Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Skkn một số biện pháp giúp học sinh phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm chiếc thuyền ngoài xa của nguyễn minh châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.33 KB, 19 trang )

1.
MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Những năm gần đây, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã chú trọng nhiều hơn
đến chất lượng giáo dục các cấp nhằm cung cấp kiến thức toàn diện cho người
học, đặc biệt là nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ Văn trong nhà trường
phổ thơng. Trên cơ sở đó, giáo viên muốn rèn luyện cảm thụ văn học, bồi dưỡng
tình cảm, tâm hồn và nhân cách chuẩn bị hành trang cho các em bước vào đời.
Trong dạy và học môn Ngữ Văn nói chung, cụ thể là đổi mới trong cách
dạy và học, đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy vai trị chủ động, tích
cực, sáng tạo của học sinh trong học tập ngày nay đang được áp dụng và triển
khai rầm rộ. Trong đó, học sinh đóng vai trị chủ động, tích cực khám phá và
chiếm lĩnh tri thức. Có thể nói đó là vấn đề thiết thực, tiến bộ, phù hợp với thời
đại.
Có thể nói q trình giáo dục nhân cách học sinh gồm có nhiều yếu tố.
Trong đó các mơn học xã hội đóng vai trị chủ đạo. Tuy nhiên điều đáng nói là
trong những năm gần đây, hiện tượng học lệch ngày nay ở phần lớn học sinh đã
dẫn đến việc các em coi thường, học lệch, học qua loa đối phó, … đối với phần
lớn các mơn xã hội, trong đó có mơn Ngữ văn. Mặc dù đây là bộ mơn khoa học
có những giá trị lớn lao về nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, góp phần quan trọng
trong việc hình thành và phát triển nhân cách của con người một cách tự nhiên
và hiệu quả nhất.
Đứng trước thực trạng đó, là giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy tôi
luôn chú trọng việc giáo dục nhân cách học sinh trong quá trình dạy học Ngữ
văn bằng cách thức giúp các em tích cực, chủ động khám phá ra các vấn đề xã
hội trong tác phẩm văn chương, từ đó nhận thấy văn học rất gần gũi, gắn liền
với đời sống và nhận thức được giá trị giáo dục của văn học, hình thành, phát
triển và hoàn thiện nhân cách.
Để nâng cao hiệu quả khi các em tiếp nhận một của tác phẩm văn học
tôi đã hướng dẫn các em chuẩn bị bài ở nhà thông qua việc đọc tác phẩm và thực
hiện những hướng dẫn tôi giao cho học sinh, để tạo hướng thú các em tiếp cận


và thêm yêu văn học.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Theo Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh: “Dạy văn trước hết là dạy đọc văn”.
Dạy học một tác phẩm văn chương trước hết là dạy cho các em yêu và thích đã
sau đó mới dạy các em học. Để tạo sự hứng thú trước khi học văn bản thì các em
phải đọc tác phẩm, trước hết đọc để biết, đọc để có kiến thức và sau cùng là đọc
1

skkn


để hình thành nên kĩ năng sống. Và hơn hết là để kiểm tra,đánh giá khả năng
ứng dụng cách thức giúp học sinh tích cực chủ động phát hiện vấn đề xã hội
trong tác phẩm văn học vào hoạt động dạy học mơn ngữ văn, trên cơ sở đó đối
chiếu kết quả giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng để xác định tính đúng đắn
và mức độ thành cơng của đề tài.
Ở đây tôi chia sẻ với quý đồng nghiệp một kinh nghiệm nhỏ qua đề tài :
“Giúp học sinh phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm ‘ Chiếc thuyền ngồi
xa’”
1.3. Đối tượng nhiên cứu
Trong q trình giảng dạy từ chương trình lớp 10, 11, 12 có rất nhiều tác
phẩm thuộc thể loại truyện ngắn, nhưng trong đề tài này tơi đặc biệt chú trọng
chương trình lớp 12 và tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
là một minh chứng cho việc đã có sự trải nghiệm về đề tài.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên tương quan về mặt thể loại tôi đã đưa ra phương pháp nghiên
cứu:
Phương pháp thể nghiệm
Phương pháp phân tích
Phương pháp thống kê

Phương pháp tổng hợp
1.5. Những điểm mới của SKKN
Về mặt lí luận : Góp phần hồn thiện cơ sở lí luận về vận dụng giúp học
sinh phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học theo hướng phát triển năng
lực học sinh .
Về mặt thực tiễn: bồi dưỡng, nâng cao kiến thức và kĩ năng sư phạm cho
giáo viên, góp phần để giáo viên phát huy, phát triển các phương pháp giảng dạy
tích cực, đồng thời đánh giá được năng lực người học. Cách dạy học văn như
vậy tạo nên sự sinh động, hấp dẫn đối với học sinh, có ưu thế trong việc tạo ra
động cơ, hứng thú học tập cho học sinh.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong tổng hòa các mối quan hệ của văn học, trước tiên, ta khẳng định
tác phẩm văn học là một tấm gương phản chiếu cuộc sống. Tác phẩm văn học
thốt thai từ q trình nhà văn khám phá, lí giải cuộc sống rồi chuyển hóa những
hiểu biết đó vào nội dung tác phẩm. Ở đó qua lăng kính nghệ thuật nhà văn trực
tiếp hay gián tiếp chuyển tải những vấn đề xã hội vào trong tác phẩm văn
chương. Cho nên văn học là cuộc sống, gần gũi và gắn bó với mỗi người. Vì vậy
đọc văn là hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức của con người. Văn học
2

skkn


giúp người đọc nhận thức rõ về bản thân mình. Văn học giúp phản ánh hiện thực
để đem lại những kiến thức mênh mông về đời sống vật chất lẫn tinh thần của
con người. Bởi thế mà có người cho rằng văn học chẳng khác gì bách khoa tồn
thư của cuộc sống. Bên cạnh đó, chức năng nhận thức của văn học còn thể hiện
ở việc giúp người đọc tự nhận thức về bản thân mình. Những câu hỏi về sự tự
nhận thức bản thân cũng được văn học giải đáp một cách chi tiết nhất.  Đồng

