Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

báo cáo tốt nghiệp hệ thống xử lí nước thải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.14 KB, 22 trang )




Báo cáo tốt nghiệp
Hệ thống xử lí nước thải


1
MỤC LỤC
1
1
2
LỜI MỞ ĐẦU
Nước là một tài nguyên quí của con người. Mọi hoạt động sản xuất sinh hoạt đều cần
dùng nước. Chính vì vậy mà hàng ngày có một lượng lớn nước được tiêu thụ và đồng thời
cũng ngần ấy lượng nước thải được thải ra môi trường. Hà Nội là một trong những thành
phố lớn nhất của Việt Nam. Lượng nước thải của thành phố thải ra hàng ngày là rất lớn và
chủ yếu tập trung vào ba nguồn lớn là: nước thải sinh hoạt, từ sản xuất và từ bệnh viện.
Tuy nhiên , hệ thống sử lí nước thải của thành phố lại chưa có, còn của các doanh nghiệp
thì lại chỉ có một số ít doanh nghiệp có hệ thống sử lí ,còn lai hầu như là thải trực tiếp ra
môi trường từ đó gây ra ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng tới sức khoẻ đời
sống của nhân dân, ảnh hưởng tới sản xuất cũng như gây mất mĩ quan đô thi.
Ở Hà Nội hiện nay, khi mà hệ thống thoát nước của thành phố chưa đáp ứng với mức
phát triển hiện nay của thành phố, cũng như quy mô dân số và các cơ sở sản xuất ở trong
thành phố. Do vậy việc thoát nước chủ yếu thông qua việc thải ra các con sông đào hay các
cống trong thành phố. Sông Tô lịch là con sông lớn nhất trong bốn con sông chảy trong
thành phố có nhiệm vụ tiêu thoát nước trong thành phố là sông Sét, Lừ, Kim Ngưu và Tô
Lịch. Nó là con sông ô nhiễm nhất và cũng là con sông có nhiều vấn đề liên quan đến môi
trường do số lượng dân cư sống hai bên bờ sông là khá đông đúc.
Sông tô Lịch hiện nay đang là con sông mà hệ thống nước mặt đang bị ô nhiễm
nghiêm trọng nhất ở Hà Nội hiện nay. Nhà Nước và thành phố hiện nay cũng đang thực


hiện nhiều biện pháp nhằm cải tạo môi trường sông và nước thải của thành phố vào con
sông này, mà đây lại là loại hình không có thu để tự trang trải.
Theo nghi Định 67/2003NĐ-CP của chính phủ từ 1/1/2004 trở đi bắt đầu thực hiện thu
phí nước thải. Xuất phát từ thục tế môi trường sông Tô Lịch và mục đích của việc thu phí
là: nhằm nâng cao nhận thức của các tổ chức và nhân dân, tăng cường kiểm soát ô nhiễm,
góp phần đảm bảo sự phát triển bền vững, làm trong sạch môi trường.
Chế độ thu phí sẽ hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp áp dụng các biện pháp
phòng ngừa ô nhiễm, sản xuất sạch hơn bằng công nghệ tiên tiến, nhằm giảm thiểu lượng ô
nhiễm môi trường, nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm. Việc thu phí còn
giúp phục vụ cho công tác quản lí môi trường và cải thiện môi trường.
Với những mục đích đó, em muốn tìm hiểu xem thực tế với viêc thu phí nước thải
hiện nay có thực hiện được những mục đích đã nêu ở trên hay không. Mà cụ thể ở đây là
việc cải thiện môi trường tại sông Tô Lịch, nâng cao thể ở đây là chất lượng nước có được
cải thiện hay không và qua đó hiểu thêm những kiến thức đã được học tại trường kết hợp
3
với thục tế đang diễn ra. Từ đó cái cái nhìn toàn diện, cách đánh giá các vấn đề môi trường,
nâng cao nhận thức và hiểu biết.
Em xin cám ơn thầy giáo Lê Trọng Hoa và thầy Nguyễn Thế Chinh đã giúp em hoàn
thành đề án này

4
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
I: Khái niệm
1: Thuế pigou
Pigou là người đầu tiên có sáng kiến áp dụng cách tiếp cận kinh tế và việc giải quyết
ngoại ứng do ô nhiễm môi trường. ông đã đưa ra ý tưởng về việc đánh thuế với những
người gây ô nhiễm. Đây là loại thuế thay vì đánh vào đầu ra sản phẩm, người ta đánh cho
mỗi đơn vị phát thải ô nhiễm đầu vào.
2:Phí
Một dạng của thuế pigou, là loại phí đánh vào lượng chất thải thực tế người sản

xuất. để xác định mức phí người ta căn cứ vào chi phí cần thiết để làm giảm một đơn vị ô
nhiễm.
Pháp lệnh về phí và lệ phí của Uỷ Ban thường Vụ Quốc hội khoá 10 (số 38/2001 PL-
UBTVQH 10 ngay 28/8/20001 ) qui định: “phí là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải trả
khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ được qui định trong danh mục phí”.
Danh mục phí thuộc lĩnh vực môi trường được qui định tại mục A . Khoản 10 pháp
lệnh gồm 11 khoản trong đó các loại phí liên quan tới môi trường như sau:
- Phí bảo vệ môi trường
- Phí thẩm định báo cáo tác động môi trường
- Phí vệ sinh.
- Phí phòng chống thiên tai.
- Phí sử dụng an toàn bức xạ.
- Phí thẩm định an toàn bức .
Riêng phí bảo vệ môi trường được tại nghị định số 57/2002NĐ-CP ngày 3/6/2002
của chính phủ qui định chi tiết thi hành pháp lệnh phí và lệ phí qui định thành 6 loại như
sau.
- Phí bảo vệ môi trường đối với nước thải.
- Phí bảo vệ môi trường đối với xăng dầu, khí thải từ việc sử dụng than đá và các
nguyên liệu khác.
- Phí bảo vệ môi trường với chất thải rắn.
- Phí bảo vệ môi trường tiếng ồn.
- Phí bảo vệ môi trường đối với sân bay, nhà ga bến cảng, phí bảo vệ môi trường với
viêc khai thác dầu mỏ, khí đốt và khoảng sản khác.
Như vậy phí bảo vệ môi trường nói chung và phí nước thải nói riêng có thể được
hiểu là một khoản nghĩa vụ tài chính mà các tổ chức, cá nhân phải trả khi được hưởng một
5
dịch vụ về môi trường. Có thể nói đây là một công cụ quản lí cần thiết cho các nhà hoạch
định chính sách cũng như các nhà quản lí nhằm đạt được các mục tiêu môi trường. Và đây
cũng là nghĩa vụ của các doanh nghiệp, các tổ chức và là một nhu cầu tất yếu của xã hội
nhằm đảm bảo vệ môi trường.

