Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.91 KB, 14 trang )

Tư tưởng Hồ Chí Minh
Câu 1: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của dân, do
dân, vì dân? Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền hiện nay ở Việt Nam?
Câu 2: Phân tích nội dung tư tưởng Nhân văn Hồ Chí Minh? Em hãy làm
rõ sự vận dụng tư tưởng Nhân văn Hồ Chí Minh trong việc phát triển
nguồn nhân lực, lấy con người là trung tâm của Đảng và Nhà nước Việt
Nam hiện nay?
Bài làm:
Câu 1:
* Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân:
1. Xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
Hồ Chí Minh có quan điểm nhất quán về xây dựng một nhà nước mới ở Việt Nam
đó là một Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Quan điểm này xuyên suốt, có tính
chi phối tồn bộ q trình hình thành và phát triển của Nhà nước Việt Nam
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh một nhà nước dân chủ được thể hiện:
a) Nhà nước của nhân dân
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, nhà nước của nhân dân là nhà nước mà tất cả
mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Nhà nước của
dân tức là “dân là chủ”. Nguyên lý “dân là chủ” khẳng định địa vị chủ thể tối cao của
mọi quyền lực là nhân dân
Trong nhà nước dân chủ, nhân dân thực thi quyền lực thơng qua hai hình thức dân
chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Theo đó, trong hình thức dân chủ gián tiếp:
- Quyền lực nhà nước là “thừa ủy quyền” của nhân dân tự bản thân nhà nước khơng có
quyền lực. Quyền lực của nhà nước là do nhân dân ủy thác. Do vậy các cơ quan quyền
lực nhà nước cùng với đội ngũ cán bộ đều là “công bộc” của nhân dân, nghĩa là “gánh
vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân”. Ở đây, Hồ Chí Minh đã xác
1


định rõ vị thế và mối quan hệ giữa nhân dân với cán bộ nhà nước trên cơ sở nhân dân


là chủ thể nắm mọi quyền lực.
- Nhân dân có quyền kiểm sốt, phê bình nhà nước, có quyền bãi miễn những đại biểu
mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết chế quyền lực mà họ đã lập
nên. Đây là quan điểm rõ ràng, kiêm quyết của Hồ Chí Minh nhằm đảm bảo cho mọi
quyền lực, trong đó có quyền lực nhà nước, ln nằm trong tay dân chúng. Cử tri bầu
ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại diện đó bàn và quyết định những vẫn đề quốc kế
dân sinh, đây thuộc chế độ dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp.
- Luật pháp dân chủ và là cơng cụ quyền lực của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, sự
khác biệt căn bản của luật pháp trong Nhà nước Việt Nam mới với luật pháp của chế
độ tư sản, phong kiến là ở chỗ nó phản ánh được ý nguyện và bảo vệ quyền lợi của dân
chúng. Luật pháp đó là của nhân dân, là cơng cụ thực thi quyền lực của nhân dân, là
phương tiện để kiếm soát quyền lực nhà nước.
b) Nhà nước do nhân dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước do nhân dân trước hết là nhà nước do nhân
dân lập nên sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Nhân dân “cử ra”, “tổ chức nên” nhà nước dựa trên nền tảng pháp lý của
một chế độ dân chủ và theo các trình tự dân chủ với các quyền bầu cử, phúc quyết
Nhà nước do nhân dân cịn có nghĩa “dân làm chủ”. Người khẳng định rõ: “Nước ta
là nước dân chủ, nghĩa nước nhà do nhân dân làm chủ”. Nếu “dân là chủ xác định vị
thế của nhân dân đối với quyền lực nhà nước, thì “dân làm chủ” nhấn mạnh quyền lợi
và nghĩa vụ của nhân dân với tư cách là người chủ. Nhân dân làm chủ thì phải tuân
theo pháp luật của Nhà nước, xây dựng lợi ích chung, bảo vệ Tổ quốc
Không chỉ tuyên bố quyền làm chủ của nhân dân, cũng không chỉ đưa nhân dân
tham gia công việc nhà nước, mà còn chuẩn bị và động viên nhân dân chuẩn bị tốt
năng lực làm chủ, quan điểm đó thể hiện tư tưởng dân chủ triệt để của Hồ Chí Minh
khi nói về nhà nước do nhân dân.
2