thời giúp con người hiểu được từ chính cuộc đời người khác, mỗi người đọc có
thể liên hệ, tự so sánh, đối chiếu để hiểu bản thân mình hơn với tư cách là một
con người cá nhân.
Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, nhà văn khi phản ánh hiện thực cuộc
sống thông qua tác phẩm văn học, dù trực tiếp hay gián tiếp bao giờ cũng bộc lộ
một thái độ tư tưởng, tình cảm, một sự nhận xét, đánh giá của mình, … như vậy,
tất cả đều sẽ tác động đến người đọc. Bởi con người ta nhận thức không chỉ để
nhận thức mà nhận thức là để hành động. Con người không chỉ có nhu cầu hiểu
biết mà cịn có nhu cầu hướng thiện, khao khát một cuộc sống tốt lành. Chính vì
vậy văn học có khả năng đem đến cho người đọc những bài học quý giá về lẽ
sống để họ tự rèn luyện bản thân mình ngày một tốt đẹp hơn.Về tư tưởng, văn
học hình thành trong người đọc một lí tưởng tiến bộ, giúp cho học có thái độ và
quan điểm đúng đắn về cuộc sống. Về tình cảm, văn học giúp con người trở nên
lành mạnh, trong sáng, cao thượng hơn. Về đạo đức, văn học nâng đỡ cho nhân
cách của con người phát triển, giúp cho học biết phân biệt phải – trái, tốt - xấu,
đúng - sai, có quan hệ tốt đẹp và biết gắn bó cuộc sống của cá nhân mình với
cuộc sống của mọi người. Do đó, có thể nói, văn học đã góp phần ni dưỡng
tâm hồn, trí tuệ, tình cảm đạo đức cho con người bằng cách tập cho người đọc
một thói quen cảm thụ tinh tế, mài sắc cho họ cảm quan nhận thức, khả năng
nhận ra cái chân, cái thiện, cái mỹ trong đời sống bộn bề. Từ chỗ say mê, xúc
động mãnh liệt, văn học làm cho con người nhận ra lẽ phải- trái, cái đúng- sai,
nhận ra sự lầm lạc. Bởi thế, cần khẳng định rằng, mục đích của văn học khơng
phải là đạo đức, mục đích của nó là chuẩn bị cho con người tiếp thu đạo đức
Tuy nhiên, nói đến chức năng giáo dục của văn học khơng có nghĩa chỉ bó
hẹp trong vấn đề giáo dục đạo đức xã hội, giáo dục lập trường tư tưởng, không
phải là sự lên lớp về các nguyên tắc, quy phạm đạo đức mà phần việc này đã có
bộ mơn Đạo đức, các trường tuyên huấn đảm nhận. Giáo dục ở văn học chính là
tạo nên những giá trị tinh thần, bồi dưỡng tâm hồn và tình cảm, xây dựng nhân
cách và bản lĩnh cho mọi thế hệ cơng dân, góp phần tạo nên môi trường đạo đức
3


skkn


xã hội trong sáng, lành mạnh, có văn hóa. Quan niệm cho rằng văn học chỉ là vũ
khí, là cơng cụ của công tác tư tưởng, quan niệm chức năng giáo dục là lên lớp
thuyết lý đạo đức đều đã rất cũ kĩ, duy ý chí và khơng đúng với thực tế đặc thù
của đời sống văn học.
Tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng nhằm khơi dậy cuộc đấu tranh, sự vật
lộn bên trong ấy. Nó là tấm gương để con người tự soi mình, tự đối chiếu và
phán xét về người khác cũng như về chính bản thân mình. Bằng cách đó, văn
học chuyển q trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Ở đây, sự thuyết
phục từ bên ngoài chuyển dần thành tự thuyết phục. Giáo dục của văn học nghệ
thuật do vậy khơng có tính chất cưỡng bức mà là một hoạt động tự giác. Không
ai bắt mình phải làm theo những điều nhà văn mong muốn, những lời nhân vật
kêu gọi, nhưng khi tiếp nhận tác phẩm, tất cả những điều hay dở, tùy thuộc vào
quá trình nhận thức và khả năng tự đấu tranh ở mỗi người, thấm dần một cách tự
nhiên và dễ dàng vào người đọc. Rồi một lúc nào đó, họ làm theo những điều
hay dở ấy lúc nào không biết. Khơng phải ngẫu nhiên, khi nói đến chức năng
giáo dục của văn học, người ta hay nói đến giáo dục đạo đức. Đây là một trong
những mục tiêu tác động chính của tác phẩm văn học đối với đời sống con
người. Nghệ thuật thời nào cũng vậy, ln ln có xu hướng khuếch đại cái tốt
để nó trở nên đẹp đẽ, lộng lẫy hơn, từ đó lơi cuốn, hấp dẫn mọi người, làm cho
mọi người tin rằng trên đời bao giờ cũng cịn có cơng lý, lương tri, bao giờ cũng
có người tốt, khơi dậy ở mỗi người khát vọng vươn tới cái lí tưởng, muốn noi
gương, bắt chước làm theo điều thiện, điều hay. Vì vậy, trong văn học nghệ
thuật không bao giờ thiếu cái đẹp, thiếu chất lý tưởng, thiếu chất anh hùng, lãng
mạn, thiếu nhân vật tích cực. Đồng thời nhà văn cũng phóng đại cái xấu, làm
cho nó trở nên ghê tởm và đáng ghét, phủ định nó, trước là trong tác phẩm và
sau là trong chính cuộc đời.

Từ cơ sở những giá trị nêu trên của văn học, đặc biệt là giá trị giáo dục,
tôi đề xuất cách thức giúp học sinh tích cực, chủ động phát hiện vấn đề xã hội
trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Nguyễn Minh Châu nhằm
nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn, nhất là hiệu quả giáo dục nhân
cách học sinh thông qua tác phẩm văn học cụ thể.

