướng, phát động hoặc phát động do
chủ trương chỉ đạo của cấp trên nhằm giáo dục đạo đức nhân cách để học sinh
hoàn thiện cả “Trí – Thể - Mỹ”. Lứa tuổi học sinh rất thích tham gia các hoạt
động vui chơi, giải trí, văn hóa, văn nghệ, TDTT… Trong các hoạt động này, ta
thấy các em tham gia rất nhiệt tình, tất cả đều hịa đồng trong khơng khí vui
tươi, đồn kết. Do đó, để tạo niềm vui cho học sinh đến trường, cần tổ chức
nhiều phong trào hoạt động để các em được tham gia như các phong trào văn
nghệ, thể thao
Hoạt động phong trào có ý nghĩa rất quan trọng, giúp học sinh gắn kết với
nhau bền chặt hơn, giúp giáo viên chủ nhiệm gần gũi, thấu hiểu học sinh của
mình hơn. Vì vậy, cơng tác chủ nhiệm vì thế đõ vất vả và hiệu quả hơn. Hoạt
động phong trào cũng giúp học sinh phát huy, phát triển năng khiếu của bản thân
đồng thời thúc đẩy q trình hồn thiện nhân cách được toàn vẹn hơn. Khi các
em càng tham gia nhiều phong trào thì các em càng có hứng thú với trường, lớp,

từ đó các em càng yêu trường và sự học tập có thêm hưng phấn.
Ví dụ: Khi nhà trường tổ chức diễn văn nghệ, các em rất hăng say trong
việc tập dượt, chuẩn bị trang phục, đạo cụ tham gia. Các em phân công nhau,
phối hợp cùng nhau làm việc rất nghiêm túc, trách nhiệm. Nhiều em vốn nhút
nhát, nay trong hoạt động phong trào cũng trở nên mạnh dạnh, tự tin hơn.
Ở trường THPT , một năm học có nhiều đợt thi đua lớn, có ý nghĩa như thi
đua chào mừng ngày thành lập LHPN Việt nam 20-10; Thi đua chào mừng ngày
Nhà giáo Việt Nam 20 – 11; Chào mừng ngày Quốc tế phụ nữ 8 – 3; Chào mừng
ngày thành lập Đồn TNCS Hồ Chí Minh 26 – 3… Ở trường THPT Lam Kinh
của chúng tơi, những ngày lễ lớn này, nhà trường và Đồn thanh niên thường
phát động phong trào thi đấu thể thao, làm báo tường, diễn văn nghệ… Thường
kỳ, chúng tôi tổ chức các phong trào tuần lễ học tốt, làm bảng tin hay…Ngồi
ra, ở lớp chủ nhiệm, tơi cịn tổ chức cho các em tìm hiểu về văn hóa qua các
hình thức đố vui, “rung chng vàng”… Đây chính là dịp để học sinh thể hiện
khả năng của bản thân và sự gắn kết trong tập thể lớp học. Để những hoạt động
này diễn ra sơi nổi, có chất lượng, người giáo viên chủ nhiệm đóng vai trị rất
quan trọng.
Việc làm đầu tiên của tôi trong các đợt thi đua này là: Ngay sau khi nhà
trường phát động, phải nắm được mục tiêu thi đua, các nội dung thi đua, thời
gian phát động, các hình thức thể lệ… Đây là việc rất quan trọng để giáo viên
chủ nhiệm tư vấn cho học sinh lớp mình lựa chọ đầu tư vào những nội dung phù
hợp, có thế mạnh để vừa đảm bảo tiêu chí của nhà trường, vừa phù hợp với năng
lực, sở thích của học sinh.