II. Việc cần thiêt sử dụng phí nước thải.
Việc sử dụng phí nước thải là cần thiết và phù hợp với thực tế chung của thế giới
cũng như tình hình phát triển kinh tế của nước ta trong những năm trở lại đây. Xuất phát từ
thực tê cuộc sống của con người gắn liền với môi trường tự nhiên mà trong quá trình phát
triển kinh tế hiện nay đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ảnh hưởng tới những
khu vực có người dân sống quanh khu vực ô nhiễm.
Kinh ngiệm thực tế của của các nước trên thế giới cho thấy việc nhà nước dùng các
công cụ kinh tế mà cụ thể ở đây là phí nuớc thải là một biện pháp hữu hiệu trong việc bảo
vệ môi trường. Những nước này thu được nhiều thành công cải thiện môi trường hiện tại,
bảo vệ môi trường hiện có.
Trung Quốc là một quốc gia nước đang phát triển, có xuất phát điểm về kinh tế
giống với Việt Nam, nhưng họ đã có một hệ thống phí phạt do vi phạm tiêu chuẩn môi
trường. Hệ thống này bao gồm hơn 100 mức phí đánh vào các nguồn gây ô nhiễm môi
trường với nước thải, khí thải, phế thải, tiếng ồn và các loại khác. Lệ phí từ ô nhiễm nước
chiếm 70% tổng lệ phí thu được. Lệ phí nay được tính từ năm 1979 bằng việc thử nghiệm
ở thành phố Suzhan. Kết quả là đã làm giảm tới 60,4% tổng lượng chất gây ô nhiễm thải ra
trong giai đoạn 1979-1986. Lệ phí được qui định theo nguyên tắc sau:
+ Lệ phí cao hơn một chút so với chi phí vận hành thiết bị
+ Lệ phí thay đổi theo số lượng, nồng độ và loai chất gây ô nhiễm được thải ra
+ Lệ phí ô nhiễm áp dụng cho việc xả thải nước thải công nghiệp đối với chất
gây ô nhiễm nhất định nào đó được tính bằng cách nhân với lượng nồng độ chất gây ô
nhiễm vượt quá tiêu chuẩn.
Malaysia một nước trong khu vực, vào giữa những năm 1979, chính phủ Malaysia
đã tiến hành áp dụng hệ thu phí đối với ngành chế biến dầu cọ thô, chế biến cao su tự nhiên
và các hoạt động khai hoang. Hệ thống này được thiết lập trên cơ sở các tiêu chuẩn về
nồng độ cho phép trong nước thải cảu các chất gây ô nhiễm. Các lệ phí ấn định cho việc xả
thải các chất gây ô nhiễm ở dưới mức tiêu chuẩn. Vượt quá mức tiêu chuẩn phải bị sử phạt
mức nộp lệ phí.
Còn với các quốc gia phat triển OECD áp dụng phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm
nước, loại phí này được áp dụng riêng không liên quan gì đến hệ thống xử lí nước thải từ

6
các nhà máy xí nghiệp. ở hầu hết các nước OECD phí sử dụng hệ thống thoát nước thải là
công trình công cộng, chịu sự quản lí và giám sát của chính quyền địa phương. Do đó, các
hộ gia đình và cơ sở sản xuất thường phải trả lệ phí do sử dụng hệ thống công cộng này.
Từ kinh nghiệm, cũng như thực tế của các quốc gia đã làm trước chúng ta có thể thấy
rằng, phí bảo vệ ô nhiễm môi trường nói chung và phí nước thải nói riêng được áp dụng là
một thực tế khách quan và cũng là xu hướng chung và tất yếu của thế giới
Còn với nước ta phí bảo vệ môi trường có mục đích khuyến khích các nhà sản xuất,
kinh doanh đầu tư giảm thiểu ô nhiễm, thay đổi hành vi ô nhiễm theo hướng tích cực cho
môi trường, có lợi cho môi trường. Ngoài ra phí bảo vệ môi trường còn có mục đích khác
là tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước để đầu tư khắc phục và cai thiện môi
trường. Với mục đích này, phí bảo vệ môi trường là công cụ kinh tế được xây dựng trên
nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền đóng góp tài chính để khắc phục ô nhiễm môi
trường và cải thiện môi trường ” và ai hưởng lợi từ việc môi trường trong lành phải đóng
phí khắc phục ô nhiễm.
II.1. Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP).
Nguyên tắc này bắt nguồn từ sáng kiến do tổ chức hợp tác kinh tế và phat triển
(OECD) đề ra vào các năm 1972 và 1974. PPP qui định năm 1972 có quan điểm những tác
nhân gây ô nhiễm phải trả mọi chi phí cho hoạt động kiểm soát và phòng chống ô nhiễm.
PPP năm 1974 chủ trương rằng, các tác nhân gây ô nhiễm thi ngoài việc tuân thủ theo các
chỉ tiêu đối với việc gây ô nhiễm thì còn phải bồi thường thiệt hại cho những người bị thiệt
hại do ô nhiễm này gây ra. Nói tóm lại, theo nguyên tắc PPP thì người gây ô nhiễm phải
chịu mọi khoản chi phíđể thực hiện các biện pháp làm giảm ô nhiễm do chính quyền thục
hiện, nhằm đảm bảo môi trương ở mức chấp nhận được.
II.2. Nguyên tắc người hưởng lợi phải trả tiền(BPP)
Nguyên tắc BPP chủ trương rằng việc phòng ngừa ô nhiễm và cải thiện môi trường
cần được bảo trợ bởi những người muốn thay đổi hoặc những người không phải trả giá cho
việc gây ô nhiễm. Nguyên tắc BPP cũng tạo ra một khoản thu cho nhà nước, mức phí tính
theo đầu người càng cao và càng nhiều người nộp thì số tiền thu được càng nhiều. Số tiền
thu được từ BPP được thu theo nguyên tắc các cá nhân muốn bảo vệ môi trường và những

