Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Skkn kinh nghiệm giáo dục học sinh cá biệt ở trường thpt cẩm thủy 2 nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.31 KB, 15 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT CẨM THỦY 2

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

KINH NGHIỆM GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CẨM THỦY 2
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC HỌC SINH

Người thực hiện: Dương Thanh Chung
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Cẩm Thủy 2
SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác chủ nhiệm

THANH HÓA NĂM 2020

skkn


MỤC LỤC

TRANG
1. MỞ ĐẦU
1
1.1. Lí do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2
1.2.1. Mục đích nghiên cứu
2


1.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
2
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
2
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
3
2.1. Cơ sở lí luận
3
2.2. Thực trạng trước khi áp dụng kỹ năng giáo dục học sinh cá biệt
4
ở trường THPT Cẩm Thủy 2
2.3. Một số kĩ năng giáo dục học sinh cá biệt
5
2.4. Hiệu quả khi sử dụng những kinh nghiệm về kỹ năng giáo dục
10
học sinh cá biệt
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
12

skkn


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài

Trong xã hội, nghề giáo ln được đề cao và q trọng, được coi là "nghề
cao quí nhất trong những nghề cao quý", nhưng giáo dục học sinh lại là công
việc không đơn giản.
Học sinh THPT đang ở độ tuổi trưởng thành và rất nhạy cảm. Nhiều em
ngoan hiền, chăm chỉ học tập, biết vâng lời. Nhưng cũng có một số em ngang
bướng, ngỗ nghịch, không nghe lời bố mẹ thầy cô, không chấp hành nội qui
trường lớp, có nhiều biểu hiện tiêu cực… Đó là những học sinh cá biệt.
Hầu như ở trường nào cũng có học sinh cá biệt. Xã hội ngày càng phát
triển, sự du nhập của nhiều cái mới trong cách ứng xử, văn hóa, lối sống…ngày
càng nhiều, trong đó có những yếu tố thiếu lành mạnh từ bên ngoài, từ mạng xã
hội… đã tác động đến các em, cùng với đó là sự bng lỏng quản lí của gia
đình, đang làm cho số lượng học sinh cá biệt có xu hướng gia tăng, làm ảnh
hưởng đến hoạt động giáo dục của các nhà trường, của giáo viên chủ nhiệm và
những giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy. Điều này cũng ảnh hưởng không
tốt đến môi trường giáo dục và chất lượng giáo dục học sinh.
"Học sinh cá biệt" là cụm từ đang được nhắc đến nhiều trong các trường
Trung học phổ thông, nhưng trên thực tế chưa có nhiều tài liệu bàn sâu tới vấn
đề này. Vì thế, việc giáo dục học sinh cá biệt còn gặp nhiều khó khăn ở các nhà
trường vì chưa tìm ra được phương pháp, kỹ năng tiếp cận và giáo dục học sinh
cá biệt phù hợp.
Việc giáo dục học sinh cá biệt sẽ giúp uốn nắn, giáo dục các em ngoan
hơn, có nhận thức tốt hơn, để trở thành những cơng dân có ích cho xã hội, đang
là u cầu và mục tiêu đặt ra cho người giáo viên.
Là một giáo viên đang làm công tác chủ nhiệm và trực tiếp đứng lớp
giảng dạy trong nhiều năm, bản thân tôi cũng gặp một số học sinh cá biệt.
Những học sinh này thường học hành chểnh mảng, bỏ giờ bỏ tiết đi chơi, la cà
quán xá, cư xử thiếu lễ độ với bố mẹ, thầy cơ, những người lớn tuổi và có những
hành vi thiếu tích cực đối với mơi trường giáo dục, với bạn bè xung quanh. Bằng
những kinh nghiệm của bản thân, q trình tìm tịi phương pháp giáo dục học
sinh qua tài liệu và học hỏi các đồng nghiệp, tơi xin được góp cùng các đồng