4

skkn


2.2 Thực trạng của việc dạy học giúp học sinh tích cực, chủ động phát
hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn
Minh Châu.
a. Cách thức khảo sát thực trạng:
Đi và thực hiện đề tài, tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng của việc dạy học
giúp học sinh phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm văn chương ở trung học
phổ thông bằng nhiều cách như: Dự giờ thăm lớp, phỏng vấn giáo viên, thăm dò
ý kiến giáo viên và học sinh, dùng phiếu trả lời trắc nghiệm…
b. Những biểu hiện cụ thể của thực trạng:
* Về phía giáo viên:
Đa số giáo viên đều có ý thức trong việc đổi mới phương pháp dạy học và
vận dụng nó trong giờ dạy học mơn Ngữ văn nói chung. Về việc vận dụng cách
thức giúp học sinh phát hiện vấn đề xã hội trong giờ học tác phẩm văn chương,
phần đông giáo viên nhận thức được rằng đây là một trong những yêu cầu quan
trọng phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh góp phần đáng kể vào
việc nâng cao chất lượng dạy và học văn.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều giáo viên cịn nặng về diễn giảng, đơi lúc say
sưa “độc tấu” hoặc hỏi rồi tự trả lời khiến bài học trở nên đơn điệu, chưa tạo
được niềm say mê, hứng thú và hấp dẫn học sinh trong giờ học.

 - Ở một số bài, do phân phối thời gian chưa hợp lí nên phần củng cố và
dặn dị cịn qua loa đại khái.
 - Hoặc có hướng dẫn cho học sinh nhưng cịn sơ sài ví dụ như: học theo
câu hỏi sách giáo khoa, xem bài tiếp theo
 
- Việc hướng dẫn học sinh soạn bài mới, tài liệu ở nhà chưa cụ thể, chưa
định hướng được cho các em phần nào là quan trọng, phần nào cần sơ lược.
* Về phía học sinh:
Học sinh hầu như chỉ tái hiện kiến thức một cách thụ động, rất ít sáng tao
trong các tình huống cụ thể của bài học. Vì thế, trong giờ đọc- hiểu phần lớn
hoạt động của học sinh chỉ dừng lại ở mức độ nghe giảng ghi chép. Các em ngại
phát biểu xây dựng bài, khi được giá viên mời trả lời thường lúng túng. Giờ văn
vì thế mà trở nên nặng nề, mệt mỏi dẫn đến kết qủa học tập chưa cao.
Mặt khác, với tâm lí xem nhẹ tầm quan trọng của môn Ngữ văn, Nhiều
học sinh rất lười đọc tác phẩm, điều đáng nói dù khơng đọc tác phẩm nhưng học
sinh vẫn làm bài tập và soạn bài trước khi đến lớp. Bởi đã có rất nhiều loại sách
5

skkn


tham khảo và các em phụ thuộc vào quá nhiều sách tham khảo chỉ chép ra và tạo
sức ì cho học sinh về mặt tư duy và tâm lí tiếp nhận văn bản.
* Kết luận:
Từ việc tìm hiểu thực trạng dạy học Ngữ văn ở trường trung học phổ
thơng nói chung và thực trạng của việc vận dụng cách thức giúp học sinh tích
cực chủ động phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm văn chương nói riêng, tơi
xác định nhiệm vụ trọng tâm của đề tài là:
Thứ nhất là, tìm ra biện pháp khắc phục tình trạng học sinh học tác
phẩm văn học mà không đọc tác phẩm bằng cách hướng dẫn các em chuẩn bị

bài ở nhà theo hệ thống đã cho sẵn tạo sự hứng thú và phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh, lĩnh hội được tác phẩm văn học rất gần với
hoàn cảnh sống của các em.
Thứ hai là, Làm thế nào để tổ chức giờ dạy đọc- hiểu có hiệu quả cao
hơn, khiến học sinh hứng thú với bài học hơn, biết cách liên hệ với các vấn đề
trong thực tế xã hội từ đó nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện.
2.3.1. Giải pháp
* Đối với giáo viên:
- Hướng dẫn học sinh cách thức làm việc.
- Xác định những vấn đề xã hội trọng tâm được phản ánh trong tác phẩm, hệ
thống câu hỏi, dự kiến nội dung trả lời của học sinh để có thể chủ động xử lí tình
huống.
- Dự kiến thời gian thực hiện.
- Cách thức cho điểm, khen ngợi, khích lệ, động viên học sinh tham gia phát
biểu, thảo luận.

* Đối với học sinh:
- Nắm vững cách thức thực hiện.
- Tiếp nhận tác phẩm văn học ( Đọc kĩ văn bản, nắm được về giá trị nội dung
nghệ thuật của tác phẩm,… )
- Phát hiện những vấn đề xã hội trọng tâm được phản ánh trong tác phẩm.
- Bày tỏ ý kiến cá nhân về những vấn đề đó dưới dạng đề cương.
- Chuẩn bị phát biểu tranh luận trước lớp.