Nhà nước do dân là nhà nước do dân lựa chọn bầu ra những đại biểu của mình, do

dân ủng hộ giúp đỡ, do dân đóng thuế để xây dựng nhà nước, do dân phê bình xây
dựng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người làm
cách mạng đó là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách
nhiệm làm chủ, nâng cao ý thức trách nhiệm xây dựng nhà nước của mình.
c) Nhà nước vì nhân dân
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, khơng
có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Hồ Chí Minh là một vị
Chủ tịch vì dân và Người yêu cầu các cơ quan nhà nước, các cán bộ nhà nước đều phải
vì nhân dân phục vụ. Theo Hồ Chí Minh, thước do một Nhà nước vì dân là phải được
lòng dân. Đồng thời chỉ rõ: “muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải
yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí cơng vơ
tư”. Trong Nhà nước vì dân, cán bộ vừa là đây tớ, nhưng đồng thời phải vừa là người
lãnh đạo nhân dân. Hai đòi hỏi này tưởng chừng như mâu thuẫn, nhưng đó là những
phẩm chất cần có ở người cán bộ nhà nước vì dân.
2. Quan điểm về sự thống nhất giữa bản chất giai cấp cơng nhân với tính nhân dân và
tính dân tộc của Nhà nước
a) Nhà nước là thành tố cơ bản nhất của hệ thống chính trị, ln mang bản chất giai
cấp
Khi nói Nhà nước mới của nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân, khơng có
nghĩa đó là nhà nước phi giai cấp hay trên giai cấp, mà nhà nước ta là nhà nước dân
chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Bản chất nhà nước thể hiện: Nhà nước do Đảng Cộng Sản lãnh đạo. Đảng lãnh đạo
thông qua các chủ trương, đường lối để Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, chính
sách, kế hoạch; thơng qua tổ chức của mình trong Quốc hội, Chính phủ, các nghành,
các cấp của nhà nước và Đảng cũng lãnh đạo nhà nước bằng công tác kiểm tra. Đảng
không bao biện, không làm thay nhà nước. Nhà nước ta được xây dựng trên nền tảng
3


liên minh công, nông và giai cấp công nhân là người lãnh đạo đại diện là Đảng cộng

sản, vì vậy mọi hoạt động mang tính tập trung dân chủ, theo định hướng của Đảng.
b) Sự thống nhất giữa tính nhân dân, tính dân tộc
Nhà nước ta mang bản chất giai cấp cơng nhân nhưng khơng làm triệt tiêu tính nhân
dân, tính dân tộc mà trái lại nó thống nhất, hài hịa trong nhà nước đại đồn kết dân
tộc. Nhà nước mang bản chất giai cấp cơng nhân, vừa mang tính nhân dân, tính dân tộc
vì nó bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm nền tảng
3. Quan điểm về nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lí mạnh mẽ
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh mẽ là một
nhà nước hợp hiến. Chính vì vậy ngay sau khi đất nước giành được độc lập, Người đã
đề ra nhiệm vụ: “Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”. Theo tư tưởng của Hồ Chí
Minh, dân chủ và pháp luật luôn đi đôi với nhau, điều này được thể hiện: Thứ nhất, vai
trò của pháp luật đối với việc quản lí nhà nước và xã hội. Thứ hai, trong các bản Hiến
Pháp năm 1946, năm 1959 và các đạo luật, sắc lệnh khác đã thể hiện vai trò của Người
trong việc thực hiện lập hiến và lập pháp. Thứ ba, đó là việc chăm lo hồn thiện Hiến
pháp và hệ thống pháp luật. Thứ tư, đó là mối quan hệ của dân chủ và pháp luật. Mọi
quyền dân chủ của của nhân dân phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật,
ngược lại hệ thống pháp luật phải bảo đảm cho các quyền tự do, dân chủ của nhân dân.
4. Quan điểm về xậy dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả
a) Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức
Xây dựng nhà nước cần nhấn mạnh vai trò của pháp luật. Tuy nhiên, khơng thể đề
cao vai trị của pháp luật mà bỏ qua sự hỗ trợ của các yếu tố khác, trong đó có việc
giáo dục đạo đức. Đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức xã hội, thuộc hai lĩnh
vực khác nhau, nhưng lại kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau trong thực tế trị nước.
Người chú trọng giáo dục đạo đức và khơng ngừng nâng cao vai trị sức mạnh của
pháp luật, bởi sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật là cần thiết. Trong quan hệ giữa
pháp luật và đạo đức, pháp luật bao giờ cũng là một biện pháp để khẳng định chuẩn
4