cá nhân không phải trả cho việc gây ô nhiễm nhưng khi môi trường được cải thiện họ là
những người được hưởng lợi cần đóng góp. Tuy nhiên số tiền này không trực tiếp do người
hưởng lợi tự giác trả mà phải một chính sách do nhà nước ban hành qua thuế hoặc phí buộc
những người hưởng lời phải đóng góp, nên ngưyên tắc BPP chỉ khuyến khích việc bảo vệ
môi trường một cách gián tiếp.
7
Đây là nguyên tắc có thể được sử dụng như một định hướng hỗ trợ nhằm đạt được
mục tieu môi trường, dù đó là bảo vệ hay phục hồi môi trường. Tuy nhiên hiệu quả môi
trường có thể đạt được hay không, trên thực tế phụ thuộc vào mức lệ phí, số người đóng
góp và khả năng sủ dụng tiền hợp lí.
8
III. Nguyên tắc xác định phí nước thải.
Theo nghị định 67/2003/NĐ-CP của chính phủ ban hành việc thu phí nước thải và
thông tư 125/2003/TTLT-BTC-BTNMT hướng dẫn thi hành nghị định 67. Nghị định 67
quy định về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải; chế độ thu, nộp, quản lí và sử dụng
phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. Còn thông tư 125 hướng dẫn thi hành nghị định
67. trong đó quy định rõ đối tượng phải chịu phí bảo vệ môi trường với nước thải và cách
tính phí.
Đối với nước thải công nghiệp cách tính phí được tính:
Số phí = tổng lượng nước thải * hàm lượng chất gây ô nhiễm trong nước
thải(mg/l)*10
-3
* mức thu đối với chât gây ô nhiễm ra MT(đồng/kg)
Đối với sinh hoạt:
Số phí = lượng nước sử dụng * giá bán(đồng/m
3
) * tỉ lệ thu phí(%)
Qua các văn bản pháp luật có thể thấy phí nước thải nước ta được tính dựa vào các
tiêu chí:
+ Tổng lượng thải

+ hàm lượng các chất gây ô nhiễm có trong nước tính bằng mg/l
+ Đặc tính các chất gây ô nhiễm. Mỗi chất gây ô nhiễm khác nhau có một mức thu
phí tối đa và tối thiểu khác nhau, tuỳ theo mức độ độc hại của mỗi loại chất và được quy
đinh tại nghị định 67. Các chất gây ô nhiễm chủ yếu được qui đinh trong luật là: BOD,
COD, TSS, Hg, Pb, As, Cd.
Stt
Chất gây ô nhiễm có trong nước thải
Mức thu
(đồng/kg chất gây ô nhiễm có trong
nước thải)
Tên hoá chất Kí hiệu Tối thiểu Tối đa
1 Nhu cầu ô xy sinh hoá A
BOD
100 300
2 Nhu cầu ô xy hoá học A
COD
100 300
3 Chất rắn lơ lửng A
TSS
200 400
4 Thuỷ ngân A
Hg
10.000.000 20.000.000
5 Chì A
Pb
300.000 500.000
6 Arsenic A
As
600.000 1.000.000
7 Cadmium A

Cd
600.000 1.000.000
Việc thực thi phí nước thải ở nhiều nước trên thế giới đã thu được nhiều thành tựu
đáng khích lệ. Do đó việc thực thi phí nước thải với nước ta cũng có nhiều ảnh hưởng tác
động đến môi trường nước mặt. Mà cụ thể ở đây là nước mặt và môi trường sông Tô Lịch.
Nó có thể giúp mọi người nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Nhà nước và địa phương có
thêm nguồn thu từ đó đầu tư trở lại vào môi trường nhằm bảo vệ môi trường. Kích thích
9
các doanh nghiệp đầu tư vào hệ thống sử lí nước thải hoặc đổi mới công nghệ nhằm làm
giảm lượng ô nhiễm, từ đó nâng cao chất lượng môi trường.
Hiện nay tổng lượng nươc thải sinh hoạt của khu vực nội thành Hà Nội khoảng
500.000m
3
/ngày đểm trong đó có khoảng 100.000m
3
ngày đêm là nước thải của các cơ sở
công nghiệp, dịch vụ, bệnh viên. toàn bộ lượng nước thải này được tiêu thoát chủ yếu qua
4 con sông chính cẩu thành phố là: sông Tô Lịch, sông Sét, sông Kim Ngưu và sông Lừ.
Nước thải sinh hoạt phần lớn qua sử lí sơ bộ tại các bể tự hoại trước khi thải vào tuyến
cống chung, kênh, mương, ao, hồ. Tuy nhiên các bể tự hoại này làm việc kém hiệu quả do
xây dựng không đúng quy cách, không hút phân cặn thường xuyên nên hàm lượng chất bẩn
trong nước cao, gây ảnh hưởng xấu trong chất lượng nước trong các kênh mương.
Sông Tô lịch là con sông lớn nhất trong bốn con sông tiêu thoát nước chính của
thành phố Hà Nội. Qua đánh giá thực tế ban đầu bằng việc quan sát trực tiếp sông, có thể
nói sông đang bị ô nhiễm nặng dù mùa khô hay mùa mưa. vào những ngày nóng bức mùi
từ sông bốc lên gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống, sức khoẻ, cũng như sản xuất của
ngưòi dân hai bên bờ sông. Không những thế nó còn gây mất mĩ quan đô thị làm giảm hình
ảnh thủ đô cũng như môi trường của thành phố.
Tuy nhiên với việc áp dụng phí nước thải với các cơ sở sản xuất và các hộ gia đình,
sẽ có những tác động tích cực tới môi trường. Phí nước thải có thể buộc các doanh nghiệp

phải làm giảm lượng gây ô nhiễm, từ đó nâng cao chất lượng môi trường. Với nguồn thu từ
phí nước thải, chinh phủ có thể đầu tư trở lại môi trường thực hiện các công việc khảo sát
đo đạc, lập báo cáo, thực hiện các công việc quản lí cũng như các công trình về môi
trường. Khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp cũng như xây dựng hệ
thống sử lí nước thải, đổi mới công nghệ.
Song vấn đề đặt trong giai đoạn đầu của chương trình thu phí ô nhiễm đối với nước
thải là có thể xác định phí nói trên với tất cả các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm ở Hà Nội hay
không?