6

skkn



2.3.2. Cách thức tiến hành
Bước một: Giáo viên cho học sinh nêu vấn đề xã hội mà các em đã phát hiện
trong quá trình chuẩn bị bài ở nhà và tìm hiểu tác phẩm trên lớp. Nếu học sinh
chưa nêu được những vấn đề xã hội trọng tâm theo yêu cầu, giáo viên có thể đặt
ra hệ thống câu hỏi định hướng, gợi mở vấn đề.
Bước hai: Sau khi học sinh đã nêu ra được những vấn đề xã hội trọng tâm
được phản ánh trong tác phẩm văn học, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận
và trình bày ý kiến của bản thân về vấn đề đó trước lớp.
Bước ba: Giáo viên nhận xét, đánh giá, cho điểm phần trình bày của học
sinh.
* Vận dụng cụ thể trong bài học Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn
Minh Châu
Bước 1. Yêu cầu học sinh nêu vấn đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm mà
các em đã phát hiện ra. Giáo viên cũng có thể định hướng bằng cách kết hợp
nhiều hình thức nêu vấn đề theo từng nhân vật. Cụ thể như sau:
a. Nhân vật người đàn ông
-Giáo viên có thể nêu vấn đề theo kiểu trao đổi và tổ chức cho học sinh
đàm thoại với nhau để nhận thức vấn đề sâu sắc hơn. Hình thức nêu vấn đề như
thế này tạo khơng khí dân chủ, thân thiện trong lớp học, giúp học sinh tư duy
độc lập từ đó thúc đẩy nhanh q trình nhận thức.
+ Tại sao người đàn ông không dùng cách khác để giải quyết bi kịch của
mình mà trút nỗi bực dọc vào việc đánh vợ rất tàn nhẫn?
+ Tác giả muốn gửi gắm thơng điệp gì qua nhân vật này?
b. Nhân vật người đàn bà hàng chài
- Giáo viên nêu vấn đề theo kiểu tái hiện kết hợp với suy lí để học sinh
nhận biết đặc điểm ngoại hình và phát hiện về số phận và tính cách qua ngoại
hình nhân vật:
+ Ngoại hình nhân vật người đàn bà góp phần hé mở số phận như thế
nào?
- Giáo viên tiếp tục nêu vấn đề theo kiểu giả định hoặc cho học sinh hóa

thân vào nhân vật để hiểu nhân vật hơn:
7

skkn


+ Giả sử là người đàn bà hàng chài bị chồng đánh đập như thế, anh
( chị) sẽ phản ứng như thế nào?
+ Giả sử được trực tiếp gặp người đàn bà ở tòa án huyện cùng với Đẩu và
Phùng, anh ( chị) hãy phát biểu cảm nghĩ của mình về câu chuyện của người đàn
bà?
- Giáo viên có thể nêu vấn đề theo kiểu khái quát:
+ Thông điệp nhà văn muốn gửi đến độc giả qua nhân vật người đàn bà là
gì?
c. Nhân vật Bé Phác
- Giáo viên cho học sinh nêu cảm nghĩ về hành vi của Phác đối với bố?
- Cho học sinh hóa thân vào nhân vật để nêu cảm xúc và suy nghĩ của
Phác khi thấy mẹ bị bố hành hạ, sau hành động đánh lại bố và lúc lau nước mắt
cho mẹ?
- Cho học sinh tưởng tượng cách ứng xử khác của Phác?
- Suy nghĩ về nạn bạo hành gia đình?
- Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh đóng vai để nói lên tiếng nói tự
bên trong của nhân vật?
- Nỗi lo âu đầy trách nhiệm của nhà văn qua nhân vật bé Phác là gì?
d. Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
- Giáo viên cho học sinh hóa thân vào nhân vật Phùng để nói lên cảm xúc
khi chứng kiến cảnh bạo hành của gia đình hàng chài
- Qua nhân vật Phùng tác muốn người đọc nhận thức gì về cách nhìn cuộc
sống và mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời?
e. Chánh án Đẩu

- Giáo viên nêu vấn đề kiểu phỏng đoán, kết quả phỏng đoán được kiểm
nghiệm theo hệ thống hỏi- đáp
+ Anh (chị) hãy phỏng đoán chánh án Đẩu đang suy nghĩ gì và đã “vỡ ra’
điều gì khi nghe xong câu chuyện của người đàn bà?
+ Bài học rút ra từ nhân vật Đẩu?
Bước hai: Sau khi học sinh phát hiện ra vấn đề xã hội rút ra từ tác phẩm,
giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhanh và phát biểu ý kiến về vấn đề đó
trước lớp .
Bước ba: Giáo viên nhận xét, đánh giá ý kiến phát biểu của học sinh. Và
8

skkn


có thể nhấn mạnh một số ý sau:
a.Người đàn ơng xuất hiện trong vẻ độc dữ gây ác cảm với mọi người
Ngoại hình: “ Tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. mái
tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước những bước chắc chắn, hàng lông mày
cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm
lưng áo bạc phếch và rách dưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà”.
Hành vi: “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút trong
người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, có vẻ như những điều phải
nói với nhau họ đã nói hết,chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy
bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà , lão vừa
đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống
lão lại nguyền rủa bằng cái giọng đau đớn…”
Có lẽ cuộc sống đói nghèo, vất vả, quanh quẩn bao nhiêu lo toan đã biến
“anh con trai cục tính nhưng hiền lành” xưa trở thành một người chồng vũ phu,
một lão đàn ông độc ác. Cứ khi nào thấy khổ là lão đánh vợ, đánh như để giải
tỏa uất ức, để trút sạch nỗi tức tối, buồn phiền. Trong đời vẫn có những kẻ như

thế, nói như Nam Cao chỉ để thỏa mãn lịng ích kỉ, chúng tự cho mình cái quyền
được hành hạ người khác để giải tỏa những bực dọc trong lịng. Người đàn ơng
này vừa đáng bị lên án bởi sự độc ác, thói vũ phu, tính ích kỉ nhưng ở anh ta có
chỗ để cảm thơng, chia sẻ bởi xét đến cùng anh ta cũng chỉ là một nạn nhân của
cuộc sống khắc nghiệt. Trong sự bủa vây của nghèo đói, muốn đưa gia đình
thốt khỏi bi kịch nhưng điều kiện làm ăn sinh sống không thuận lợi, bản thân
không đủ năng lực người đàn ông đã không trộm cắp, cờ bạc…mà chỉ chọn cách
hành hạ vợ. Phải chăng đó là dấu hiệu của trách nhiệm với cuộc đời? Và, phải
chăng khuất lấp bên trong vẻ độc dữ của người đàn ông là một đốm sáng của
nhân cách?
Từ đó tác giả gửi đến một thơng điệp: khơng thể nhìn người, nhìn đời một
phía, phải tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa dẫn đến hành vi con người trước
khi kết luận về tính cách hay phán xét họ; phải làm sao để nâng cao phần thiệncái phần người trong những kẻ thơ bạo ấy.
Nguyễn Minh Châu muốn nói đến một cuộc chiến mới khơng kém phần
khó khăn gian khổ so với hai cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược đã qua:
Cuộc chiến đấu bảo vệ nhân tính, thiên lương và vẻ đẹp tâm hồn con người hơn
9