mực đạo đức nào đó để biến nó thành thói quen, nếu chuẩn mực đạo đức càng khó thì

vai trị của pháp luật càng quan trọng. Việc thi hành pháp luật khó nhất là bảo đảm tính
vơ tư, khách quan, cơng bằng, bình đẳng đối với mọi cơng dân điều này địi hỏi người
hành pháp phải có đạo đức cao, có tính trách nhiệm cao.
b) Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức đủ đức, đủ tài
Hồ Chí Minh ln ln đề cao vị trí, vai trị của đội ngũ cán bộ, cơng chức.Người
coi cán bộ nói chung “là cái gốc của mọi công việc”, muốn việc thành công hay thất
bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Chính vì vậy mà Người đặt ra yêu cầu về việc xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức: Một là, tuyệt đối trung thành với cách mạng. Hai là,
hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ. Ba là, phải có mối liên hệ
mật thiết với nhân dân. Bốn là, cán bộ, công chức phải là người dám phụ trách, dám
quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là trong những tình huống khó khăn, “thắng
khơng kiêu, bại khơng nản”. Năm là, phải thường xuyên tự phê bình và phê bình, ln
ln có ý thức và hành động vì sự lớn mạnh, trong sạch của Nhà nước.
c) Kiên quyết chống ba thứ giặc nội xâm là tham ơ, lãng phí, quan liêu
Sức mạnh và hiệu quả của việc quản lý của Nhà nước là dựa vào tính nghiêm minh
của việc thi hành pháp luật và sự gương mẫu, trong sạch về đạo đức của người cầm
quyền. Vì vậy yêu cầu cấp bách đối với người cán bộ phải thực hành chữ liêm, để làm
mẫu cho dân. Nếu cán bộ bị thoái hóa, biến chất thì nhà nước đó sẽ trượt ra khỏi quỹ
đạo dân chủ nhân dân, trở thành thế lực đối lập với nhân dân. Ngay từ khi mới thành
lập Nhà nước Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ cần kiên quyết chống ba thứ giặc nội
xâm này nếu khơng sẽ dẫn đến hậu quả khó lường.
* Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền hiện nay ở Việt Nam:
Phải xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh. Cần đẩy mạnh việc hoàn
thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả
của Nhà nước; bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là
5


công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất

nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.
Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con
người, quyền và nghĩa vụ của công dân.
Phải xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ
chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn
quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền. Đồng thời, quy định rõ hơn cơ chế phối hợp
trong việc thực hiện và kiểm sốt các quyền ở các cấp chính quyền. Tiếp tục phân định
rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương
và của mỗi cấp chính quyền địa phương.
Chú trọng cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Đảng phải tập trung lãnh
đạo về đường lối, chủ trương, xây dựng tiêu chi, tiêu chuẩn, cơ chế, chính sách về cán
bộ, cơng chức. Đẩy mạnh dân chủ hóa cơng tác cán bộ, quy định rõ trách nhiệm của
mỗi tổ chức, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ chun mơn phù hợp để thực
thi đầy đủ trách nhiệm, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Thực hiện thí điểm dân
trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện; mở rộng đối tượng thi tuyển
chức danh cán bộ quản lý. Hoàn thiện tiêu chỉ đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát,
việc thực thi cơng vụ. Rà sốt, sửa đổi, bổ sung chính sách đối với cán bộ, cơng chức
theo hướng khuyến khích nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ, đạo đức cơng vụ;
lấy bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, hiệu quả thực thi nhiệm vụ để đánh giá, bổ
nhiệm cán bộ. Xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ, thu hút, trọng dụng nhân tài.
Đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu,
hách dịch; thực hành tiết kiệm trong các cơ quan nhà nước và trong đội ngũ cán bộ,
công chức
Đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Tiếp tục nâng cao
hiệu quả thực hiện và đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
6


nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các chủ trương, chính sách lớn, lãnh đạo thể chế

hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật, lãnh
đạo xây dựng đội ngũ cản bộ, công chức đủ phẩm chất và năng lực, lãnh đạo tổ chức
thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật; chú trọng lãnh
đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và tư pháp; các tổ
chức của Đảng và đảng viên phải gương mẫu tuân thủ pháp luật. Bản chất, tính chất
của Nhà nước gắn liền với vai trò, trách nhiệm của Đảng cầm quyền, do đó, một tiền
để tất yếu được đặt ra là sự trong sạch, vững mạnh của Đảng là yếu tố quyết định cho
sự thành công của việc xây dựng Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Câu 2:
1. Phân tích nội dung tư tưởng Nhân văn Hồ Chí Minh:
* Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người và bản chất con người:
Hồ Chí Minh đề cập con người cụ thể, khơng có con người chung chung, trừu tượng
phi nguồn gốc lịch sử hay con người kiểu tôn giáo. Tùy theo từng thời điểm lịch sử cụ
thể gắn liền với từng thời kỳ cách mạng. Người dùng khái niệm này hay khái nệm
khác để chỉ “con người” và xem xét nó trong những bình diện, những chiều khác nhau.
Trong những năm 20 của thế kỷ XX, Người thường dùng các khái niệm “người bản
xứ”, “người bản xứ bị áp bức”, “người mất nước”. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945,
con người Việt Nam đã trở thành người tự do cùng với toàn thể nhân dân làm chủ đất
nước. Hồ Chí Minh dùng các khái niệm “đồng bào”, “nhân dân”, “quốc dân”, “dân” và
qua đó đặt con người trong quan hệ gắn bó với khối thống nhất của cộng đồng dân tộc
Trong thời kỳ cải cách ruộng đất và cải tạo xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh đã nói rõ
về con người trong các quan hệ giai cấp. Sau khi miền Bắc đã hồn thành cơng cuộc
cải cách và cải tạo thì Hồ Chí Minh dùng những khái niệm phù hợp với các quan hệ xã
hội mới như “lao động chân tay”, “lao động trí óc”, “cơng nhân”, “nơng dân tập thể”,
“người chủ tập thể”. Ngồi các quan hệ xã hội, Hồ Chí Minh cịn xem xét con người
theo giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp
7