skkn


Khi đã lựa chọn được nội dung phù hợp để tham gia đợt thi đua, giáo viên
chủ nhiệm phải tư vấn xây dựng kế hoạch hoạt động, triển khai sao cho hợp lý
cả về thời gian, công sức và tiền bạc. Khơng nên bỏ mặc học sinh tự làm vì như

vậy các em chưa lường trước được các tình huống, khả năng xảy ra và cách giải
quyết nên sẽ dẫn đến việc lãng phí thời gian, cơng sức, tiền bạc. Quan trọng hơn
cả, các em sẽ có cảm giác hụt hẫng khi thấy cô giáo thiếu quan tâm, thiếu trách
nhiệm, từ đó dẫn đến tình trạng học sinh làm việc thiếu nhiệt tình, thiếu tâm
huyết với phong trào của lớp.
Trong quá trình thực hiện kế hoạch đã xây dụng, giáo viên chủ nhiệm phải
luôn theo sát, động viên học sinh phát huy khả năng của bản thân, sức mạnh của
tập thể. Không nên làm thay việc cho học sinh mà để các em tự sáng tạo, luyện
tập để có hứng thú làm việc.
Nếu lớp tham gia nội dung hoạt động nào mà giáo viên chủ nhiệm có hiểu
biết hoặc năng khiếu thì giáo viên cần dành thời gian và cơng sức chỉ đạo,
hướng dẫn để học sinh đạt kết quả tốt hơn.
Ví dụ, khi học sinh lớp A5 tham gia thuyết trình về sản phẩm cắm hoa chào
mừng ngày Quốc tế phụ nữ. tôi đã dùng kiến thức Ngữ văn và những hiểu biết
về lịch sử giúp các em xây dựng một bài thuyết trình ngắn gọn, chặt chẽ và đầy
tính thuyết phục, giúp tập thể giành giải cao trong cuộc thi đó.
Để tổ chức tốt các hoạt động phong trào của lớp, tôi đã cố công lựa chọn và
đào tạo một đội ngũ cán sự nhiệt tình, năng nổ và có khả năng tổ chức phong
trào. Trong các phong trào lớn do nhà trường phát động, tôi chia thành từng
mảng, giao nhiệm vụ cho từng em phụ trách. Các em tự quản và tìm cách hồn
thành nhiệm vụ của mình.
Cùng với những hoạt động của nhà trường, tại lớp học, chúng tôi cũng tổ
chức những phong trào thi đua trong nội bộ, hoặc tổ chức giao lưu giữa lớp này
với lớp khác. Ví dụ như giao lưu bóng đá, cầu lơng, ca hát… Những buổi giao
lưu này có rất nhiều học sinh thâm gia sơi nổi, nhiệt tình, hứng thú.
Các phong trào hoạt động của trường, lớp, để có hiệu quả cao rất cần đến
kinh phí trong khi học sinh đi học đã phải đóng góp rất nhiều. Để giúp học sinh
được tham gia phong trào những không phải đóng góp, chúng tơi thường tổ chức
các hoạt động tập thể theo kiểu tự biên, tự diễn, không tốn kém nhưng vẫn sôi
nổi, vui tươi như nhảy múa, thể thao… Các em tổ chức tại trường, giao lưu tại

trường, ai cũng có thể tham gia. Qua những sinh hoạt tập thể đó học sinh mạnh
dạn, tự tin và ham thích đến trường hơn.
Cũng cần phải hiểu rằng, không phải các hoạt động phong trào nào càng
tốn nhiều kinh phí thì hoạt động càng hiệu quả. Điều quan trọng để các em có
sự hưng phấn, vui vẻ trong các hoạt động phong trào là chúng ta phải biết cổ
vũ, động viên, khen, thưởng minh bạch đúng lúc, đúng người. Chúng ta cần
biết cách tuyên dương học sinh để các em có động lực, có tâm trạng phấn khởi
khi học tập và làm việc.
Ví dụ như ở phong trào Hội khỏe Phù Đổng cấp trường, để các em tham gia
nhiệt tình, có thành tích cao, tơi đã tun truyền để các em hiểu rằng, những em