skkn


thế nữa nhà văn luôn thể hiện niềm tin ở con người, ln tìm kiếm để khẳng định
các giá trị nhân bản bền trong việc hướng con người đến tới sự thức tỉnh, sự
nhận thức để hoàn thiện nhân cách.
Qua chi tiết Phùng chứng kiến gã đàn ông đánh vợ bằng chiếc thắt lưng
của lính ngụy, ở nơi có chiếc xe tăng hỏng của Mĩ Ngụy có lẽ Nguyễn Minh
Châu muốn kí thác một điều: khơng phải hễ cứ đánh đuổi được ngoại xâm, giải
phóng được dân tộc là có thể giải phóng được con người, lại càng khơng thể
đem vinh quang của quá khứ mà bào chữa cho thực tại cịn đầy khó khăn. Tàn
dư của xã hội cũ vẫn cịn đó trong nạn bạo hành gia đình. Kết thúc tác phẩm là

sự bỏ lửng, nó nhấn sâu hơn bức thông điệp khắc khoải, đau đáu về số phận con
người sau chiến tranh. Rằng: cuộc chiến chống đói nghèo, lạc hậu cịn diễn ra
dai dẳng. Nó cũng khốc liệt chẳng khác gì cuộc chiến chống ngoại xâm vừa
qua.
b. Nhân vật người đàn bà hàng chài
-“ Người đàn bà làng chài là một phụ nữ xấu: “Dáng người cao lớn, mụ bị
rỗ mặt”- dấu tích của căn bệnh đậu mùa; đã thế lúc nào xuất hiện cũng với “vẻ
mặt mệt mỏi và dường như đang b̀n ngủ”.
- Ngoại hình: gây ấn tượng và gợi cho ta một cuộc đời đầy vất vả. trạc
ngồi bốn mươi, thân hình thơ kệch, mặt rỗ lúc nào cũng mệt mỏi, tái nhợt.
Dưới cái vẻ bề ngồi thơ kệch, thậm chí xấu xí lại là một sức sống bền bỉ,
một tâm hồn đầy tình thương và giàu đức hy sinh: khi bị chồng đánh không
chống trả, khơng tìm cách chạy trốn, nhất quyết gắn bó với người đàn ông vũ
phu dù bị “ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.
Nhưng yếu tố quyết định làm cho người đàn bà ấy đẹp và cao quí trong
lòng người đọc lại là phẩm chất bên trong. Mọi sự cam chịu của người phụ nữ
trước những hành động vũ phu của người chồng chính là để chắt chiu những hạt
hạnh phúc nhỏ nhoi, bình dị trong đời thường. Vấn đề xã hội đặt ra ở người đàn
bà làng chài đó chính chính là phẩm chất hy sinh vị tha, yêu thương chồng con
của người phụ nữ Việt Nam xưa và nay.
Thông qua câu chuyện cuộc đời của người đàn bà, nhà văn muốn gửi đến
thông điệp: Khơng thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện
10

skkn


tượng cuộc sống. Đây chính là hình tượng nhân vật ám ảnh nhất trong các nhân
vật của thiên truyện.
-Người đàn bà là biểu tượng nghệ thuật đầy ám ảnh mà Nguyễn Minh

Châu muốn truyền tải tư tưởng nhân đạo qua tác phẩm.
+ Niềm thương cảm, thấu hiểu, chia sẻ trước số phận vất vả của kiếp
người đói nghèo, bế tắc bị cầm tù trong những nỗi đau thể xác và tinh thần.
+ Phát hiện những vẻ đẹp đời thường mà nhân văn trong mỗi con người,
trân trọng những phẩm chất đáng quý ở họ.
c. Bé Phác
- Phác đáng trách ở hành vi đối với bố, đáng mến ở tình thương mẹ dào
dạt, đáng thương xót bởi phải chịu cảnh bạo hành gia đình.
-Vấn đề xã hội được đặt ra ở đây đó chính là trách nhiệm của cha mẹ đối
với con cái, cụ thể ở đây là tình trạng bạo hành gia đình:
+ Đề cập tình trạng bạo lực trong gia đình cậu bé Phác, nhà văn đã dấy lên
trong lòng người đọc nỗi lo âu đầy trách nhiệm về tình trạng phụ nữ và trẻ em
bị ngược đãi, về nguy cơ trẻ em sớm nhiễm thói vũ phu, thơ bạo do bị tổn
thương tâm hồn, đánh mất niềm tin vào cuộc sống đồng thời kêu gọi mọi người
hãy bảo vệ trẻ em, chống nạn bạo hành gia đình và trách nhiệm của cha mẹ đối
với con cái. Cha mẹ sinh ra con cái phải có trách nhiệm đối với chúng – cho
chúng một khơng khí gia đình hịa thuận hạnh phúc, ni dạy chúng nên người,
khơng vì hạnh phúc, sự ích kỉ cá nhân mà làm gia đình tan vỡ, làm tổn hại tâm
hồn và tương lai của con trẻ. Nhà văn cũng chỉ ra một nguy cơ đáng sợ: Nếu
khơng giải phóng con người khỏi đói nghèo, tăm tối thì khơng thể tiêu diệt được
các ác.
d. Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng
Qua nhân vật Phùng, tác giả muốn người đọc nhận thức rằng: cuộc đời
không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí. Cuộc sống ln tồn
tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn: xấu- đẹp, thiện- ác…khi nhìn nhận,
đánh giá con người và sự vật, hiện tượng trong cuộc sống không nên nhầm lẫn
hiện tượng với bản chất, hình thức bên ngồi với nội dung bên trong; đừng vội
đánh giá con người, sự vật, hiện tượng khi chưa thấu thị.
Mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống: Nghệ thuật không thể chỉ dừng
lại ở vẻ đẹp bề ngồi mà cịn phải thấu thị tới bề sâu, bề sâu của cuộc đời không