10
PHẦN II. HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM
I. Khái quát chung
I.1. Đặc điểm tự nhiên của thành phố Hà Nội
Hà nội nằm ở 20 độ 57 phút vĩ bắc và 105 độ 35 phút – 106 độ 25 phút độ kinh
đông. Từ bắc xuống nam dài nhất khoảng 93 km, từ đông sang tây rộng nhất khoảng 30
km.
Hà Nội nằm trong vùng nhiệt đới gío mùa, độ ẩm trung bình trong năm là 81-82%
tháng cao nhất vào khoảng 85-86%. Nhiệt độ trung bình có chiều hướng tăng, năm 1985 là
23,5 độ C, từ năm 1990-1995 nhiệt độ trung binh là 24 độ C ( có năm lên tới 24,1 độ C )
hàng năm bình quân có từ 8-10 cơn bão và áp thấp nhiệt đới đi qua. Tổng lượng mưa trong
năm, theo thống kê thì trong những năm gần đây có nhiều biến động, tuy nhiên trung bình
hàng năm khoảng 1500 mm. Số ngày mưa từ 140-160 ngày trong năm.
Sông Tô Lịch thuộc nội thành Hà Nội, nó dài 13.5 km rộng từ 30-40m sâu khoảng từ
3-4 m. Đầu nguồn bắt đầu từ kênh đào cũ Thụy Khê thuộc khu vực Phan Đình Phùng. Nó
qua Từ Liêm và dịa hạt quận Thanh Trì rồi cùng ba con sông khác chảy đổ vào sông Nhuệ
qua Đầm Thanh Liệt. Sông được cải tạo bằng nguồn vốn vay ODA, hai bên bờ sông được
thành phố cải tạo có xây kè đá và các hệ thống thoát nước thải trực tiếp vào trong lòng
sông qua rất nhiều các ống cống lớn nhỏ của các hộ dân cư và các doanh nghiệp trên địa
bàn.
Tình trạng ô nhiễm do nước thải của thành Phố Hà Nội. Nước thải của thành phố Hà

Nội thải ra hệ thống thoát nước hàng ngày khoảng 500.00m
3
ngày/đêm trong đó có khoảng
100.000 m
3
ngày/đêm là nước thải công nghiệp, của các cơ sở dịch vụ và bệnh viện
Thực trạng ô nhiễm tại sông Tô Lịch
Sông Tô Lịch là con sông lớn nhất trong bốn con sông và cũng là con song bị ô
nhiễm nặng nhất, điều này được thể hiện thông qua nước thải đổ vào sông Tô Lịch mỗi
ngày là 242.506m
3
ngày/đêm. Trong đó nước thải công nghiệp của các nhà máy trên địa
bàn Hà Nội là 68.206m
3
ngày/đêm, ttổng lượng nước thải của khu cục công cộng và bệnh
viện là 43.300 m
3
ngày/dêm.
Do Hà Nội chưa có hệ thống xử lí nước thải, nên nước thải được đổ trực tiếp qua
các con sông và qua các hồ. Mặc dù hệ thống này có khả ngăng tự làm sạch rất lớn, nhưng
do mức độ ô nhiễm quá cao đẫn tới khả năng này hầu như không còn được phát huy được
nữa mà một phần do tốc độ đô thị hoá quá nhanh. Năm 1996 sông Tô Lịch tiếp nhận chỉ
khoảng 3000m
3
nước thải từ 30.000 hộ gia đình và 22000m
3
từ 33 nhà máy.
11
Nhìn vào bảng 1 về nồng độ một số chất ô nhiễm có trong nước thải
Bảng 1. Tình trạng ô nhiễm sông Tô Lịch

Các chỉ tiêu Vị trí Cầu Mới Vị trí Nghĩa đô
Ph 7.7-8.2 7.5
Chất rắn lơ lửng (mg/l) 230-570 211
CDO (mg/l) 183-325 149
BOD (mg/l) 21-120 40.2
NO
3
(mg/l) 0.39 0.61
NH
4
(mg/l) 5.3-17.1 9.6
H
2
S (mg/l) 3.2
Nguồn: Đinh Văn Sâm năm 1996
Sông Tô lịch có độ ô nhiễm cao như vậy có thể kể ra đây một số nguồn thải chính là:
Bệnh viện Lao.
Bệnh viện nhi Thuỵ Điển.
Bệnh viện phụ sản.
Bệnh biện giao thông.
Nhà máy giầy Thượng Đình.
Nhà máy cao su Sao Vàng
Nhà máy lever Haso
Nhà máy bóng đèn.
Nhà máy bia Hà Nội.
Nhà máy Trung Kính
Nhà máy nhựa Đại kim
Nhà máy Sơn tổng hợp.
Ngoài những bệnh viện đã thống kê ở trên sông còn tiếp nhận những nguồn nước thả
từ sinh hoạt với khối lượng nước lớn và không kém phần độc hại. Phần lớn nước thải ra

sông đều không qua sử lí và được thải trực tiếp hoặc gián tiếp gây làm tăng nồng độ các
chất dinh dưỡng, nghiêm trọng nhất là nước thải của các bệnh viện, nhà máy. Đây là nguồn
gây ra ô nhiễm chínhchô nươớc sông, làm cho quá trình xử lí sinh học bị giới hạn hoặc bị
quá tải và có thể bị huỷ hoại hoàn toàn do các chất hữu cơ và các chất thải công nghiệp độc
hại. Các chất hữu cơ như phốtpho và nitơ là lí do chủ yếu là cho nước sông phì dinh
dưỡng.
Sự quá tải của rác thải là nguyên nhân chính gây ra ngăn cản dòng sông, làm cho
lòng sông bị thu hẹp đáng kể, tăng khả năng ngập úng, tăng lươợng bùn đáy sông. Mặc dù
sông đã được cải tạo bằng việc xây dựng kè đá hai bên bờ sông nhằm làm giảm lượng rác
thải xuống sông cũng như các loại đất đá và tạo một cảnh quan mới cho phù hợp với sự
12
phát triển của thành phố. Thành phố sử dụng nguồn vốn vay ODA của Nhật Bản song vẫn
chưa thấy có dấu hiệu khả quan nào đối với môi trường tại sông Tô Lịch, đặc biệt khi sông
nằm trong lòng thủ Đô Hà Nội và nó sẽ gây ảnh hưởng đến hình ảnh một thủ đô tươi đẹp
của nước ta, hướng tới văn minh hiện đại. Việc ô nhiễm của sông Tô Lịch gây ảnh hưởng
nghiêm trọng không chỉ tới dân cư sống hai bên bờ sông mà con gây ảnh hưởng tới các khu
vực xung quanh, khi mà ỏ hai bên bờ sông có nhều trưòng học và một số bệnh viện và đây
cũng là một điểm có giao thông đi lại với cường độ lớn của thành phố.