nghiệp đề tài "Kinh nghiệm giáo dục học sinh cá biệt ở trường Trung Học

1

skkn


Phổ Thông Cẩm Thủy 2 nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh" với
mong muốn chúng ta sẽ cùng tìm ra những phương pháp, kỹ năng giáo dục học
sinh cá biệt có hiệu quả, để có thể áp dụng được trong thực tế khi làm công tác
giáo dục học sinh ở trường THPT.
1.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
1.2.1. Mục đích nghiên cứu
- Tìm các phương pháp, kỹ năng giáo dục học sinh cá biệt, giúp các em
trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.
- Xác định nguyên nhân dẫn đến một số em học sinh trở nên cá biệt, qua
đó giúp các em định hướng lại hành vi và có động cơ học tập tốt hơn.
1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu thực trạng vấn đề học sinh cá biệt ở trường THPT Cẩm
Thuỷ 2.
- Phân tích ngun nhân, hồn cảnh dẫn đến những hành vi tiêu cực của
một số học sinh cá biệt ở trường THPT Cẩm Thuỷ 2, để từ đó có phương pháp
giáo dục phù hợp, giúp các em tiến bộ và hồ nhập với mơi trường giáo dục.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những học sinh cá biệt ở trường THPT Cẩm Thủy 2 hay gây gổ đánh
nhau, nói tục, chửi thề, lười học, ý thức xây dựng tập thể và ý thức học tập kém,
cư xử thiếu lễ độ với bố mẹ, thầy cô, thiếu sự tôn trọng bạn bè.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu phương pháp giáo dục học sinh cá biệt lớp 11C3 (năm học

2012 - 2013), lớp 12C1 (năm học 2015 - 2016) và lớp 12C (khóa học 2016 –
2019).
- Tìm hiểu hồn cảnh gia đình và hồn cảnh sống của từng em học sinh cá
biệt. Cùng gia đình theo dõi, giáo dục, nhắc nhở và uốn nắn các em. Tạo ra
nhiều cơ hội để các em tham gia học tập, hịa nhập với bạn bè, với mơi trường
giáo dục và tham gia các phong trào do nhà trường tổ chức.
1.3.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi dùng các phương pháp sau đây:
- Nghiên cứu hồ sơ: Nghiên cứu hồ sơ để xác định những nội dung cần
tìm hiểu. Đây là bước tiếp cận đầu tiên để tìm hiểu những nét cơ bản nhất của

2

skkn


học sinh cá biệt và tìm hiểu nguyên nhân để trả lời câu hỏi: vì sao em học sinh
đó lại trở thành học sinh cá biệt?
- Trò chuyện trực tiếp: Nên trò truyện trực tiếp với học sinh cá biệt, với
giáo viên bộ môn, với giáo viên chủ nhiệm cũ (nếu có), với bạn bè các em...để
tìm hiểu thêm những vấn đề có liên quan.
- Trao đổi: Giáo viên nên trao đổi trực tiếp với gia đình và phụ huynh của
học sinh cá biệt để đề xuất những biện pháp giáo dục. Phải dựa vào điều kiện cụ
thể của từng em để xây dựng các kế hoạch giáo dục học sinh phù hợp và sát với
thực tế.
- Tham khảo ý kiến: Trong quá trình giáo dục học sinh, cần tham khảo ý
kiến của những người có kinh nghiệm, của đồng nghiệp...để nhận được những
lời khun, những ý kiến có ích.
- Quan sát: là phương pháp cần làm thường xuyên để theo dõi khách quan
những học sinh cá biệt. Nên quan sát toàn diện các biểu hiện, hành vi của học

sinh trong học tập, trong lao động, trong các hoạt động tập thể, trong quan hệ
với bạn bè và những người xung quanh.
- Ghi chép: Giáo viên nên ghi chép lại các vấn đề liên quan đến học sinh
cá biệt. Cần thu thập thông tin đầy đủ, cụ thể và phân loại theo nội dung, yêu
cầu giáo dục. Chú ý đến các dấu hiệu cơ bản và đưa ra nhận định về học sinh đó
để có phương pháp giáo dục phù hợp nhất.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề
Cũng như nhiều ngành nghề khác, nghề dạy học phải đối mặt với nhiều
khó khăn, thử thách. Một trong những khó khăn, thử thách ấy là giáo dục học
sinh cá biệt.
Ở mỗi một giai đoạn trưởng thành nào đó của học sinh đều có thể có
những biểu hiện lệch lạc về nhân cách. Do những tác động tiêu cực từ xã hội bên
ngoài, ở các nhà trường sẽ khơng thể tránh khỏi có một bộ phận học sinh cá biệt
và số học sinh này đang có xu hướng gia tăng.
Học sinh cá biệt thường rất nghịch ngợm, hiếu động, không làm chủ được
bản thân, chưa nhận thức được điều gì là đúng, điều gì là sai, hay bắt chước và
chịu nhiều tác động tiêu cực từ xã hội bên ngồi, có những hành vi và cách ứng
xử thiếu chuẩn mực nhưng lại rất thích được người khác để ý, tán dương và