11

skkn


hề đơn giản mà tâm điểm chính là con người với số phận đa đoan, với ,mọi nhọc
nhằn và cả khổ đau, không hiếm những ngang trái bi kịch. Hành trình của gia
đình kì lạ kia đã phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu và hạnh phúc, về
lòng nhân ái và sự khoan dung.
e. Chánh án Đẩu: Nhận thức vấn đề xã hội qua nhân vật Đẩu
- Đẩu có lịng tốt, sẵn sàng bảo vệ cơng lí nhưng anh chưa thực sự đi sâu
vào đời sống nhân dân. Lòng tốt đáng quý nhưng chưa đủ. Luật pháp là cần
thiết nhưng cần phải đi sâu vào đời sống. Cả lòng tốt và luật pháp đều phải
được đặt vào những hồn cảnh cụ thể, khơng thể áp dụng cho bất kì đối tượng
nào. Con người cần phải vượt lên, từ bỏ cái nhìn và lối nghĩ đơn giản để nhìn
thấu cái phức tạp đa đoan của hiện thực cuộc đời cịn khơng ít những nghịch lí
và từ bỏ ảo tưởng về sự thay đổi dễ dãi cuộc sống con người sau chiến tranh.
* Tóm lại: Qua giờ dạy thực nghiệm tôi nhận thấy rằng việc vận dụng
cách thức giúp học sinh tích cực chủ động phát hiện vấn đề xã hội trong tác
phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu nói riêng và giờ đọc- hiểu
ở nhà trường trung học phổ thơng nói chung là hồn tồn có thể thực hiện được.
Điểm trung bình cộng của lớp thực nghiệm cao hơn điểm trung bình cộng của
lớp đối chứng. Điều này cho phép ta kết luận: Những kết quả của cách thức giúp
học sinh tích cực, chủ động phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm Chiếc
thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu theo chiều hướng đề xuất của đề tài đã
góp phần tạo tâm thế và hứng thú cho học sinh trong tiết học, giúp khơng khí
học tập sinh động. Đây cũng là phương thức đối thoại giữa học sinh với nhà
văn, giữa học sinh với giáo viên và học sinh với học sinh, rèn luyện kĩ năng diễn
đạt và tranh luận… giúp học sinh thấy tác phẩm văn học không tách rời hiện
thực cuộc sống mà rất gần gũi, gắn bó với cuộc sống từ đó giúp các em rèn

luyện kĩ năng làm văn nghị luận xã hội. Điều này thực sự góp phần nâng cao
chất lượng học tập môn Ngữ văn của học sinh.
2.4 Hiệu quả của SKKN
2.4.1. Kiểm nghiệm
Tôi kiểm nghiệm hiệu quả của việc triển khai sáng kiến kinh nghiệm bằng
thực nghiệm sư phạm và đánh giá kết quả thực nghiệm.
12

skkn


*Tổ chức dạy học kiểm nghiệm 1 tiết
- Tôi tiến hành dạy thực nghiệm theo hướng đã trình bày như trên, tiến
trình bình thường, đảm bảo tính khách quan
- Kiểm tra đánh giá chất lượng học sinh sau giờ dạy: Cả hai lớp thực
nghiệm và đối chứng có cùng một đề kiểm tra và đáp án. Tôi trực tiếp
chấm bài kiểm tra và xử lí bằng phương pháp tốn học.
* Đánh giá kết quả kiểm nghiệm:
- Căn cứ vào không khí giờ học ( sơi nổi chủ động hay im lặng thụ động)
- Căn cứ vào phản ứng của học sinh trước tình huống có vấn đề ( học sinh
tỏ
ra phấn khởi hào hứng hay thờ ơ)
- Căn cứ vào dung lượng kiến thức được chuyển tải trong tiết học
- Căn cứ vào mức độ tư duy của học sinh ( hăng hái tham gia trao đổi thảo
luận hay chậm chạp, khơng linh hoạt)
* Đối với lớp học:
- Khơng khí lớp học: Khi GV đưa ra dự án và yêu cầu các nhóm thảo luận
để hồn thành mục tiêu bài học thì các em rất sơi nổi và hào hứng tranh luận,
nêu ý kiến để hoàn thiện dự án; Rất tích cực, hào hứng tham gia dự án, mạnh
dạn, nhiệt tình đi điều tra; Thảo luận, tranh biện để rút ra kết luận của nhóm

mình, đồng thời mạnh dạn trình bày kết quả, hồi hộp chờ đợi sự đánh giá của
giáo viên. Đặc biệt các em đều thấy rất hứng thú với việc mở rộng kiến thức
thực tế; thấy yêu mơn Văn hơn vì nó thiết thực với cuộc sống hơn… Mỗi tiết
học qua đi thật nhẹ nhàng, thoải mái nhưng vẫn hiệu quả với cả thầy và trò.
+ Về kiến thức: kết quả dự án thể hiện học sinh  không chỉ nắm bắt được
những nội dung kiến thức mà còn hiểu rộng hơn, sâu hơn nhiều vấn đề. Tự phát
hiện và giải quyết các vấn đề trong nội dung kiến thức.
– Kĩ năng sống của các em được nâng cao rõ rệt: Kĩ năng làm việc nhóm;
kĩ năng giao tiếp; phương pháp xử lí tình huống, số liệu…
          – Đặc biệt, với những kiến thức được cung cấp theo phương pháp dạy học
mới, học sinh sẽ dễ dàng áp dụng những gì từ tác phẩm văn chương vào trong
thực tiễn cuộc sống, làm thay đổi khá nhiều những nhận thức, tư tưởng, tình
cảm, thái độ của các em với mong muốn làm cuộc sống này trở nên tốt đẹp,
nhân văn hơn.
13

skkn


* Đối với giáo viên :Góp phần giúp giáo viên nắm vững kĩ năng sư phạm,
nhạy bén, xử lí tình huống hợp lí, có sự định hướng, nhận xét và đánh giá thỏa
đáng, điều chỉnh, uốn nắn những quan niệm, cách nghĩ, cách hiểu lệch lạc, sai
quỹ đạo chung, đồng thời, động viên khen ngợi, thưởng điểm cho những học
sinh đúng lúc sẽ giúp các em hứng thú, chủ động, tích cực hơn trong việc học
văn.
* Đối với đồng nghiệp, nhà trường: Góp phần tạo tăng sự liên kết, tiếng
nói chung, trao đổi giữa bản thân đồng nghiệp, giúp đóng góp cho nhà trường
những phương pháp dạy học đổi mới, tăng hiệu quả dạy học, giúp học sinh phát
triển các kĩ năng.
- Kết quả thực nghiệm