Bảng 2: Tình trạng ô nhiễm sông tô lịch năm 1999-2000 tại Cầu Mới
Chỉ tiêu đơn vị 1999 2000
TCVN5942-
1995B
DO mg/l 1.78 0.4 >=2
BOD
5
mg/l 18.5 27 <25
COD mg/l 36.8 89 <35
SS mg/l 47 36.8 80
NH

4
+
mg/l - 27 1
Coli-form PC/100ml - 49.10
5
10000
Do đặc điểm khí hậu miền Bắc là nhiệt đới gió mùa một năm chia làm hai mùa rõ rệt
mùa khô và mùa mưa. vào mùa mưa lượng mưa tuơng đối lớn, trong khi đó mùa khô hạn
chế hơn. Do đó lượng nước sông Tô Lịch thay đổi theo mùa. Vì vậy có sự chênh lệch nồng
độ các chất ô nhiễm có trong nước.
Bảng 2. Chất lượng nước sông Tô Lịch theo hai mùa.
Chất lượng nước sông Tô Lịch tại cống Bưởi
Các chỉ tiêu (mg/l) Mùa mưa Mùa khô
PH 8.5 8.8
BOD 15.5 18.88
COD 31.2 34
SS 28 38
NO
3
-
0.25 0.45
NH
4
2.33 6.7
Nguồn: Công ty tư vấn xây dựng Hà Nội.
Qua số liệu của bảng trên ta có thể nhận thấy:
13
a) Về mùa khô, nước sông bị ô nhiễm nặng. Hàm lượng BOD và COD đều vượt quá
chỉ tiêu cho phép, BOD đo dược khoảng 25 mg/ldến 30 mg/l. hàm lượng các chất hữu cơ
NO

3
-
đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép, sông luôn ở tình trạng thừa dinh dưỡng. Do tập
tính lâu đời mà cư dân hai bên dòng sông thường vất rác xuống lòng sông, nước sông có
màu đen, mùi hơi đặc biệt vào những ngày nắng nóng, rác và rau bèo hai bên bờ sông ngăn
cản dòng sông chảy.
b) về mùa mưa nước sông chảy mạnh hơn, lưu tốc độ dòng chảy tăng do ảnh hưởng
của nước mưa đã pha loãng. Song có một thực tế qua phân tích và nghiên cứu nguồn nước
của sông cho thấy nước sông Tô Lịch chủ yếu là nước thải do tốc độ dòng chảy chậm và
tại đầu nguồn của sông tại khu vực đường Hoàng Quốc Việt cho thấy đầu nguồn của sông
không hề bắt nguồn từ bất cứ nguồn nước nào của thành phố, mà nguồn nước của sông chủ
yếu từ các nguồn nước thải chưa qua sử lí đổ trực tiếp vào sông tạo thành một hệ thống
hình thành nguồn nước cho sông Tô Lịch.
II.2. Nguyên nhân gây ô nhiễm.
Thành phố Hà Nội trong nhiều năm qua không chỉ là một địa phương có tốc độ phát
triển kinh tế cao của đất nước và con là thành phố trong điểm của miền Bắc trong việc phát
triển kinh tế. Chính vì vậy trong nhiều năm qua đã có rất nhiều nhà máy, các công ty, các
khu công nghiệp đã mọc lên ở trong thành phố và đi cùng với sự phát triển ấy là kèm theo
các vấn đề về môi trường.
Dân số của Hà Nội mấy năm vừa qua tăng khá nhanh chủ yếu là tăng cơ học do
những người ngoại tỉnh đổ xô về đây tìm việc làm đặc biệt là những lúc nông nhàn. vì vậy
mà thành phố đã đầu tư nhiều cho hệ thống cấp thoát nước của thành phố mà vẫn không
sao đáp ủng nổi nhu cầu về nước sạch của người đân đặc biệt trong những tháng hè. Thành
phố hàng ngày tiêu thụ một lượng nước khá lớn khoảng 500.000m
3
ngày/đêm và cũng sẽ có
khoảng gần ngần ấy nước được thải ra môi trường. Sông Tô Lịch là con sông chứa nước
thải lớn nhất của thành phố, chính vì vậy mà lượng nước thải đổ vào sông hàng ngày là rất
lớn, ngoài ra đây cũng là nơi tập trung dân cư khá đông đúc của thành phố Hà Nội. Tại hai
quận Thanh Xuân và quận Cầu Giấy nơi đây tập trung khá nhiều cơ sở sản xuất của quốc

doanh lãn ngoài quốc doanh. Đặc biệt ở quận cầu Giấy có khu công nghiệp Thượng Đình
đây là một nguồn gây ô nhiễm lớn khi mà khu công nghiệp này hàng ngày thải một lượng
lớn nước thải vào sông. Không những thế bệnh viện cũng là một nguồn gây ô nhiễm chính
và khá nguy hiểm đến môi trường.
Một nguyên nhân khác là hiện nay thành phố Hà Nội chưa có hệ thống sử lí nước
thải trước khi đổ ra môi trường, con các doanh nghiệp hiện nay thì chưa có nhiều doanh
14
nghiệp có các hệ thống sử lí nước thải, việc đánh giá tác động môi trường đối với các dự án
ở nước ta vẫn chưa được thực hiện một cách nghiêm túc khi mà các nhà đầu tư chỉ coi nó
là nghĩa vụ chứ chưa coi đây là một vấn đề cần thiết và quan trọng với môi trường và
doanh nghiệp. Dẫn tới khi một nhà máy được xây dụng xong thì bao nhiêu nước thải chưa
qua sử lí đều đổ vào sông hồ. Theo báo cáo hiên trạng môi trường Hà Nội năm 2003 lượng
nước thải trong tổng số 500.000 m
3
được thải ra môi trường hàng ngày chỉ có khoảng 6%
được sử lí và đạt tiêu chuẩn, số còn lại được thải ra ngoài môi trường. Đây cũng là địa bàn
có nhiều các công ty các doanh nghiệp, các cơ sỏ sản xuất.
Do dân số nước ta đa phần làm nông nghiệp có thói quen tuỳ tiện, trong khi đó người
dân ở hai bên bờ sông tuy sống ở đô thị lớn nhưng đây chỉ là hệ quả của việc đô thị hoá
của nước ta trong mấy năm qua dẫn tới có một số người chưa thoát khỏi tập quán cũ
thường xuyên vứt rác xuống dòng sông. Có thể nói lòng sông Tô Lịch ngoại trừ việc ô
nhiễm nước thải còn có cả ô nhiễm rác thải. Hàng ngày các công nhân của công ty môi
trường Hà Nội đều phải đi vớt rác từ dưới lòng sông. Ngoài ra còn từ một số nguyên nhân
khác gây nên ô nhiễm của sông.
Qua phân tích cho thây thành phâng các chất ô nhiễm có trong nước sông bao gồm
nhiều loại chất khác nhau nhưng chủ yếu gồm những loại chất sau: BOD, COD, Hg, Pb,
chất rắn lơ lửng(SS), coliform, nitơ tổng hợp NH
4
+
PH, DO v.v… các chất này có nồng độ