skkn


đạt giải nhất, nhì sẽ có cơ hội đi thi đấu giao lưu với trường bạn. cao hơn nữa là
được thi đấu ở giải cấp huyện, cấp tỉnh. Vì thế, mặc dù thi đấu khơng có phần
thưởng nhưng học sinh tham gia rất nhiệt tình. Những hoạt động phong trào đã
thực sự kích thích tình u của học sinh đối với mái trường, tạo tâm thế vui vẻ
để các em đến lớp học tập có hiệu quả.
Cũng cần lưu ý rằng, khi tổ chức các phong trào tập thể, cần tạo điều kiện
để tất cả học sinh được cùng tham gia. Những em khơng trực tiếp dự thi thì có
thể làm khán giả. Ví dụ, trong phong trào văn nghệ, giáo viên chủ nhiệm
khuyến khích cho nhiều học sinh tham gia các tiết mục tốp ca; Trong thi đấu
TDTT, khuyến khích mỗi em tham gia một mơn. Nếu trong một hoạt động, tổ
nào có số lượng người tham gia đơng đảo, tổ đó sẽ được cộng thêm điểm. Có
như vậy mới khơng xảy ra tình trạng học sinh cảm thấy mình bị lạc lõng, vơ
dun, có như vậy mới gắn kết và tạo được sự hứng thú cho các em khi đến
trường.
Trong các hoạt động phong trào, cũng nên tạo ra những công việc vừa sức
với học sinh, những công việc có khả năng kích thích sự sáng tạo và phù hợp với

tâm lý lứa tuổi của các em. Ví dụ, trong cuộc thi “Rung chuông vàng” tại lớp,
tôi chuẩn bị những câu hỏi từ dễ đến khó. Những câu hỏi bắt đầu, ai cũng có thể
trả lời được. Có như vậy, ngay từ đầu các em sẽ không nản và tham gia sơi nổi,
nhiệt tình hơn.
Trong các hoạt động phong trào cũng cần để cho học sinh là người chủ
động, tự quản, giáo viên chỉ là người tư vấn tổ chức. Khi được quyền chủ động
xây dựng, dẫn dắt chương trình, học sinh sẽ thấy mình “người lớn” hơn, sẽ thể
hiện bản thân nhiều hơn. Đó cũng là cơ hội để các em có tâm thế tự nguyện học
tập.
2.3.2.2.3. Đổi mới phương pháp truyền đạt để mỗi bài học là một cuộc chơi
khám phá thú vị.
Trong lộ trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, có thể nói
rằng giáo viên là yếu tố quyết định hàng đầu trong việc thực hiện đổi mới
phương pháp giảng dạy.  Điều này đòi hỏi sự nhận thức đúng đắn, tinh thần
trách nhiệm và sự quyết tâm cao của toàn bộ giáo viên đang đứng lớp.
Giáo viên với bất cứ lớp học nào đều phải hội đủ các điều kiện về kiến thức, khả
năng giảng dạy hữu hiệu, lòng nhiệt thành và sự thân mật. Bên cạnh đó giáo
viên phải có kỹ năng tổ chức hướng dẫn học sinh trong lớp học, có kỹ năng sử
dụng đồ dùng dạy học, có năng lực tự thu thập thông tin phong phú của thời đại
để phục vụ yêu cầu dạy học. Vậy, thầy cơ cần làm gì để thay đổi phương pháp
dạy học?
- Người giáo viên phải có kiến thức đa dạng.
Giáo viên cần có kiến thức chuyên sâu, có kiến thức sư phạm về các đề tài giảng
dạy đồng thời phải có khả năng truyền tải những kiến thức vào chương trình
giảng dạy, với lối trình bày giản dị, sáng tỏ, áp dụng vào bài làm, vào bài ôn tập,
vào sự đánh giá cũng như các hoạt động khác của việc giảng dạy. 