Bảng đánh giá tổng hợp kết quả bài kiểm tra của học sinh lớp đối chứng (ĐC)
và lớp thực nghiệm (TN)
Đối
tượng

Điểm bài kiểm tra
Điểm 1-2

Điểm 3-4

Điểm 5-6

Điểm 7-8

Điểm 9-10

SL

%

SL

%

SL

%

SL


%

SL

%

TN
90 HS

00

00

8

11.6

40

47.2

30

40

10

5.1

ĐC

90 HS

5

5.3

19

20.3

49

55

12

20.5

4

2.5

* Bảng điểm cho thấy:
- Ở lớp thực nghiệm:
+ Tỉ lệ bài đạt điểm khá, giỏi cao hơn so với lớp đối chứng ( TN: 39.5% > ĐC:
19,3%).
+ Số học sinh trung bình và yếu giảm xuống, đặc biệt tỉ lệ học sinh yếu giảm
đáng kể ( TN: 11,6% < ĐC: 20,3%).
+ Đa phần đạt bài trung bình trở lên. Khơng có điểm 0,1,2
* Tóm lại: Qua giờ dạy thực nghiệm tôi nhận thấy rằng việc vận dụng cách

thức giúp học sinh tích cực chủ động phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm
Chiếc thuyền ngồi xa của Nguyễn Minh Châu nói riêng và giờ đọc- hiểu ở nhà
trường trung học phổ thơng nói chung là hồn tồn có thể thực hiện được. Điểm
14

skkn


trung bình cộng của lớp thực nghiệm cao hơn điểm trung bình cộng của lớp đối
chứng. Điều này cho phép ta kết luận: Những kết quả của cách thức giúp học
sinh tích cực, chủ động phát hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm Chiếc thuyền
ngoài xa của Nguyễn Minh Châu theo chiều hướng đề xuất của đề tài đã góp
phần tạo tâm thế và hứng thú cho học sinh trong tiết học, giúp khơng khí học tập
sinh động. Đây cũng là phương thức đối thoại giữa học sinh với nhà văn, giữa
học sinh với giáo viên và học sinh với học sinh, rèn luyện kĩ năng diễn đạt và
tranh luận… giúp học sinh thấy tác phẩm văn học không tách rời hiện thực cuộc
sống mà rất gần gũi, gắn bó với cuộc sống từ đó giúp các em rèn luyện kĩ năng
làm văn nghị luận xã hội. Điều này thực sự góp phần nâng cao chất lượng học
tập mơn Ngữ văn của học sinh.
3. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
3.1.1 Để có thể tổ chức hiệu quả những tiết dạy học tác phẩm văn chương
theo cách thức giúp học sinh chủ động tích cực phát hiện những vấn đề xã hội
trong tác phẩm văn học, giáo viên cần lưu ý một số vấn đề sau :
Mỗi tác phẩm văn chương nghệ thuật chứa đựng những hình tượng nghệ
thuật đa nghĩa, phản ánh nhiều vấn đề xã hội khác nhau. Vì vậy trước hành động
tích cực tiếp nhận của người đọc, nó hiện lên như một cấu trúc vừa ổn định vừa
biến đổi của những hình ảnh mang ý nghĩa thẩm mĩ. Nội dung ý nghĩa của tác
phẩm là một hệ thống mở đối với những cách lí giải khác nhau. Cho nên mỗi sự
phát hiện, cắt nghĩa, lí giải đúng đắn, hợp lí về ý nghĩa tác phẩm đều có khả

năng mang lại cho học sinh những tác động ảnh hưởng nhất định, tạo nên hệ quả
đa chiều. Vì vậy trong giờ đọc văn, giáo viên cần tránh giới hạn, gò ép vào một
kết quả diễn giảng duy nhất, vào quan điểm, ý đồ của nhà văn mà cần gợi ra
cho học sinh nhiều chiều hướng lí giải khác nhau về ý nghĩa tác phẩm. Đặc biệt
cần tránh tình trạng chỉ chú trọng khai thác khía cạnh xã hội mà khơng có sự
đầu tư thỏa đáng cho việc tiếp nhận những giá trị khác của tác phẩm văn học.
Ngoài ra, việc tiếp nhận văn học của học sinh bao giờ cũng vừa mang tính
cá nhân gắn liền với cảm xúc, vốn sống, thị hiếu, trình độ, tâm lí riêng của từng
cá thể lại vừa mang tính tập thể xã hội, thể hiện sự gặp gỡ, quan điểm chung,
tiếng nói hòa đồng của tập thể lớp. Cho nên giáo viên cần phải tác động và xử lí
15

skkn


thơng qua các định hướng sư phạm thích hợp, tinh tế nhằm cân bằng ở chừng
mực nhất định, tạo ra được sự nhất trí thỏa đáng trên tinh thần chung của lớp
học, đồng thời nhấn mạnh và phát huy tính tích cực sáng tạo, năng động chủ
quan của học sinh. Muốn vậy, giáo viên cần có những định hướng cho từng đối
tượng học sinh, phải nhạy bén nắm bắt, kích thích và phát huy tính sáng tạo của
các em, khơi gợi các hoạt động bên trong của mỗi học sinh để các em tiếp nhận
tác phẩm, tự tin và hào hứng phát biểu ý kiến, bộc lộ cái riêng của mình.
Trong quá trình dạy học, giáo viên cần vận dụng nhiều phương pháp, nhất
là phương pháp đối thoại, thảo luận nhóm, … tạo khơng khí học tập nhẹ nhàng,
linh hoạt, thân thiện nhưng vẫn bảo đảm hiệu quả sư phạm, phát huy được tối đa
tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập. Mặt khác, việc giáo viên
nhận xét, đánh giá ý kiến phát biểu của học sinh cũng hết sức quan trọng. Nó là
một trong những yếu tố tạo hứng thú học tập cho học sinh, tác động trực tiếp
đến hiệu quả giáo dục. Vì vậy giáo viên cần nắm vững kĩ năng sư phạm, nhạy
bén, xử lí tình huống hợp lí, có sự định hướng, nhận xét và đánh giá thỏa đáng,