Con người với những đặc điểm nói trên là cốt lõi của tư tưởng nhân văn Hồ Chí

Minh và thể hiện ở ba nội dung sau đây:
- Một là: Sự cảm nhận, cảm thông hết sức sâu sắc mọi niềm đau nỗi khổ của con người
nô lệ và con người cùng khổ
- Hai là: Quyết tâm hy sinh chiến đấu để giải phóng con người và đem lại tự do hạnh
phúc cho con người.
- Ba là: Tin tưởng tuyệt đối ở khả năng tự giải phóng của con người và khơng ngừng
rèn luyện, phát huy khả năng ấy.
* Tình u thương vô hạn đối với con người, trước hết là những người lao động nghèo
khổ:
Yêu thương con người của Hồ Chí Minh thể hiện ở sự cảm thơng với tình cảnh và
hoàn cảnh sống của những người lao động trong nước và trên thế giới. Nhiều năm
cùng chung sống với nhân dân lao động ở các nước trên thế giới, Hồ Chí Minh rất đau
lịng khi chứng kiến những hành động bóc lột, giết hại của chủ nghĩa thực dân đối với
nhân dân lao động, Người xót xa trước cảnh lao động cùng cực của những công nhân
Việt Nam dưới ách bóc lột của giai cấp tư sản
Yêu thương con người của Hồ Chí Minh khơng có sự phân biệt quốc tịch, châu lục,
màu da. Cho dù nhân dân lao động là người da đen, da trắng, hay da vàng thì Người
vẫn dành tình cảm sâu nặng. Bởi theo Người họ là những người bạn ''cùng khổ'', đều là
''anh em''.
Tình u thương con người của Hồ Chí Minh khơng phải là lịng thương hại của ''bề
trên'' nhìn xuống. Cũng khơng phải là sự động lòng trắc ẩn của người ''đứng ngồi''
trơng vào, mà là sự đồng cảm của những người cùng cảnh ngộ, đã từng trải qua và
chứng kiến biết bao cảnh đau thương, ngang trái, bất công.
Trong tư tưởng nhân văn, Hồ Chí Minh ln có thái độ đúng đắn với các hạng
người. Với kẻ thù thì Người dùng từ ''kẻ, lũ, tên'' để ám chỉ, và lên án vạch trần tội ác
của chúng. Còn đối với nhân dân lao động thì Người gọi họ bằng tình cảm yêu thương
8


quý trọng, luôn bênh vực và đấu tranh cho quyền lợi của họ.

Yêu thương con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh khơng phải chung chung, trừu
tượng, mà thể hiện bằng hành động cách mạng. Theo Người đó mới là nghĩa khí cao
đẹp nhất. Yêu thương con người phải bằng sự đồn kết gắn bó giúp đỡ lẫn nhau, đó là
biểu hiện cao đẹp của tình yêu thương con người, và cũng là điểm mấu chốt trong sự
nghiệp giải phóng con người.
* Có niềm tin sâu sắc và tấm lịng khoan dung rộng lớn trước tính đa dạng của con
người:
Tin vào con người là một trong những phẩm chất tốt đẹp trong tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh. Niềm tin con người ở Hồ Chí Minh thể hiện trước hết ở việc tin tưởng
vào ý chí và nghị lực phi thường của con người, tin vào vai trò to lớn của nhân dân lao
động trong đấu tranh cách mạng. Đầu những năm 40 thế kỷ XX, Hồ Chí Minh bị bọn
Tưởng Giới Thạch bắt giam, mặc dù phải sống trong nhà tù, nhưng Người vẫn ln có
niềm tin mạnh liệt vào khả năng cách mạng của nhân dân, tin tưởng vào sức mạnh to
lớn của khối đại đoàn kết toàn dân, tin vào thắng lợi tất yếu của cách mạng Việt Nam
như một lẽ tự nhiên, hợp quy luật phát triển của lịch sử.
Niềm tin vào con người còn thể hiện ở sự tin tưởng vào khả năng sáng tạo của con
người, của quần chúng nhân dân lao động trong kháng chiến và trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc. Hồ Chí Minh vẫn ln đặt niềm tin vào khả năng sáng tạo
của nhân dân, luôn dựa chắc vào nhân dân, học tập những sáng kiến, kinh nghiệm hay
trong nhân dân, khai thác và phát huy tối đa mọi năng lực tiềm ẩn trong nhân dân.
Niềm tin con người của Bác cịn thể hiện ở chỗ người ln tin vào khả năng hướng
thiện của con người. Theo Hồ Chí Minh ''mỗi con người đều có phần thiện và phần ác
trong lòng'', cho nên những người cách mạng phải có trách nhiệm giáo dục, giúp đỡ
họ, làm cho phần thiện, phần tốt ở mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, để đẩy lùi
phần ác, phần xấu
Niềm tin ấy còn thể hiện ở việc đề cao những phẩm giá tốt đẹp của con người, đó là
9


những phẩm chất đạo đức: cần kiệm, liêm, chính, trung, hiếu, tín, nghĩa, đó là giá trị tự