3

skkn


khen ngợi. Vì vậy, giáo viên cần dùng những phương pháp và kỹ năng phù hợp
với từng tình huống cụ thể để giáo dục học sinh cá biệt. Muốn làm được điều đó,
giáo viên cần có những hiểu biết nhất định về hoàn cảnh và nguyên nhân dẫn
đến việc học sinh đó trở nên cá biệt. Sự am hiểu về tâm lí và khéo léo trong cách
ứng xử với học sinh của giáo viên là yếu tố rất quan trọng để đưa ra những

phương pháp giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả.
Trong q trình giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm lớp, giáo viên
không tránh khỏi những tình huống phải ứng xử và giáo dục học sinh cá biệt.
Nếu khơng có biện pháp giáo dục hữu hiệu, các học sinh đó thường bỏ học giữa
chừng, hoặc có những biểu hiện tiêu cực làm ảnh hưởng đến chất lượng và môi
trường giáo dục. Những kinh nghiệm về kỹ năng và phương pháp giáo dục học
sinh cá biệt sẽ giúp giáo viên sẵn sàng đón nhận bất cứ học sinh cá biệt nào để
giáo dục các em trở thành người có ích cho xã hội. Vì vậy, giáo viên cần hiểu rõ
điều này để có những biện pháp và hình thức giáo dục học sinh cá biệt phù hợp,
mang lại hiệu quả cao.
Giáo dục học sinh cá biệt là một nội dung cơng việc của giáo viên, đó
cũng là yêu cầu sư phạm đối với người Thầy. Muốn giáo dục được học sinh cá
biệt thì bản thân giáo viên phải sống cuộc sống hòa nhập với các em, phải hiểu
về tâm lí lứa tuổi, nắm được nhu cầu, hứng thú, nguyện vọng và xu hướng phát
triển của các em, để từ đó có những kỹ năng ứng xử và giáo dục phù hợp, mang
lại hiệu quả. Vì vậy, kỹ năng ứng xử và giải quyết vấn đề của giáo viên đối với
học sinh cá biệt là vô cùng quan trọng.
2.2. Thực trạng trước khi áp dụng kỹ năng giáo dục học sinh cá biệt ở
trường THPT Cẩm Thủy 2
Trường THPT Cẩm Thủy 2 nằm ở vùng thuần nông của một huyện miền
núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa. Nhiều em học sinh là con của những gia đình có
hồn cảnh khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa, phải ở nhà với ông bà hoặc những
người anh em trong gia đình, thiếu tình thương và sự quan tâm chăm sóc của bố
mẹ từ nhỏ. Không được bố mẹ trực tiếp giáo dục, lại chịu những tác động tiêu
cực từ xã xội bên ngoài nên các em dễ sa ngã, đua địi bè bạn. Nhiều em khơng
có động cơ học tập, ý thức chấp hành nội qui trường lớp không tốt. Những học
sinh này thường bỏ học đi chơi, tụ tập bạn bè, la cà quán xá và các tụ điểm giải
trí thiếu lành mạnh, nhiều tệ nạn... Đơi khi cịn gây gổ đánh nhau. Thậm chí có

4


skkn


em cịn vơ lễ với giáo viên, phải đưa ra Hội đồng kỉ luật nhà trường. Nếu để tình
trạng này tiếp diễn kéo dài, sẽ ảnh hưởng không tốt đến các học sinh khác, đến
môi trường giáo dục và chất lượng giáo dục.
Trong quá trình giảng dạy và giáo dục học sinh ở trường THPT Cẩm
Thủy 2, bản thân tôi cũng gặp khơng ít học sinh cá biệt. Cùng với thời gian và
những kinh nghiệm có được, tơi đã tìm tòi, nghiên cứu và sử dụng một số
phương pháp, kỹ năng giáo dục học sinh cá biệt. Sau khi sử dụng những phương
pháp, kỹ năng này, bản thân tôi nhận thấy có những hiệu quả nhất định. Dưới
đây là một số kĩ năng giáo dục học sinh cá biệt tôi đã sử dụng ở trường THPT
Cẩm Thủy 2.
2.3. Các giải pháp thực hiện giáo dục học sinh cá biệt
2.3.1 Khen ngợi trước, phê bình sau
Những học sinh cá biệt thường hay mắc lỗi, đơi khi có những lỗi rất
nghiêm trọng. Nhưng phê bình khơng có tác dụng gì cả, bởi nó sẽ khiến học sinh
cá biệt tự dựng lên cho mình một rào chắn, đồng thời tìm mọi cách để tự biện hộ
cho mình. Phê bình ngay cũng rất khơng nên vì sẽ làm các em xấu hổ và đơi khi
có thể gây ra sự phản kháng ở các em.
Tơi đã từng đọc được một câu danh ngôn trên một tờ lịch: "Sự phê bình
giống như một chú chim bồ câu nhà ni, nó sẽ ln biết đường quay trở về
nhà". Vì thế, nếu phê bình, khiển trách nặng nề học sinh cá biệt khi mắc lỗi, các
em sẽ tìm cách tự biện hộ cho mình, thậm chí cịn trách ngược lại giáo viên.
Khi đối mặt với việc học sinh cá biệt mắc lỗi, không phải chúng ta đang
ứng xử với một con người của lí trí mà là đang ứng xử với một con người bản
năng. Sự phê bình, trách cứ nặng nề sẽ không đem lại hiệu quả như mong muốn.
Tuy nhiên, khi học sinh mắc lỗi, nhất là học sinh cá biệt, giáo viên không
thể không phê bình và uốn nắn các em. Vậy nên dùng cách nào cho hiệu quả?

