Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Skkn một số giải pháp giúp học sinh lớp 3 nhận biết và vận dụng tốt phép so sánh tu từ trong phân môn luyện từ và câu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.27 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA
PHỊNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HẬU LỘC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP
GIÚP HỌC SINH LỚP 3 NHẬN BIẾT VÀ VẬN DỤNG
TỐT PHÉP SO SÁNH TU TỪ TRONG PHÂN MÔN
LUYỆN TỪ VÀ CÂU

Người thực hiện: Phạm Thị Na
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Hoa Lộc
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt

HẬU LỘC, NĂM 2021

skkn


MỤC LỤC
STT
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2


NỘI DUNG
TRANG
Mở đầu
1
Lí do chọn đề tài
1
Mục đích nghiên cứu
2
Đối tượng nghiên cứu
2
Phương pháp nghiên cứu
2
Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
3
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
3
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
4
nghiệm

2.3

Các giải pháp đã sử dụng để giúp học sinh nhận biết và
vận dụng tốt phép so sánh tu từ trong phân môn Luyện
từ và câu lớp 3

6

2.3.1.


Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa, phân
nhóm các dạng bài tập so sánh.
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu khái niệm, cấu trúc của
phép so sánh tu từ.
Giúp học sinh nắm vững các dạng bài tập về so sánh
Giúp học sinh củng cố kiến thức về biện pháp so sánh
qua hệ thống bài tập mở rộng
Dạy biện pháp so sánh tu từ tích hợp vào các mơn học
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết luận và kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

6

2.3.2.
2.3.3.
2.3.4.
2.3.5.
2.4
3
3.1
3.2

skkn

6
8
15
18

18
19
19
20


1-MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến phát
triển giáo dục. Mục tiêu giáo dục hiện nay là đào tạo con người Việt Nam phát
triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung
thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng
nhân cách, phẩm chất và năng lực của người công dân; phát huy tốt nhất tiềm
năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.[1]
Trong chương trình Tiểu học, Tiếng Việt là mơn học có vai trị hết sức
quan trọng, mơn học chiếm nhiều thời lượng nhất. Mơn Tiếng Việt ở Tiểu học
hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, viết,
nghe, nói) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.
Thông qua việc dạy học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy.
Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt ; về tự nhiên, xã
hội và con người ; về văn hoá, văn học của Việt Nam và nước ngồi. Bồi dưỡng
tình u tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của
tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa
cho học sinh.
Để đạt được mục tiêu trên, phân môn Luyện từ và câu đã góp phần khơng
nhỏ, ngồi việc củng cố về các mẫu câu và mở rộng vốn từ cho học sinh thì phân
mơn Luyện từ và câu cịn giúp các em làm quen với các biện pháp tu từ, trong
đó có biện pháp tu từ so sánh. Đây là mảng kiến thức rất mới đối với học sinh
lớp 3. Qua các bài học, các em sẽ nhận biết được các hình ảnh so sánh, các sự

vật được so sánh với nhau trong mỗi khổ thơ, mỗi đoạn văn. Các em cần phân
biệt được kiểu so sánh của mỗi hình ảnh so sánh ấy; thấy được ý nghĩa, tác dụng
của biện pháp so sánh trong biểu đạt ngôn ngữ là làm cho sự vật hiện lên sinh
động và gần gũi hơn. Trong dạy học, chúng ta không chỉ giúp các em tìm hiểu
cái hay, cái đẹp trong tác phẩm mà qua đó cịn giúp các em biết cách sử dụng
các biện pháp tu từ vào những bài học của mình. Vậy, làm thế nào để các em
tích cực tham gia vào hoạt động học tập và giờ dạy đạt hiệu quả cao? Để giải
quyết được câu hỏi này đòi hỏi người giáo viên cần có những phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học linh hoạt nhằm phát huy tối đa khả năng độc lập sáng
tạo của học sinh.
Qua thực tế giảng dạy ở trường mình và trao đổi với các bạn bè đồng
nghiệp ở trường bạn, tôi thấy đây là một nội dung khó, mang tính trừu tượng.
Trong khi đó tư duy nhận thức của học sinh lớp 3 là tư duy trực quan cụ thể. Các
em có thể nhận diện (tìm) những sự vật được so sánh, hình ảnh so sánh, các vế
so sánh, từ so sánh, đặc điểm so sánh được nói đến trong câu văn, câu thơ ,..
nhưng mới chỉ cảm nhận một cách chung chung tác dụng của so sánh. Các em
đã gặp một số khó khăn khi đặt câu, khi nói hoặc viết có dùng phép so sánh. Vì
vốn từ của các em cịn ít, chưa có thói quen và biết cách quan sát, nhận xét sự
vật, hiện tượng để tìm ra những đặc điểm giống nhau. Bởi vậy, câu văn của các
em chỉ mang nội dung thơng báo chứ chưa có sức gợi cảm, gợi tả. Điều đó cũng
phần nào lý giải vì sao các bài tập tập làm văn thường khô khan, thiếu sức hấp
1