do cho mỗi người và mọi người
Bao dung, độ lượng cũng là nét văn hoá cao đẹp trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh. Trong các quan hệ xã hội, Người ln có cách nhìn đa diện, đa dạng. Hồ Chí
Minh quan niệm rằng mỗi cộng đồng, mỗi con người đều có ưu điểm khuyết điểm, có
mặt tốt, mặt xấu, có mặt được, có mặt chưa được hết sức phong phú. Từ quan niệm đó,
Người yêu cầu cán bộ, đảng viên khi xử lý các quan hệ ấy phải trên nền nhân ái bao la
và bao dung cao cả. Với những người mắc phải khuyết điểm thì phải giúp đỡ họ trở
thành người tốt, với tù binh chiến tranh thì phải đối xử bằng tình người với tư tưởng
nhân đạo cộng sản. Nhân ái, bao dung độ lượng, luôn được Người đề cao trong thực
tiễn hoạt động cách mạng, và là nét đặc sắc trong tư tưởng nhân văn của Người.
Bao dung, độ lượng trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh khơng phải là sự dung
túng bao che cho những lỗi lầm khuyết điểm, mà là thể hiện đạo lý làm người của dân
tộc: Lấy nhân nghĩa làm đầu. Việc giải quyết các quan hệ xã hội ln được Hồ Chí
Minh thực hiện hài hoà giữa cái chung và cái riêng; giữa quyền lợi dân tộc và quyền
lợi giai cấp, bộ phận. Người ln lấy mục tiêu giải phóng và phát triển con người làm
cơ sở cho mọi ứng xử của mình trong hoạt động cách mạng.
* Có mục tiêu, phương hướng đúng đắn để giải phóng con người
Mục tiêu giải phóng con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là cứu nhân
dân lao động Việt Nam thoát khỏi ách áp bức, bóc lột dã man của chủ nghĩa thực dân
phong kiến, đem lại cho nhân dân Việt Nam cơm no, áo ấm, học hành, và những
quyền tự do dân chủ. Mục tiêu đó chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở dân tộc được
độc lập. Mục tiêu cuối cùng là giải phóng và phát triển mọi tiềm năng trí tuệ và thể
chất của con người dưới chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Mục tiêu, phương hướng giải phóng, phát triển con người nằm trong mục tiêu,
phương hướng chung của cách mạng Việt Nam. Thể hiện tập trung trong đường lối
cách mạng Việt Nam do Đảng được xác lập từ năm 1930 - đường lối độc lập dân tộc
10


gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong thực tiễn lãnh đạo Người đã cụ thể hố mục tiêu

giải phóng con người nằm trong mục tiêu chung của cách mạng
Nhìn chung, sự nghiệp giải phóng con người ln được Hồ Chí Minh xem xét, giải
quyết theo lập trường của giai cấp cơng nhân, phù hợp với tình hình cụ thể. Vì vậy tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là tư tưởng nhân văn chiến đấu của giai cấp công nhân,
hướng quần chúng nhân dân lao động vào cuộc đấu tranh để biến những quan niệm, lý
tưởng tốt đẹp, khát vọng và ước mơ giải phóng nghìn đời thành hiện thực. Tư tưởng đó
thấm đượm trong từng hành động và suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
2. Vận dụng tư tưởng Nhân văn Hồ Chí Minh trong việc phát triển nguồn nhân
lực, lấy con người là trung tâm của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần quý báu của dân tộc ta, có ý
nghĩa chiến lược quan trọng, định hướng cho sự nghiệp xây dựng, phát triển con người
Việt Nam hôm nay và mai sau. Vận dụng đúng đắn, sáng tạo tư tưởng của Người,
trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Đảng đã khẳng định
nguồn lực con người là quý báu nhất, con người là trung tâm trong quả trình phát triển
xã hội; lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững; nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người là
nhân tố quyết định thành công. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc xây
dựng, phát triển con người Việt Nam về mọi mặt.
Từ Đại hội VI, cùng với cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, Đảng đã từng bước
nhận thức đúng đắn về vai trò của nhân tố con người, coi con người là trung tâm trong
quá trình phát triển xã hội. Đường lối, chính sách của Đảng đã khẳng định nguồn lực
con người là quý báu nhất, là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Tại
Hội nghị BCH Trung ương khóa VII, trong đường lối lãnh đạo, Đảng xác định:
“Chúng ta cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con
người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn
11