Tôi đã thử dùng phương pháp khen ngợi trước, phê bình sau. Sau khi nghe
những lời khen ngợi, học sinh cá biệt sẽ dễ tiếp thu sự phê bình hơn.
Thường thì học sinh cá biệt khá thơng minh, có nhiều biệt tài và muốn
được người khác chú ý đến mình. Vấn đề là giáo viên phải tìm ra được điều gì
đó để khen ngợi. Tuy việc này không dễ, nhưng bằng sự tinh tế, nhạy cảm trong
tiếp xúc với học sinh, ta vẫn có thể tìm ra được điểm gì đó để khen ngợi. Năm
học 2012 - 2013, lớp tơi chủ nhiệm có một em học sinh cá biệt đã ứng xử vô lễ

5

skkn


với một giáo viên đến dạy thay trong giờ Toán. Khi tiếp nhận thơng tin, tơi u
cầu học sinh đó viết kiểm điểm. Hôm sau em mang đến nộp. Khi đọc bản kiểm
điểm của học sinh, tơi nói: "Chữ em khá đẹp, trình bày sạch sẽ, văn phong cũng
tiến bộ nhiều rồi đấy". Nhìn lên học sinh, tơi để ý thấy em đang nghe rất chăm
chú, gương mặt khơng có sự căng thẳng và sẵn sàng hợp tác nên đã nói thêm câu
tiếp theo: "Nhưng cơ thấy những khuyết điểm em viết trong bản kiểm điểm này
chưa đầy đủ''. Tôi dừng lại một lát để xem phản ứng của học sinh cá biệt này.
Em vui vẻ nói "Thưa cơ, vâng ạ!". Tơi nói tiếp: "Cơ biết hành động ngày hơm
qua em khơng cố ý, nhưng nó đã để lại hậu quả rất nghiêm trọng. Đầu tiên là
làm cho lớp có một giờ xếp loại yếu, em bị ghi vào sổ đầu bài và nghiêm trọng
hơn là đã để lại ấn tượng không tốt trong thầy về lớp chúng ta. Em xem việc ấy
có nên thừa nhận trong bản kiểm điểm và em nên gặp trực tiếp thầy để xin lỗi
không?" Em học sinh ấy đã cúi đầu và trả lời: "Thưa cơ có ạ!" Tơi nói tiếp: "Để
bản kiểm điểm này có giá trị hơn, em về nhà viết lại, nhờ bố mẹ đọc rồi ký vào,
mai mang đến cho cô xem nhé". Giờ sinh hoạt đầu buổi hôm sau, học sinh đó
mang bản kiểm điểm lên, tơi xem và đã thấy em làm theo những yêu cầu của
mình ngày hôm qua. Khi tôi bảo em mang bản kiểm điểm cho thầy giáo dạy