tuỳ thuộc vào tùng vị trí đo tại sông Tô Lịch và cũng tuỳ thuộc vào từng mùa.
15
PHẦN III. THU PHÍ
I: Văn bản pháp luật
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, hoà nhập với các hoạt động BVMT
trong khu vực và trên toàn cầu. Quốc hôi thông qua luật bảo vệ môi trươờng ngày
27/12/1993 và luật chính thức có hiệu lực ở Việt Nam ngày 10/1/1994. khi nước ta có luật
bảo vệ môi trường đã có một số quy địn về phí và lệ phí được quy định tai các văn bản tiếp
theo là các nghị định 175/CP và nghị định 67/2003/NĐ-CP.
Theo nghị định 175/CP ban hành ngày 18/10/1994, tại điều 32 có quy định, nguồn
tài chính cho nhiệm vụ bảo vệ môi trường gồm phí thẩm định báo cáo đánh giá tác động
môi trường của cá công trình kinh tê-xã hội; phí bảo vệ môi trường do các tổ chức, cá nhân
sử dụng, thành phần môi trường vào mục đích sản xuất kinh doanh đong góp theo quy định
của bộ tài chính.
Tiếp sau đó chính phủ ra nghị định 67/2003/NĐ-CP ngày 13/6/2003 và thông tư
125/2003/TTLT-BTC-BTNMT ngày 18/12/2003. Trong đó nghị định 67 nhằm hạn chế ô
nhiễm môi trường từ nước thải, sử dụng tiết kiệm nước sạch tạo nguồn kinh phí cho quỹ
bảo vệ môi trường thực hiện việc bảo vệ, khắc phục ô nhiễm môi trường. Nghị định này
quy đinh về phí bảo vệ môi trường với nước thải, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí
bảo vệ môi trường với nứoc thải, các đối tượng phải chịu phí. Còn thông tư 125 hướng dẫn
thực hiện nghị định 67, trong đó quy đinh rõ hơn về các đối tượng chịu phí cũng như
phưong thức thu, cách thu cùng phương pháp tính toán mức thu cũng như cách quản lí và
sủ dụng nguồn thu trên.
II. Đối tượng áp dụng.
Các đối tượng phải nộp phí bảo vệ môi trường được quy định trong nghị định 67 và
thông tư 125 là:
a) Nước thải từ cơ sở sản xuất công nghiệp.
- Cơ sở chế biến thực phẩm nông, lâm, thủy, hai sản: cơ sở hoạt độg giết mổ gia súc.
- Cơ sở sản xuất rượu bia, nước giải khát: cơ sỏ thuộc da, tái chế da.
- Cơ sở sản xuất thủ công nghiệp trong các làng nghề;

- Cơ sở chăn nuôi công nghiệp tập trung;
- Cơ sở cơ khí, sửa chữa ô tô xe máy tập trung.
- Cơ sở khai thác chế biến khoáng sản.
- Cơ sở nuôi tôm công nghiệp; cơ sở sản xuất và ươm tôm giống;
- Nhà máy cấp nước sạch; hệ thống xử lí nước thải tập trung.
16
b) Nước thải sinh hoạt là nước thải ra môi trường từ:
- Hộ gia đình;
- Cơ quan nhà nước
- Đơn vị vũ trang nhân dân;
- Trụ sở điều hành, chi nhánh, văn phòng của các tổ chúc, cá nhân;
- Cơ sở rửa ô tô xe máy; bệnh viện phòng khám chữa bệnh; nhà hàng, khác sạn;cơ sở
sản xuất, kinh doanh các dịch vụ khác;
III. Mục tiêu của việc thu phí bảo vệ môi trường.
Chính sách thu phí bảo vệ môi trường với nước thải công nghiệp đã được chính phủ
ban hành thông qua nghị định 67/2003/NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường với nước thải
(bao gồm nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp) ngày 13/6/2003 và chính thức có
hiệu lực vào ngày 1/1/2004. bên cạnh đó ngày 18/12/2003, Bộ tài chính và Bộ Tài nguyên
và Môi trường đã ban hành thông tư liên tịch số 125/2003/TTLT-BTC-BTNTN đẻ hướng
dẫn thực hiện nghị định này. Tuy nhiên cho đến tháng 4/2004 vẫn chưa có địa phương nào
trên cả nước thực hiện thu phí bảo vệ môi trường và phí nước thải với công nghiệp. Và mãi
tới tháng 9/2004 mới có tin tức về việc thu phí nước thải của một số địa phương.
Mục tiêu hàng đầu của chính sách thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công
nghiệp là làm cho doanh nghiệp thay đổi hành vi theo hướng thân thiện với môi trường;
nghĩa là Chính phủ mong muốn doanh nghiệp giảm ô nhiễm, chứ không đơn thuần là thu
được nhiều phí từ phía doanh nghiệp. Tổ chức thực hiện chính sánh thành công, chính chỉ
là nhằm đạt được những mục tiêu đó.
Tuy nhiên muốn đạt đựoc mục tiêu cũng phải có thời gian. Theo các nhà kinh tế,
thời gian trung bình đẻ đạt mục tiêu trên phải mất khoảng 3 năm đẻ có thể nhìn nhận hiệu
quả của một chính sách, nó là khoảng thời gian thường dùng cho ‘trung hạn”.