skkn



Những điều trên kết hợp cùng với sự nhiệt tình trong giảng dạy chắc chắn
sẽ truyền đạt kiến thức cho học sinh một cách hiệu quả và thành công hơn.
Tài nghệ của giáo viên trong công tác giảng dạy cũng cần thiết không kém bất
cứ một lĩnh vực sáng tạo nào khác. Nếu người giáo viên khéo léo phát huy tính
tích cực, chủ động của học sinh thì con người đang chịu tác động của giáo dục
sẽ trở thành chủ thể của giáo dục. 
Để đáp ứng mục tiêu giáo dục mới, giáo viên cần đổi mới rất nhiều, trước
đây chúng ta ln chú trọng "dạy cái gì", thì bây giờ cần chuyển sang "dạy
cách" (cách đọc sách, cách suy luận để tìm tịi và phát hiện kiến thức mới…), từ
chủ yếu quan tâm học sinh "học cái gì" chuyển sang quan tâm hơn về "học như
thế nào". 
Bản lĩnh và năng lực sáng tạo của giáo viên được khẳng định qua khả
năng hướng dẫn tự học, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, tăng cường
xây dựng các mơ hình học tập gắn với thực tiễn, xây dựng và sử dụng tủ sách
lớp học, phát triển văn hóa đọc gắn với hoạt động của các câu lạc bộ khoa học
trong nhà trường.
Đồng thời, phẩm chất và năng lực của người học cũng được hình thành và
phát triển qua các hoạt động giao lưu, kết nối, tương tác với thực tiễn đời sống
để khơi dậy hứng thú học tập, rèn luyện kỹ năng sống, nâng cao hiểu biết về các
giá trị văn hóa truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa thế giới…
Trong chương trình giáo dục THPT hiện nay, học sinh phải chịu áp lực
của hơn mười mơn học chính khóa, trong khi khả năng tiếp thu của phần đơng
học sinh là có hạn. Thường thì, mỗi học sinh chỉ có một thế mạnh nào đó, hoặc
khoa học tự nhiên, hoặc khoa học xã hội, hoặc văn nghệ, thể thao… Đối với
những mơn học khơng có thế mạnh, học sinh sẽ cảm thấy rất nhàm chán, vơ vị,
vì thế tâm lý chán chường, ngại học là không thể tránh khỏi.
Để tạo cho học sinh tâm thế thoải mái, hứng khởi khi đến lớp và trong
các giờ học của mình, tơi ln trăn trở tìm cách dạy sao cho hiệu quả nhất. Vì
phần đơng học sinh trong lớp có học lực trung bình, nên tơi sẽ lựa chọn những
kiến thức đơn giản nhất để truyền đạt cho các em. Đối với một vài em học khá,

giỏi, mình phải sắp xếp thời gian để giảng giải cho các em những kiến thức hàn
lâm hơn, giúp các em làm những bài tập khó hơn.
Về phương pháp, người
giáo viên phải nghĩ ra những hình thức học tập sinh động trong giờ học.
Có thể tổ chức các trị chơi, các loại hình biểu diễn để mỗi bài học không phải
nằm im trên trang giấy, trên bảng đen mà thực sự sinh động, để học sinh được
thư giãn, có niềm vui học tập trên lớp.
Ví dụ: Trong các giờ sinh hoạt tập thể, thay vì những hoạt động theo lối
mòn: Giáo viên nhận xét ưu, khuyết diềm của từng em, học sinh phát biểu ý
kiến; Hoặc cả cơ và trị sử dụng thời gian sinh hoạt tập thể vào những công việc
khác: Làm sổ sách, ghi lại bài, hoặc ngồi nói chuyện phiếm… Tơi đã tìm hiểu tài
liệu liên quan đến vấn đề đỏi mới giờ sinh hoạt tập thể, tìm hiểu nguyện vọng
của học sinh, báo cáo Ban giám hiệu và trao đổi với các giáo viên trong trường
để có thể tiến hành thực nghiệm những giờ sinh hoạt tập thể vui vẻ, bổ ích đảm