Toán xem và trực tiếp xin lỗi thầy, em đã vui vẻ làm theo. Từ sự việc trên, tôi đã
rút ra được một kinh nghiệm: khi học sinh cá biệt mắc lỗi khơng nên phê bình
gay gắt và trách phạt ngay mà trước khi phê bình hãy tìm ra được điểm gì đó để
khen ngợi trước. Bắt đầu bằng sự khen ngợi sẽ làm học sinh cá biệt dễ tiếp thu
sự phê bình hơn.
2.3.2. Chỉ ra sai lầm của học sinh cá biệt một cách gián tiếp
Khi học sinh cá biệt phạm lỗi, giáo viên phải là người chỉ ra lỗi và giáo
dục các em. Nhưng việc ấy cũng nên tiến hành một cách khéo léo và tế nhị.
Một lần, sau khi tan tiết 5, tôi nán lại ít phút để sửa bài cho một học sinh.
Khi xuống cầu thang, bắt gặp hai học sinh cá biệt đang chia nhau điếu thuốc hút
dở. Thấy giáo viên đến bất ngờ, các em vứt vội điếu thuốc xuống bậc cầu thang
và chào. Tôi chào lại các em và cúi xuống nhặt điếu thuốc đang cháy dở lên nói
nhẹ nhàng: "Cơ hứa sẽ khơng nói cho cơ giáo chủ nhiệm của các em biết chuyện
này, nhưng hút thuốc trong trường là không được. Lần sau các em không nên
hút thuốc lá nữa, vừa không vệ sinh, vừa không tốt cho sức khỏe, lại vi phạm
quy định của trường và còn bị phạt nữa". Một trong hai em học sinh ấy đã tự tay

6

skkn


dụi điếu thuốc đang cháy dở từ tay tôi đưa, bỏ vào thùng rác, rồi cảm ơn và hứa
lần sau sẽ không hút thuốc lá trong trường nữa. Tôi không biết chắc chắn rằng
các em có giữ lời hứa của mình khi đó hay khơng, nhưng tơi chắc chắn một
điều, ít ra khi đó các em cũng đã tự biết là mình mắc lỗi và nói lời xin lỗi chân
thành. Qua sự việc này tôi nhận ra, nếu trong trường hợp ấy, mình có cách cư xử
khác: phê bình, qt mắng học sinh, hoặc dọa mách giáo viên chủ nhiệm chẳng
hạn, thì chưa hẳn các em đã nhận ra sai lầm của mình và nhận lỗi. Bởi vì khi đã
là học sinh cá biệt, các em sẽ không sợ ai cả. Do đó, khi bất ngờ bắt gặp học

sinh cá biệt mắc lỗi, khơng nên phê bình trách mắng nặng nề, hãy nhắc nhở nhẹ
nhàng để các em hiểu. Phê bình hay qt mắng ngay lúc đó sẽ làm học sinh xấu
hổ, làm tổn thương đến lòng tự trọng của các em. Nếu được giáo viên nhắc nhở
nhẹ nhàng, những học sinh cá biệt sẽ hiểu được thiện ý của giáo viên, không
những các em sẽ vui vẻ tiếp thu mà còn cảm phục cách ứng xử như vậy, từ đó có
thể thu phục được các em. Vì thế, muốn giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả,
giáo viên nên chỉ ra lỗi của học sinh một cách gián tiếp.
2.3.3. Không nên ra lệnh cho học sinh cá biệt
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng học sinh, nhất là học sinh cá biệt khơng
thích bị ra lệnh và làm theo mệnh lệnh của giáo viên. Vì thế, giáo viên khơng
nên ra lệnh cho học sinh làm một việc gì, hãy để học sinh đó tự nguyện làm và
tự rút ra kinh nghiệm từ những sai sót (nếu có). Đó cũng là cách để học sinh cá
biệt sửa lỗi của mình và vẫn giữ được thể diện trước bạn bè. Như vậy, các em sẽ
có thái độ hợp tác và không phản kháng lại giáo viên.
Một mệnh lệnh không phù hợp ở giáo viên có thể gây ra sự phản kháng
ngay lập tức của học sinh cá biệt. Cho dù mệnh lệnh ấy có mục đích là giúp các
em sửa chữa sai lầm của mình.
Một lần tan học, đi ra cổng trường, có một học sinh để xe chắn cả lối đi,
làm cản trở giao thông. Một giáo viên đã quát hỏi ''Ai dựng xe giữa đường thế
này?" Một em học sinh tên tiếng nhận là mình, người giáo viên nghiêm giọng
nói: "Dựng ngay xe ra chỗ khác, nếu khơng tôi cho người lôi đi bây giờ". Đúng
là em học sinh đó đã sai, nhưng với cách làm ấy khơng nhận được sự đồng thuận
của học sinh. Em vẫn làm theo mệnh lệnh của giáo viên đưa ra nhưng có lẽ
trong thâm tâm em không phục và vẫn không thấy mình sai lắm. Trong trường
hợp trên, tơi thấy nên dùng cách xử lí khác thì hiệu quả sẽ cao hơn. Thay vì ra