điều chỉnh, uốn nắn những quan niệm, cách nghĩ, cách hiểu lệch lạc, sai quỹ
đạo chung, đồng thời, động viên khen ngợi, thưởng điểm cho những học sinh
đúng lúc sẽ giúp các em hứng thú, chủ động, tích cực hơn trong việc học văn.
3.1.2. Qua việc thực hiện đề tài, tôi mạnh dạn đề xuất một vài ý kiến sau:
Thống nhất quan điểm giáo dục tích cực là dạy học phát huy tính chủ
động, sáng tạo của chủ thể học tập nhưng không nên tuyệt đối hóa vai trị của
học sinh mà coi nhẹ văn bản văn học và vai trị của giáo viên. Mơ hình dạy học
tối ưu là mơ hình tương tác nhiều chiều với ba điểm nhìn: Nhà văn, giáo viên và
học sinh
Khơng thể biệt lập hóa, chun biệt hóa phương pháp của các bộ mơn
vốn có những điểm giao thoa. Ví dụ: Có những điểm gần gũi giữa dạy học nêu
vấn đề của mơn Ngữ văn với thảo luận nhóm hay thuyết trình trong giờ học các
bộ mơn, khác chăng là ở tư liệu học tập.
Khơng có phương pháp, biện pháp dạy học nào là tối ưu, điều quan trọng là
trong quá trình tổ chức soạn giảng giáo viên phải biết lựa chọn kết hợp sao cho
các phương pháp, biện pháp phát huy được những thế mạnh của nó để đem lại
hiệu quả cao trong dạy học.
16

skkn


Cách thức dạy học giúp học sinh tích cực, chủ động phát hiện vấn đề xã
hội trong tác phẩm văn học cần được quan niệm một cách “mềm dẻo” hơn, sử
dụng một cách linh hoạt hơn để nó thực sự “là yếu tố cấu thành, là động lực cho
tiến trình giảng dạy môn Ngữ văn.
3.1.3. Tất cả những đề xuất của đề tài xuất phát từ những yêu cầu cơ bản
của việc đổi mới phương pháp dạy học văn trong nhà trường trung học phổ
thông hiện nay, là kết quả của sự tìm tịi học hỏi với quan niệm giáo viên là
động lực của quá trình đổi mới phương pháp. Tuy nhiên, những vấn đề mà tôi

đặt ra trong sáng kiến kinh nghiệm khó có thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì
vậy, tơi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn
đồng nghiệp để đề tài được phát triển và thực nghiệm trên diện rộng, nâng cao
hơn nữa giá trị thực tiễn.
3.2. Kiến nghị.
Qua việc thực hiện đề tài, tôi đề xuất một vài ý kiến sau:
Khơng có phương pháp, biện pháp dạy học nào là tối ưu, điều quan trọng
là trong quá trình tổ chức soạn giảng giáo viên phải biết lựa chọn kết hợp sao
cho các phương pháp, biện pháp phát huy được những thế mạnh của nó để đem
lại hiệu quả cao trong dạy học.
Thống nhất quan điểm giáo dục tích cực là dạy học phát huy tính chủ
động, sáng tạo của chủ thể học tập nhưng không nên tuyệt đối hóa vai trị của
học sinh mà coi nhẹ văn bản văn học và vai trị của giáo viên. Mơ hình dạy học
tối ưu là mơ hình tương tác nhiều chiều với ba điểm nhìn: Nhà văn, giáo viên và
học sinh
Cách thức dạy học giúp học sinh tích cực, chủ động phát hiện vấn đề xã
hội trong tác phẩm văn học cần được quan niệm một cách “mềm dẻo” hơn, sử
dụng một cách linh hoạt hơn để nó thực sự “là yếu tố cấu thành, là động lực cho
tiến trình giảng dạy môn Ngữ văn.

17

skkn


Tài liệu tham khảo
1. Chuẩn kiến thức – Kĩ năng lớp 12
2. Nghị luận xã hội – Phan Trọng Luận
3. Nghị luận xã hội – Bùi Thức Phước
4. Sách giáo khoa Ngữ văn 12

5. Sách giáo viên Ngữ văn 12
6. Tài liệu hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp THPT năm học 2012-2013
7. Thiết kế bài dạy Ngữ văn 12 tập 2 – Lưu Đức Hạnh (chủ biên)

Thanh Hóa, ngày 12 tháng 5 năm 2021
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác

Cao Thị Tuyết

18

skkn


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài......................................................................Trang 01
1.2. Mục đích nghiên cứu...............................................................Trang 01
1.3. Đối tượng nhiên cứu................................................................Trang 02
1.4. Phương pháp nghiên cứu.........................................................Trang 02
1.5. Những điểm mới của SKKN...................................................Trang 02
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lí luận của SKKN...........................................................Trang 02
2.2. Thực trạng của việc dạy học giúp học sinh tích cực, chủ động phát
hiện vấn đề xã hội trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh
Châu ………………..................................................................................Trang 04

2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện................................................Trang 06
2.4. Hiệu quả của SKKN............................................................... Trang 12
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận ...................................................................................Trang 15
3.2. Kiến nghị ................................................................................ Trang 17

19

skkn



×