skkn


dẫn. Là một giáo viên mới dạy lớp 3, vốn kinh nghiệm chưa nhiều, việc nghiên
cứu về nội dung và phương pháp dạy học không chỉ là trách nhiệm mà cịn là
niềm say mê, sự u nghề của tơi. Nhận rõ tầm quan trọng của việc dạy biện
pháp tu từ so sánh cho học sinh để các em vận dụng vào nói và viết văn, ngay từ

đầu năm học tơi đã đi sâu nghiên cứu để tìm ra “Một số giải pháp giúp học sinh
lớp 3 nhận biết và vận dụng tốt biện pháp so sánh tu từ trong phân mơn
Luyện từ và câu”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Để giúp chúng ta thấy rõ vị trí quan trọng của việc dạy phép so sánh tu từ trong
phân môn luyện từ và câu lớp 3.
- Để giúp học sinh tiếp thu bài giảng một cách nhẹ nhàng nhưng khắc sâu kiến
thức, trên cơ sở đó nâng cao được chất lượng học môn Tiếng Việt cho học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu nội dung bài học về phép so sánh tu từ trong phân môn luyện từ và
câu lớp 3.
- Tìm ra giải pháp giúp học sinh lớp 3 luyện tập nhận biết và vận dụng tốt phép
so sánh tu từ tại trường Tiểu học Hoa Lộc và tiến tới áp dụng trong địa bàn
huyện, tỉnh…
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
1. Nghiên cứu tài liệu: Đọc phân tích các tài liệu dạy học liên quan đến phép so
sánh tu từ như: Sách giáo khoa, Sách giáo viên Tiếng Việt 3, một số tài liệu
tham khảo liên quan để đưa ra một số giải pháp giúp học sinh nhận biết và vận
dụng tốt phép so sánh tu từ trong nói và viết.
2. Điều tra thực tế:
- Trao đổi với đồng nghiệp trong khối 3.
- Dự giờ đánh giá.
- Khảo sát chất lượng học sinh bằng phiếu học tập.
3. Dạy thực nghiệm:
- Dạy bài luyện từ và câu có nội dung nói về biện pháp so sánhtu từ.
- Luyện tập phân biệt, sử dụng phép so sánh tu từ .
- Thống kê phân loại kết quả sau thực nghiệm.
4. Phân tích, tổng hợp

2


skkn


2- NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới của đất nước, trong những năm qua, Đảng và
Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến phát triển giáo dục. Một trong những
nhiệm vụ cơ bản của giáo dục đào tạo hiện nay là: hình thành và phát triển nhân
cách cho học sinh một cách toàn diện theo mục tiêu phát triển nguồn nhân lực
phục vụ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.Văn học là một loại hình nghệ
thuật lấy ngơn từ làm phương tiện thể hiện. Văn học có khả năng tác động đến
đời sống tâm hồn của con người. Trong đó biện pháp tu từ so sánh góp một phần
khơng nhỏ làm nên điều này. So sánh là biện pháp tu từ khá phổ biến, được
dùng nhiều trong lời ăn tiếng nói hàng ngày cũng như trong các tác phẩm văn
chương nghệ thuật. Chính vì vậy đã có nhiều nhà nghiên cứu, nhiều luận văn
nghiên cứu về vấn đề này.
Theo GS Đinh Trọng Lạc: So sánh (cịn gọi là so sánh hình ảnh, so sánh tu
từ) là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu hai đối tượng
khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau hồn tồn mà chỉ
có một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới
mẻ về đối tượng.
Mơ hình cấu tạo so sánh hoàn chỉnh gồm
Yếu tố 1: yếu tố được hoặc bị so sánh
Yếu tố 2: yếu tố chỉ tính chất của sự vật hay trạng thái của hành động.
Yếu tố 3: yếu tố thể hiện quan hệ so sánh
Yếu tố 4: yếu tố đưa ra làm chuẩn để so sánh (Phong cách học Tiếng Việt)[2]
Như vậy, so sánh có khả năng khắc họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh mẽ
làm nên một hình thức miêu tả sinh động. So sánh cịn có tác dụng làm cho lời
nói rõ ràng, cụ thể sinh động, diễn đạt được mọi sắc thái biểu cảm. Đối với tác