7

skkn



mệnh lệnh, giáo viên nên hỏi "Em nào để xe giữa đường thế này nhỉ?" Sau đó
nhắc nhở và đề nghị em học sinh nên để gọn xe lại để không làm cản trở mọi
người đi lại, chắc chắn em học sinh đó sẽ vui vẻ làm theo và các em học sinh
khác cũng đồng tình.
2.3.4. Giữ thể diện cho học sinh cá biệt
Mặc dù là học sinh cá biệt, nhưng các em vẫn có thể diện của mình. Việc
giữ thể diện cho học sinh là vấn đề quan trọng hàng đầu, nhưng hầu như chúng
ta rất ít khi quan tâm đến điều đó. Cho dù học sinh cá biệt ln sai và mình
đúng, nhưng nếu khơng biết giữ thể diện cho các em khi phạm lỗi thì giáo viên
coi như đã hủy hoại mất một con người. Đôi khi có giáo viên kết tội những lỗi
lầm của học sinh cá biệt, đe dọa các em, chê bai các em trước mặt bạn bè, không
để ý đến thể diện và lịng tự trọng của học sinh cá biệt, xem đó là chuyện bình
thường. Nhưng theo tơi, đó lại là một sai lầm nghiêm trọng.
Trong cuộc đời giáo viên của mỗi người, chắc khơng thể tránh khỏi tình
huống có hai học sinh cùng tranh cãi về một vấn đề và kéo mình vào cuộc làm
trọng tài. Đương nhiên em nào cũng muốn phần thắng thuộc về mình. Trong
tình huống như vậy, giáo viên nên cẩn thận xem xét và tìm ra những điểm có lí
của cả hai. Khơng nên kết luận ngay ai đúng, ai sai. Nên giữ thể diện cho học
sinh trước mặt đối phương, sau đó có thể gặp từng em để trao đổi riêng.
2.3.5. Khích lệ, động viên học sinh cá biệt
Đây cũng được xem là một phương pháp giáo dục học sinh rất quan trọng.
Khi học sinh cá biệt đã có sự tiến bộ, cho dù rất nhỏ hoặc mới chỉ là dấu hiệu
của sự tiến bộ, giáo viên cũng nên khích lệ, động viên. Điều đó sẽ khiến học
sinh cá biệt có thêm động lực để tiếp tục cố gắng và tiến bộ.
Người giáo viên có nhiều khả năng nhưng chưa được sử dụng hết. Một
trong những khả năng tiềm tàng ấy là động viên, khích lệ học sinh cá biệt để các
em biết rằng, nếu mình cố gắng thì vẫn chưa muộn, sự thay đổi của mình vẫn
được ghi nhận. Vì thế, muốn giáo dục và làm thay đổi một học sinh cá biệt, giáo
viên nên khích lệ động viên trước sự tiến bộ của các em, cho dù là rất nhỏ.

2.3.6. Để học sinh cá biệt biết mình được giáo viên quan tâm và tin tưởng
Khi giáo viên muốn tiếp cận và giáo dục một học sinh cá biệt thì nên để
học sinh đó thấy rằng em được giáo viên quan tâm và không xem mình là học
sinh cá biệt. Giáo viên nên giao cho học sinh một cơng việc nào đó để làm. Hãy

8

skkn


tỏ ra tin cậy học sinh, khen ngợi kịp thời khi em làm tốt. Như vậy, học sinh đó
sẽ cố gắng hết sức để không làm giáo viên thất vọng.
Muốn giáo dục và cảm hóa để học sinh cá biệt trở thành một học sinh
ngoan, giáo viên nên đối xử với em bình thường như những học sinh khác, trân
trọng và coi em như một người trung thực và đứng đắn. Chắc chắn học sinh đó
sẽ gắng sức với sự tin cậy của giáo viên. Hãy chỉ ra một cái đích để em đi tới.
Cũng có khi học sinh cá biệt làm công việc giáo viên giao bị thất bại hoặc
không được như mong muốn. Khi ấy, giáo viên nên kiên trì và giao lại cho em
một cơng việc khác để học sinh thấy rằng mình vẫn được tin tưởng. Nếu học
sinh cá biệt tiến bộ chậm hoặc chưa có biểu hiện gì của sự tiến bộ, giáo viên tỏ
ra thất vọng và chỉ trích học sinh, thì điều đó đồng nghĩa với việc chính giáo
viên đã hủy hoại đi mong muốn tiến bộ và tự hoàn thiện của học sinh cá biệt.
Nhưng nếu giáo viên làm ngược lại, động viên học sinh rằng, việc đã giao không
làm được cũng không sao, sẽ cố gắng để làm lại. Hãy để học sinh biết rằng em
vẫn được giáo viên tin tưởng dù việc đã giao làm không được như mong muốn,
rằng em vẫn còn khả năng chưa bộc lộ ra, học sinh đó sẽ có thêm động lực để
tiếp tục cố gắng và từng bước thay đổi con người mình. Sự tin tưởng, khích lệ
của giáo viên sẽ khiến học sinh cá biệt khơng có mặc cảm về bản thân và dễ
dàng hịa nhập trở lại với mơi trường giáo dục.
2.3.7. Cách để học sinh cá biệt làm theo điều giáo viên muốn