skkn


bảo yêu cầu giáo dục. Cụ thể là, chúng tôi đã đưa ra những chuyên đề phù hợp,
thiết thực với tâm, sinh lý lứa tuổi học sinh: An toàn giao thơng, an tồn thực
phẩm, tình bạn, tình u ở lứa tuổi học trò. Hoặc lựa chọn nghề nghiệp cho
tương lai như thế nào; tiêu tiền như thế nào khi chúng ta cịn sống phụ thuộc vào
cha mẹ; Lợi ích của việc đọc sách và lịng đam mê tìm hiểu kiến thức; Bạo lực
gia đình và trách nhiệm của chúng ta; Tự học như thế nào để có kết quả tốt
nhất… Khi đưa ra những chuyên đề này, những tình huống có vấn đề sẽ phát
huy trí lực của học sinh, khơi gợi những bức xúc, trăn trở, những suy nghĩ đa
chiều để các em bộc lộ. từ đó giáo viên chủ nhiệm có định hướng đúng đắn, mở
ra hướng suy nghĩ tích cực cho các em.
Để những giờ sinh hoạt tập thể theo chủ đề có chất lượng tốt, người giáo
viên phải tìm tịi, và chuẩn bị những nội dung gần gũi, thân thiện và phù hợp với

tâm lý học sinh. Những sự chuẩn bị không chu đáo, đưa ra những vấn đề quá
tầm nghĩ, tầm tư duy của học sinh sẽ gây khó khăn cho việc thảo luận buộc các
em phải khiên cưỡng trả lời, và buổi sinh hoạt sẽ trở nên nhàm chán, sáo rỗng.
Trong năm học 2018- 2019, tôi đã áp dụng việc đổi mới các giờ sinh hoạt tại
lớp chủ nhiệm của mình là 11A5. Tiết học thứ 5 ngày 17.112018 – Nội dung
sinh hoạt: Tri ân thầy cô.Tôi đã cho học sinh chuẩn bị và tiến hành những cơng
việc sau:
- Ơn lại lịch sử ngày Hiến chương các nhà giáo.
- Kể chuyện về những kỷ niệm sâu sắc với thầy cô, những tấm gương nhà
giáo ưu tú mà em biết.
- Văn nghệ: hát về mái trường, về thầy cô, bè bạn.
Tiết học thứ 5 ngày 16.2.2019 – Nội dung sinh hoạt theo chủ đề “Giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc”. Tơi tổ chức cho học sinh lớp mình xem một số hình
ảnh về lễ hội văn hóa dân gian; Chơi trị chơi đố vui tìm hiểu văn hóa dân gian,
văn học dân gian; Biểu diễn văn nghệ dân gian. Các giờ học đó, rất sơi nổi, vui
vẻ, học sinh tham gia nhiệt tình. Các em ln có hứng thú được chuẩn bị các nội
dung sinh hoạt ở tuần học tiếp theo.
Không chỉ đổi mới các hình thức sinh hoạt tập thể, trong các giờ dạy chun
mơn, tơi cũng ln tìm cách tạo ra những cách dạy học linh hoạt, vui vẻ để học
sinh không có cảm giác nhàm chán, mệt mỏi, bị bắt buộc. Với đặc thù là giáo
viên dạy Ngữ văn, tôi luôn tâm niệm rằng, mỗi giờ lên lớp của mình phải là một
giờ học sinh vừa được học, vừa được giải trí, thưởng thức và sáng tạo. Vì thế,
thay vì cách dạy học truyền thống, cô giáo dạy giảng, sao cho hết bài, học sinh
ghi chép, làm bài tập đầy đủ. Tôi thường tổ chức cho các em tham gia vào việc
học một cách tự nguyện có hứng khởi như là một sự sáng tạo. Tơi hay nghĩ ra
các trị chơi, tìm tịi câu đố để học sinh phải tư duy, so sánh… Dạy bài “Văn học
dân gian”, tôi cho học sinh xem hình ảnh về văn hóa dân gian, khuyến khích các
em hát dân ca; đóng kịch vui… Dạy các bài ôn tập, tôi tổ chức cho học sinh chơi
giải ô chữ, đố vui hoặc hát theo chủ đề… Mỗi giờ lên lớp dạy học, tôi cố gắng
tạo niềm vui cho học sinh bằng khát khao khám phá, sáng tạo, chứ không đặt ra