Song thực tế liệu chính sách có thể đạt đựơc mục tiêu làm thoả mãn cả hai bên hay
không ta thử tìm hiểu vấn đề này thông qua một số mô hình lí thuyết. Như đã nói ở trên
việc đánh phí nước thải đối với công nghiệp và việc xác định số phí dựa vào chi phí cần
thiết để giảm một đơn vị ô nhiễm, tức là MAC. Tuy nhiên theo quyết định của chính phủ,
thuế được thu là:
T = tổng lượng nước thải * hàm lượng chất gây ô nhiễm * mức thu phí với chất
gây ô nhiễm đó.
Qua đó ta có thể thấy, việc thu phí nước thải như vậy không khuyến khích các doanh
nghiệp giảm lượng nước thải vì họ thải ra bao nhiêu thì phải đóng phí bấy nhiêu không hề
khuyến khích họ giảm thải. Lúc nay phí nước thải lại cũng chỉ giống như một loại chi phí
17
sản xuất vì vậy daonh nghiệp tiếp tục sản xuất mà ở đó sản lượng đạt hiêu quả doanh
nghiệp mà không phải là hiệu quả xã hội. Với việc nhà nước không hề có đưa ra một mức
giới hạn nào để khuyến khích doanh nghiệp giảm thải về điểm giới hạn đó.
Thu phí nước thải được thực hiên nhằm thoả mãn cả hai phiá là người nộp phí tức
doanh nghiệp và nhà quản lí. Mục đích là doanh ngihiệp phải giảm lượng ô nhiễm nhằm
đạt hiệu quả sản xuất, phí môi trường phải thoả mãn là phải bằng với chi phí giảm thải cận
biên. Còn nhà quản lí đạt đựơc mục đích là buộc doanh nghiệp giảm lượng thải nhằm đạt
hiệu quả môi trường, túc môi trường trong sặch hơn. Với mức phí hiện nay nhà khó mà đạt
được cả hai điều trên khi mà nó không có tác động khuyến khích
Ngoài ra việc xác định một mức phí thải thông nhất như vậy cũng chưa hợp lí, khi
mà từng địa phương nước ta còn có nhiều điều kiện và hoàn cảnh khác nhau cần có một cơ
chế phù hợp với từng vùng từng và địa phương.
Việc thu phí như hiện nay tuy theo lí thuyết không khuyến khích doanh nghiệp giảm
lượng ô nhiễm tức là không làm nâng cao chất lượng nước sông Tô Lịch. Thu phí xét cho
cùng cũng chỉ là một biện pháp kinh tế, đánh vào kinh tế để các doanh nghiệp phải trích
một phàn lợi nhuận làm giảm ô nhiễm môi trường. Những yếu tố chính ảnh hưởng đến xác
suất ảnh hưởng đến việc giảm ô nhiễm của doanh nghiệp kể từ khi chính sách được thực
hiện. Về mặt lí thuyết, có 3 yếu tố chính: quy mô và khả năng tài chính của doanh nghiệp,
nhận xét của doanh nghiệp về chính sách thu phí, ý thức của doanh nghiệp trong việc bảo

vệ môi trường.
Doanh nghiệp muốn giảm thiểu tải lượng ô nhiễm so với tải lượng ô nhiễm hiện tại
bằng cách nào đi nữa cũng phụ thuộc vào khả năng tài chính của bản thân doanh nghiệp.
Doanh nghiệp có qui mô lớn và có nguồn tài chính tốt sẽ dễ dành đầu tư cho hệ thống sử lí,
thuê công ty thu gom, và giảm sản lượng… hơn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và yếu
kém về tài chính. Doanh nghiệp có tài chíh mạnh sẽ dễ dàng thuê đất trong khu vực công
nghiệp,dễ dàng trong việc đâut tư nhà xưởng để di dời ra khỏi khu vực hiện tại hơn các
doanh nghiệp yếu kém. Và giải quyết vấn đề này cần khuyến khích về thuế doanh nghiệp.
các doanh nghiệp vừa và nhỏ có doanh thu thấp do đó có ít tiền và khó đàu tư cho cơ sở hạ
tầng và các kiến thúc kĩ thuật cần thiết để áp dụng các biện pháp kĩ thuật môi trường.
Ý thức doanh nghiệp là một phần quan trọng trong việc đảm bảo được rằng các
chính sách về môi trường có thể được các doanh nghiệp thực hiện. Các doanh nghiệp
thường các biện pháp làm giảm ô nhiễmc môi trường đồng nghĩa với việc giảm đi lợi
nhuận của doanh nghiệp hoặc làm tăng thêm chi phí. Do đó việc thực hiện nó chỉ có những
doanh nghiệp vừa có mục đích kinh tế vừa có “ý thức giữ gìn môi trường”.
18
Ý thức bảo vệ môi trường có ảnh hưởng đến hành vi của doanh nghiệp với môi
trường, tuy nhiên việc lượng hoá là rất khó. í thức bảo vệ môi trường có xác suất rất lớn
đến doanh nghiệp thực hiện các biện pháp giảm ô nhiễm khi thông tin hoàn hảo và biện
pháp cưỡng chế mạnh. Tuy nhiên nó không phải là vấn đề quan trọng mà vấn đề ở đây là
phản ứng của doanh nghiệp trước mức phí mà chính phủ đưa ra. Để có hiệu lực cao mức
phí cũng phải cao mới mong đạt được những mục tiêu đề ra.
Nếu mức phí quá thấp, doanh nghiệp sẽ thích việc đóng phí hơn là tìm cách giảm
thải đầu tư vào một quy trình công nghệ làm giảm ô nhễm. Nếu thực hiện chính sách này
thì chính sách của chính phủ sẽ khó mà đạt được mục đính bảo vệ trường khi đó chính sách
thu phí môi trường sẽ không còn đạt được hiệu quả mong muốn. Còn nếu thực hiện thu phí
quá cao so với chi phí làm giảm lượng nước thải ra môi trường, khi đó các doanh nghiệp
thích đầu tư làm giảm lượng thải ra môi trường, nhưng quá cao sẽ bị nhà sản xuất chống
đối, gây mất ổn định vĩ mô.
Phí ô nhiễm môi trường phải đủ mức cao để có hiêu lực đối với mọi đối tượng tiêu dùng,