Để đưa học sinh cá biệt vào nề nếp và khuôn khổ, giáo viên nên giao cho
một công việc để làm.
Một học sinh cá biệt được tôi giao nhiệm vụ giữ Sổ đầu bài. Mỗi buổi
sáng, em phải đến sớm để lấy sổ đầu bài từ văn phòng lên lớp và khi tan học, lại
mang sổ đầu bài từ lớp nộp lên văn phịng. Cơng việc này bắt buộc học sinh phải
đến sớm và về muộn hơn so với các bạn. Em đã gặp riêng giáo viên phàn nàn về
công việc này và xin thay bạn khác làm công việc của mình. Trong tình huống
này, tơi đã nói với học sinh đó rằng, việc giữ sổ đầu bài rất quan trọng, không
phải ai cũng làm được và không phải ai cũng giao việc được, rồi phong cho học
sinh cá biệt một ''chức danh'' nhỏ: “người quản lí sổ đầu bài” và yêu cầu không
một thành viên nào trong lớp được xem sổ đầu bài nếu không được sự đồng ý
của học sinh này. Em học sinh cá biệt đó thấy cơng việc mình đang làm quan
trọng và vì thế sẽ vui vẻ làm công việc được giao, không những thế, còn làm rất

9

skkn


nhiệt tình và có trách nhiệm. Từ việc này, một kinh nghiệm đã được rút ra là hãy
dùng cách khéo léo nhất để học sinh cá biệt làm công việc được phân công.
2.4. Hiệu quả khi sử dụng những kinh nghiệm về kỹ năng giáo dục học sinh
cá biệt
Trong những năm qua, khi làm công tác giáo dục học sinh cá biệt ở
trường THPT Cẩm Thủy 2, bản thân tôi đã sử dụng các phương pháp này. Mặc
dù kết quả thu được từ việc giáo dục học sinh cá biệt khơng giống nhau, nhưng
đều cho thấy có sự chuyển biến tích cực ở học sinh. Hầu như các học sinh cá
biệt đều sẵn sàng hợp tác khi giáo viên sử dụng những kĩ năng này. Đây là
những kĩ năng không tốn nhiều thời gian, khơng địi hỏi nhiều cơng sức và khi
sử dụng cũng mang lại kết quả khả quan. Điều quan trọng là người giáo viên cần

linh hoạt trong từng tình huống ứng xử và giáo dục học sinh cá biệt.
Trong thực tế, tôi thường xuyên phải làm công tác chủ nhiệm lớp và giáo
dục học sinh cá biệt ở ngôi trường nơi đang công tác. Tuy đặc thù của mỗi lớp
khác nhau, nhưng khi sử dụng những kinh nghiệm về kỹ năng giáo dục dọc sinh
cá biệt đều mang lại những chuyển biến tích cực ở dọc sinh. Dưới đây là kết quả
đạt được ở một số lớp tôi làm chủ nhiệm:
2.4.1. Lớp 11C3 (Năm học 2012 – 2013)
TRƯỚC KHI SỬ DỤNG KỸ
NĂNG GIÁO DỤC HỌC SINH
CÁ BIỆT

số

42

Số HS
cá biệt

2

SAU KHI SỬ DỤNG KỸ NĂNG GIÁO
DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT

Biểu hiện cá biệt

Sĩ số Số HS Những thay đổi của HS cá
cá biệt
biệt

- Thường xuyên bỏ

giờ, bỏ tiết.
- Nghỉ học nhiều.
- Thái độ và cách
cư xử thiếu lễ độ
với thầy cơ.

42

0

- Hầu như khơng cịn bỏ
giờ, bỏ tiết đi chơi.
- Rất ít khi nghỉ học, nếu
nghỉ học thường xin phép.
- Cư xử lễ phép với thầy cô
và bắt đầu hòa đồng với các
bạn trong lớp.