những áp lực bắt buộc các em phải làm. Trên cơ sở tự nguyện và hứng thú, học

skkn


sinh của tôi thấy đến trường là niềm hạnh phúc, mỗi ngày đến trường, thực sự là
một ngày vui.
2.3.2.2.4. Tin tưởng, giao việc cho học sinh.
Trong bài “Cách mạng về phương pháp sẽ đem lại bộ mặt mới, sức sống
mới cho giáo dục ở thời đại mới”, tác giả bài báo viết: “Muốn đào tạo được
những con người khi vào đời là con người tự chủ, năng động, sáng tạo thì
phương pháp giảng dạy phải hướng vào việc khơi dậy, rèn luyện và phát triển
khả năng nói và làm một cách tự chủ, năng động, sáng tạo ngay trong lao động
và học tập ở nhà trường. Phương pháp nói trên, trong khoa học giáo dục thuộc
về hệ thống các phương pháp tích cực, là phương pháp lấy người học làm trung
tâm. Người học giữ vai trị chủ động, tích cực trong q trình học tập và khơng
cịn ở thể thụ động như khi dùng phương pháp sư phạm cổ truyền là phương
pháp lấy người thầy làm trùng tâm”. [2]
Học sinh THPT ở độ tuổi vừa trưởng thành, rất muốn thể hiện khả năng
của bản thân, rất muốn khẳng định mình trong những hoạt động của tập thể. Vì
thế để học sinh thân thiện với giáo viên, ham thích đến trường, để kích thích
hứng thú học tập của học sinh, chúng ta cần cho học sinh thấy các em luôn luôn
được thầy cô tin tưởng, thương yêu, được làm những việc có ích cho trường, cho
lớp…Giáo viên hãy thường xun tìm ra những công việc phù hợp giao việc
cho các em, tạo điều kiện để các em chủ động làm việc, hồn thành nhiệm vụ.
Đặc biệt, những học sinh có tính nhút nhát, rụt rè, nếu chúng ta không
quan tâm đến thì trong các hoạt động các em thường tách biệt, khó hịa đồng dẫn
đến việc thụ động với các hoạt động của trường, lớp. Dần dần, các em sẽ khơng
cịn ham thích đến trường nữa, khơng có tâm thế học tập để vươn lên. Vì vậy,
trong cơng tác chủ nhiệm, giáo viên cần quan tâm nhiều hơn đến những đối

tượng học sinh này, yêu cầu những học sinh này tham gia vào các hoạt động của
Đồn, Hội, nhóm để các em quen dần với tập thể. Rồi từ hoạt động tập thể, các
em sẽ dần tự tin để hòa đồng cùng các bạn.
Ở trường THPT, các hoạt động phong trào tương đối nhiều, những công
việc phù hợp với lứa tuổi học sinh khá đa dạng: Viết bảng tin; làm chương trình
phát thanh; Chuẩn bị bãi tập; Chuẩn bị sân kháu biểu diễn; Foto tài liệu; Khiêng
bàn ghế; Chăm sóc bồn hoa, cây cảnh…
Trong một lớp học, những công việc liên quan đến quản lý, chăm sóc,
giáo dục học sinh cũng rất nhiều: Mua sắm đồ dùng cho tập thể; Trang trí phịng
học; Chuẩn bị loa đài, máy chiếu; Giữ và ghi chép sổ đầu bài; Quản xe… Để
giảm bớt công việc cho giáo viên, cũng là cách tập dượt cho học sinh làm việc,
chúng ta nên tin tưởng, giao việc cho các em.
Khi giao việc cho học sinh làm, chúng ta cần lưu ý những điểm sau:
- Phân công học sinh làm việc theo nhóm, để có thể hỗ trợ, bù khuyết cho nhau.
-Phải có một liên lạc viên và trợ lý làm việc cho mỗi nhóm. Đây là cầu nối giữa
giáo viên và các thành viên trong nhóm. Tơi sẽ gọi các liên lạc viên khi cần đưa
cho nhóm một thơng tin nào đó và ngược lại, cập nhật tình hình các nhóm qua