gây ô nhiễm. Và nó còn là nguồn thu đánh kể để cơ quan chức năng có thể trang trải các chi
phí, đo đạc, thu thập tài liệu và các chi phí khác.
Việc thu phí bảo vệ môi trường được áp dụng cho phù hợp với thực tế từng địa
phương, tỷ lệ thu phí bảo vệ môi trường với nước thải sinh hoạt theo quyết đinh của hội
đồng nhân dân tỉnh thàn phố trực thuộc trung ương các mức thu này tuỳ thuộc. Tuy nhiên
từ tháng 1/1/2004 kể từ khí phí nước thải có hiệu lực và bắt đầu được áp dụng cho đến nay
vẫn chưa có một tỉnh hay thành phố nào thực hiện. Qua khảo sát thực tế, mọi người hai bên
bờ sông Tô Lịch cho biết, họ chua phải đong phí nước thải mà vãn chỉ áp dung khung giá
trước đây. Vì vậy các số liệu cụ thể về việc thu phí nước thải sinh hoạt hiện nay em chưa
tổng hợp được. Song một số nơi đang tiến hành thực hiện thu phí và thực hiện tính toán
mức phí phỉa nộp với nước thải. Như thành phố Hồ Chí Minh áp dụng thu 250 đồng/m
3
,
một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long tính giá và đề xuất mức thu 400 đồng/m
3
. Tuy mức
phí hiện nay vẫn còn thấp so với khu vực và trên thế giới, nhưng việc thực hiện nó hiện
nay chỉ là bước đầu và tin rằng nó sẽ còn nhiều sửa đổi cho phù hợp với thực tế.
Còn về vấn đề thu phí nước thải công nghiệp hiên nay thì các tỉnh phía nam đi trước
một bước so với những nơi khác. Thành Phố Hồ Chí Minh đã thu được 160 tỉ đồng tiền phí
nước thải công nghiệp, ngoài ra một số tỉnh khác như Khánh Hoà, Phú Yên, Sóc Trăng
cũng đã thu được hàng trăm tỉ đồng tiền phí nước thải.
IV. Khó khăn
Tuy nhiên việc thực hiện thu phí nước thải còn gặp nhiều khó khăn. việc xác định
nồng độ và các chất thải đòi hỏi một quy trình công nghệ hiện đại, nhận thức của các
19
doanh nghiệp nước ta vẫn chỉ coi đống phí chỉ là một nghĩa vụ một hình thức bắt buộc.
Cho nên nếu có thể né tránh được thì né tránh. Vì vậy mà sự hợp tác của doanh nghiệp với
nhà nước trong việc xác định mức phí của doanh nghiệp chưa cao. Ngoài ra khi lấy mẫu
nước thải có rất hiều yếu tố tấc động khiến việc lấy mẫu không được chính xác.

V. Kiến nghị
Để nhằm nâng cao hiệu quả của việc thu phí nước thải cũng như đạt đựoc mục đích
của thu phí là vấn đè môi trường. Mà cụ thể ở đây là nâng cao chất lượng nước tại sông Tô
Lịch, theo em ngoài biện pháp thu phí trên còn thực thi thêm một số biện pháp.
Vì nước sông Tô Lịch chủ yếu là nước thải chưa được sử lí nên việc cần thiết là phải
có một nhà máy sử lí nước thải tập trung tại một số địa điểm cụ thể. Ngoài ra một số biẹnn
pháp khác như sủ dụng giấy phép sả thải, theo đó một công ty tìm cách xả lượng thải theo
giấp phép mà mình có được.
Nhà nước nên có nhũng chính sách ưu dãi với nhũng doanh nghiệp gây ô nhiễm và
phải di dời về thuế cũng như về vốn. Thục hiện các phương tiện thông tin đại chúng đẻ
giúp cho moi người và các doanh nghiệp hiểu được tầm quan trọng của môi trường, từ đó
nâng cao ý thúc của doanh nghiệp. sử dụng pháp luật như là biện pháp cứng rắn với các
doanh nghiệp không tuân thủ các vấn đề môi trường.
Nếu có thể thục hiện, chúng ta có thể đào thêm một đoạn sông tô Lịch nối liền với
sông Hồng. Như thế ta có thể đưa nước từ sông Hồng chảy vào sông Tô Lịch từ đó làm
giảm mức độ ô nhiễm tại sông Tô Lịch, hình thành nên đầu nguồn của sông và từ đó có thể
phân thoát lũ cho sông Hồng khi vào mùa mưa.
KẾT LUẬN
Môi trường là một vấn đề lớn trên thế giới và Việt Nam. Nước ta hiện nay có một
tốc độ phát triển kinh tế cao của khu vực và thế giới, chính vì thế mà trong những năm gần
đay có nhiều vấn đè môi trường nảy sinh ở nước ta. Tình trạng môi trường ở một số nơi đã
lên mức báo động. Quá trình phát triển kinh tế thường đi kèm với ô nhiễm môi trường.
Song nếu ta sử dụng tốt các sông cụ kinh tế thì chúng ta cũng có thể bảo vệ môi trường.
Hà Nội là thủ đô của Việt Nam là trung tâm văn hoá chinh trị xã hội của đất nước.
Song các sông ở Hà Nội đều bị ô nhiẽm khá nghiêm trong.Hiên trạng môi trường sông Tô
Lịch là đáng báo động nó cho thấy hệ thống cơ sỏ hạ tầng của thành phố Hà Nội như vậy là
chưa tương xứng với sự phát triển của thành phố. Môi trường sông cũng chính là hình ảnh
chung của các con sông tại các thành phố lớn của nước ta hiện nay. Và nếu không có biện
pháp khắc phục thì trong chúng ta sẽ phải gánh chịu hậu quả.
20

Nhưng trình độ còn hạn hẹp ngoài ra có một số nguồn thông tin vào thời điểm hiện
nay các cơ quan chức năng chưa tổng hợp và công bố được do thời gian thực hiện thu phí
nước thải ở Hà Nội mới được tiến hành. Nên bài viết của em vẫn còn nhiều phần chưa rõ
ràng và thiếu sót chưa có được nhiều thông tin liên quan. Em rất mong sự chỉ dẫn thêm của
thầy để có một bài viết ngày càng tốt hơn về các vấn đề môi trường.
Em xin cảm ơn.

21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Nguyễn Thế Chinh “Giáo trình kinh tế và quản lí môi trường” NXB thống

2. R. Kerry Turner, Đavi Pearce & Ian Bateman “kinh tế môi trường”
3. Sở khoa học công nghệ môi trường Hà Nội “báo cáo hiện trạnh môi trường Hà nội
năm 2003” và “một số ván đề về hiện trạng môi trường và qủn lí môi trường tại Hà Nội”
4. Trang web của cục bảo vệ môi trường. www.nea.gov.vn
5. Một số văn bản pháp luật liên quan
6. Một số tài liệu báo và tạp chí khác
22

×