minh quốc gia”. Trên cơ sở những nhận thức mới ấy, Đảng và Nhà nước ta đã có

những thay đổi mạnh mẽ, đã đề ra nhiều chính sách đúng đắn về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội ở tầm vĩ mô, tạo điều kiện cho việc phát huy nhân tố con người trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chiến lược ổn định và phát triển kinh
tế-xã hội (1991-2000), Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội (2001-2010) và (20112020) của Đảng đã đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển xã hội.
Trên nền tảng tư tưởng Hồ Chi Minh, trong đường lối phát triển nguồn nhân lực, tại
Hội nghị lần thứ hai BCH Trung ương khóa VIII, Đảng đã xác định điều kiện để
nguồn lực con người đạt tới các tiêu chí phát triển xã hội khi: “người lao động có trí
tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát
huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học, công nghệ hiện đại”.
Xác định giáo dục và đào tạo có vai trị to lớn trong xây dựng và phát triển nguồn lực
con người Việt Nam, từ Đại hội VIII (1996) đến nay. Đảng và Nhà nước ta chủ trương
phát huy nhân tố con người và phát triển nguồn nhân lực gắn với phát triển giáo dục và
đảo tạo, khoa học và cơng nghệ; coi đó là “quốc sách hàng đầu" nhằm đào tạo ra
những thế hệ con người có tri thức khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ,
sáng tạo, có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu nước, yêu Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm 2001) đã tiếp tục chủ trương: “Phát triển
giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản
để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững". Đến Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X (năm 2006) tiếp tục khẳng định vai trò của giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ đối với sự nghiệp xây dựng con người mới, khẳng định quyết tâm
của toàn Đảng, toàn dân ta là: “Phấn đấu để giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu, thơng qua việc đổi mới tồn diện giáo dục và đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao" đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước
trong thời kỳ mới.
12


Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác cải cách giáo dục trong nhiều năm qua đã và
đang đạt được những bước tiến quan trọng, tạo ra sự chuyển biển tích cực trong đời

sống xã hội.
Sự nghiệp đổi mới tồn diện đất nước hiện nay đang đặt ra những yêu cầu mới cho
nguồn lực con người. Trên cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đường lối
lãnh đạo tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng xác định: “Con người là trung
tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển". Bên cạnh đó Nghị quyết
Đại hội XI khẳng định: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao và coi đây là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển
nhanh, bền vững đất nước”.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 của Đảng xác định một trong ba
khâu đột phá chiến lược là “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc
dân, gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ" Chiến lược nhấn mạnh, phải đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ
lãnh đạo quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, đội ngũ lao động
lành nghề và cán bộ khoa học, cơng nghệ đầu đàn. Thực hiện các chương trình, đề án
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, các lĩnh vực chủ yếu.
Để thực hiện chủ trương trên, Đảng đã xác định nhiều giải pháp nhằm phát triển
giáo dục Việt Nam trong thời kỳ mới. Trong đó, các giải pháp đột phá cần thực hiện là
đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục cho phù hợp với nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, hiện
đại và liên thông; xây dựng, phát triển nhanh đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo
dục giỏi; tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp dạy học.
Tại Đại hội XIII, Đảng tiếp tục nhấn mạnh về phát triển nguồn nhân lực một cách
tồn diện hơn, đầy đủ hơn và chính xác hơn. Báo cáo Chính trị Đại hội XIII bổ sung
ưu tiên “Phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then
13


chốt trên cơ sở chú trọng nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản
về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài,

đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học – công nghệ, đổi
mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy
giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đồn kết, tự hào dân tộc trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

14



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×