skkn


bạn liên lạc viên này. Tôi cũng chỉ giải đáp câu hỏi của cả nhóm được tổng hợp
và đưa lên qua liên lạc viên thay vì trả lời câu hỏi của từng cá nhân.
Trong q trình các nhóm làm việc, Trợ lý sẽ thực hiện trách nhiệm đảm bảo các
nhóm dành thời gian hợp lý cho từng ý tưởng và tất cả các thành viên trong
nhóm đều có cơ hội được nêu ý kiến đóng góp.
Dựa trên những nhiệm vụ đó, tơi tạo ra một danh sách những điều cần thiết
cho một buổi làm việc nhóm thành cơng mà các học sinh của tôi cần phải áp
dụng: đặt câu hỏi, chia sẻ hình ảnh, ý tưởng, cơng thức, lắng nghe ý kiến các
thành viên, không để ai tách biệt khỏi nhóm, chia đều thời gian để tất cả thành

viên đều được nêu ý kiến và tất cả đều phải hiểu chi tiết về nhiệm vụ chung là gì.
Trước khi để các nhóm thực hiện nhiệm vụ, tơi thường nói với cả lớp về
những điều mà học sinh thích và ghét khi làm việc nhóm. Tơi cũng chỉ rõ các
quy tắc và kỳ vọng của mình cũng như những biện pháp giải quyết cho một số
tình huống phổ biến để học sinh cảm thấy tự tin và sẵn sàng trải nghiệm cơ hội
làm việc chung này.
Kể từ khi tôi áp dụng những quy tắc này, tôi đã thấy học sinh của mình
tiến bộ hơn rất nhiều. Chúng thích làm việc nhóm, thảo luận sôi nổi hơn, biết
cách phân chia công việc hiệu quả hơn và những sản phẩm chung cũng tốt hơn
từng ngày. Sau mỗi lần như vậy, tôi luôn hỏi học sinh về những gì tốt và chưa
tốt trong lần làm việc chung đó, có cần thay đổi nhiệm vụ của các thành viên
hay không?
Là một giáo viên, tôi nghĩ nhiệm vụ hướng dẫn học sinh cách làm việc
hiệu quả là một nhiệm vụ bắt buộc. Khi các học sinh được trang bị kỹ năng hợp
tác một cách bài bản, các em sẽ phát huy được hết khả năng của bản thân và
thành công trong tương lai. Mỗi giáo viên cần tự tìm tịi và ln tạo điều kiện tốt
nhất để học sinh phát triển kỹ năng này. Và chính khi được là việc, được hợp tác
cùng nhau, được thầy cơ tin tưởng, học sinh sẽ có thêm hứng thú, động lực đến
trường và tìm thấy niềm vui trong học tập.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến.
Sau khi thực hiện đề tài “Tạo tâm thế “mỗi ngày đến trường là một ngày
vui” cho học sinh lớp 11A5 – Trường THPT Lam Kinh” tôi thấy hiệu quả học
tập ở học sinh được nâng cao rõ rệt. Các em đến trường với tâm lý vui vẻ, háo
hức và sẵn sàng làm việc. Không cịn khơng khí căng thẳng, tẻ nhạt thường thấy
ở các giờ sinh hoạt tập thể, các giờ học văn hóa, các em rất hào hứng, sôi nổi
tham gia các cuộc chơi kiến thức. . Hiện tượng nghỉ học vô lý do, trốn tiết, bỏ
học cũng khơng cịn nữa.
Chất lượng học tập vì thế cũng tăng lên. Quan trọng hơn là qua giờ dạy
áp dụng phương pháp mới, các em cảm thấy hứng thú, làm việc hiệu quả, có
niềm vui đến trường, từ đó thêm u q, tự hào về ngơi trường của mình để có