10

skkn


2.4.2. Lớp 12C1 (Năm học 2015 – 2016)
TRƯỚC KHI SỬ DỤNG KỸ NĂNG
GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT

số

38


Số HS
cá biệt

1

Biểu hiện cá biệt
- Nghỉ học nhiều. Khi
đến lớp học thường
không
tập
trung,
không ghi bài đầy đủ,
nằm gục xuống bàn.
- Ít giao tiếp và khơng
thân thiện với bạn bè
xung quanh.
- Hay nói tục, chửi thề
và có những hành
động bất cần.

SAU KHI SỬ DỤNG KỸ NĂNG
GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT
Sĩ số

38

Số HS
cá biệt


0

Những thay đổi của
HS cá biệt
- Đi học chuyên cần
hơn, khi đến lớp ghi
bài đầy đủ và đơi khi
cịn tham gia phát
biểu ý kiến xây dựng
bài.
- Hòa đồng hơn với
bạn bè và bắt đầu
tham gia một số hoạt
động của lớp.

2.4.3. Lớp 12C (Khóa học 2016 – 2019)
TRƯỚC KHI SỬ DỤNG KỸ NĂNG
GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT

số
45

Số HS
cá biệt
3

Biểu hiện cá biệt
- Thường xun vắng
học khơng lí do. Ngồi
trong lớp khơng ghi

bài, hay nói chuyện
riêng và trêu chọc các
bạn khác.
- Hay gây gổ đánh
nhau và thường xuyên
tranh cãi với bạn bè.
- Có thái độ phản
kháng lại thầy cơ khi

SAU KHI SỬ DỤNG KỸ NĂNG
GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT
Sĩ số

45

Số HS
cá biệt
0

Những thay đổi của
HS cá biệt
- Khơng cịn nghỉ học
thường xun. Ngồi
trong lớp khá nghiêm
túc, khơng cịn trêu
chọc làm ảnh hưởng
đến bạn trong giờ
học.
- Thân thiện hơn với
các bạn trong lớp,

khơng cịn gây gổ
đánh nhau.

11

skkn


được nhắc nhở hay bị
trách phạt khi mắc lỗi.

- Khi mắc lỗi, thầy cô
nhắc nhở các em đã
biết lắng nghe và có
sự cầu thị.
- Chủ động xin được
tổ chức và tham gia
một số hoạt động tập
thể của lớp.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Ở cấp học, bậc học nào cũng có học sinh cá biệt, nhưng có lẽ bậc học THPT
có nhiều học sinh cá biệt nhất, vì các em đang ở độ tuổi trưởng thành, bắt đầu
tập làm người lớn, nhưng lại chưa đủ độ chín trong suy nghĩ và hành động, nên
dễ sa đà vào những thói hư tật xấu.
Hiểu và nắm được đặc điểm tâm lí của học sinh cá biệt sẽ giúp giáo viên tiếp
cận được các em. Có hiểu học sinh cá biệt và hịa nhập được với các em, thì giáo
viên mới có thể thực hiện được các phương pháp giáo dục của mình. Kỹ năng
ứng xử và giải quyết vấn đề của giáo viên đối với học sinh cá biệt cũng vô cùng

quan trọng.
Giáo viên, nhất là giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp giáo dục học sinh
khi đến trường, chịu trách nhiệm trước Ban giám hiệu và trước Hội đồng giáo
dục nhà trường về chất lượng giảng dạy và đạo đức của học sinh. Nhiệm vụ phải
gánh vác của giáo viên là rất lớn và mang nhiều trọng trách, vì vậy tôi đề xuất
một số kiến nghị sau đây:
3.2. Kiến nghị
- Đối với Ban giám hiệu: Hợp tác với giáo viên trong một số trượng hợp giáo
dục học sinh cá biệt. Ghi nhận kịp thời những tiến bộ, những chuyển biến tích
cực ở học sinh cá biệt.
- Đối với Đồn trường: Tạo điều kiện để học sinh cá biệt có cơ hội tham gia
các phong trào do Đoạn trường tổ chức và quản lí.
- Đối với cha mẹ học sinh: Giữ liên lạc thường xuyên với giáo viên chủ
nhiệm, hợp tác với giáo viên trong quá trình giáo dục con em mình.

12

skkn


- Đối với xã hội: Hiểu đúng vai trò của người giáo viên trong quá trình giáo
dục, nhất là giáo dục đạo đức cho học sinh.

XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 21 tháng 4 năm 2020
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.

Người viết SKKN

Dương Thanh Chung

13

skkn



×