tâm thế học tập tốt nhất.
Nhìn vào bảng thống kê kết quả học tập của các lớp 10A5 năm học 2017
- 2018 và hai lớp 11A5, năm học 2018 – 2019 (Sau khi áp dụng SKKN), ta sẽ
thấy rõ điều này.

skkn


- Về hứng thú đối với việc đến trường.
Lớp

Sĩ số

Hứng thú

Không
hứng thú

11A5

46

38 – 82,6%

07 – 15,21%

- Với câu hỏi: Mục đích học tập của em là gì?
Lớp

Sĩ số


11A5

46

Học để tiếp Học để làm Học vì tương Vì lý do chưa
thu kiến thức vui lòng cha lai
xác định
mẹ
04 – 8,69%
02 – 4,34%
40 – 86,95% 0

- Về chất lượng học tập cuối năm:
Lớp
11A5

Sĩ số
46

Giỏi
07 – 15,21 %

Khá
27 – 58,69%

T. Bình
12 – 26,08%

Yếu

0 – 15,6%

Kết quả trên cho thấy, học sinh lớp 10A5, sau khi áp dụng SKKN này, có
tâm thế và chất lượng học tập tốt hơn.
3.
KẾT LUẬN:
3.1 Kết luận
Tạo tâm thế thoải mái cho học sinh đến trường là một việc làm cần thiết
để góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục trong thời đại mới. Cũng cần nhớ rằng,
công việc này, không phải của riêng ai, không phải chỉ làm trong ngày một ngày
hai mà đó thực sự là nhiệm vụ chung của mỗi thầy cơ giáo có lương tâm nghề
nghiệp. đó là hoạt động thường xun, có tính chất bền vững.
3.2 Kiến nghị
Để học sinh thực sự hứng thú khi đến lớp, ngoài sự nỗ lực của giáo viên
chủ nhiệm, các giáo viên bộ môn, thiết nghĩ rất cần có sự quan tâm chỉ đạo
mang tầm vóc chiến lược của Ban giám hiệu nhà trường, hội cha mẹ học sinh,
các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường. Cụ thể là: Nhà trường nên tạo
điều kiện học tập tốt nhất, trang bị cơ sở vật chất, thiết bị dạy học hiện đại để
phục vụ nhu cầu học tập của học sinh; Tăng cường các loại học bổng để khuyến
khích, động viên các em học tập; Thường xuyên tổ chức các hoạt đơng giao lưu,
các hoạt động ngoại khóa để học sinh có cơ hội hiểu biết, chia sẻ kinh nghiệm
và được làm việc; Khuyến khích giáo viên nâng cao trình độ chun mơn,
nghiệp vụ, đổi mới, sáng tạo các phương pháp dạy học hiện đại để thu hút học
sinh.

skkn


Trên đây là một số bài học kinh nghiệm của bản thân tôi rút ra từ công tác
chủ nhiệm. Giống như một bài tập lớn, chắc chắn còn nhiều thiếu sót, rất mong

được đồng nghiệp góp ý.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của nhà trường

Thọ Xuân ngày 20/05/2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do
mình viêt, khơng sao chép nội dung của
người khác.

Nguyễn Thị Thảo

skkn


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1]. Tạp chí triết học số 4 - Tháng 4 – 2009 – Trang 1.
[2]. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh trung học – bài giảng chương IV –
Kho tài liệu. Vn - 2011.
[3]. Tạp chí Nghiên cứu giáo dục – Tháng 1/1995 – Trang 1.

skkn



×