phẩm văn học nói chung, so sánh mang chức năng nhận thức và biểu cảm. Nhờ
những hình ảnh bóng bảy, ước lệ, dùng cái này để đối chiếu cái kia nhằm diễn tả
những ngụ ý nghệ thuật mà so sánh tu từ được sử dụng phổ biến trong thơ ca,
đặc biệt là thơ viết cho thiếu nhi.
Đối với học sinh lớp 3, so sánh là mảng kiến thức mới song cũng phù hợp
với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học: giàu trí tưởng tượng, giàu cảm
xúc, cách suy nghĩ hồn nhiên, trong sáng…. Học tốt biện pháp so sánh sẽ giúp
các em hiểu và cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong những câu văn, những bài
văn, bài thơ. Qua đó góp phần mở mang tri thức, làm phong phú về tâm hồn,tạo
hứng thú khi viết văn, giúp các em viết được những câu văn hay, gợi tả, gợi
cảm. Đồng thời nó cịn giúp cho các em học tốt thể loại văn miêu tả ở lớp 4 và
lớp 5, giúp các em viết được những bài văn giàu cảm xúc làm cho người nghe,
người đọc hình dung rõ nét, cụ thể, sinh động về các sự vật, hiện tượng… để từ
đó rèn luyện ý thức yêu quý tiếng Việt, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cho
học sinh. Biện pháp so sánh còn giữ vai trò quan trọng trong việc diễn đạt tư
tưởng, tình cảm; thích hợp với việc biểu đạt các đặc điểm, thuộc tính riêng vốn
có của các sự vật, hiện tượng… tạo nên những bức tranh sinh động với gam màu
ấn tượng bằng ngơn từ. Chính vì vậy, dạy so sánh được rất nhiều giáo viên quan
tâm, nhất là giáo viên dạy lớp 3. Vấn đề được đặt ra là dạy như thế nào để học
3

skkn


sinh nắm bài tốt nhất, từ đó các em biết cách vận dụng vào những bài văn một
cách chính xác và mang lại hiệu quả cao.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
a- Thuận lợi:
- Nhà trường luôn tạo điều kiện cho việc tiếp thu các đợt tập huấn, chuyên đề.
Nhiều giáo viên trong tổ có trình độ chun mơn nghiệp vụ, có tâm huyết với

nghề. Phần lớn họ nắm được nội dung, mục đích của việc dạy phép tu từ so
sánh. Một số giáo viên biết sử dụng linh hoạt các phương tiện dạy học, giúp các
em tiếp cận với phép so sánh một cách dễ dàng hơn,
- Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa, vở bài tập; giáo viên có tài liệu để nghiên
cứu, tham khảo như các tập san, sách bồi dưỡng,…
- Phần lớn học sinh ngoan, chăm học, được phụ huynh quan tâm.
b- Khó khăn:
+ Về phía giáo viên: Qua thực tế giảng dạy và trao đổi với bạn bè đồng nghiệp,
tôi nhận thấy:
- Khi dạy về biện pháp tu từ so sánh một số giáo viên còn rất lúng túng trong
việc nắm vững mức độ nội dung của từng bài cụ thể, dẫn đến việc dạy quá cao
hoặc quá thấp so với chương trình.
- Giáo viên mới chỉ chú tâm vào việc dạy cho học sinh nhận biết phép tu từ so
sánh mà chưa quan tâm nhiều tới việc dạy học sinh cách cảm nhận và vận dụng
các kiến thức về so sánh vào việc nói và viết.
- Phần lớn giáo viên chỉ tổ chức cho học sinh luyện tập những bài tập trong sách
giáo khoa, rất ít giáo viên sáng tạo ra các bài tập mới, các tình huống mới hay
tạo ra hồn cảnh sử dụng biện pháp tu từ so sánh cho học sinh.
+ Về phía học sinh: Khả năng tư duy của học sinh chỉ dừng lại ở mức độ tư duy
đơn giản, trực quan, vốn kiến thức văn học của học sinh rất ít ỏi nên việc cảm
thụ nghệ thuật tu từ so sánh cịn hạn chế. Qua việc giảng dạy ở lớp mình phụ
trách và tìm hiểu thêm về học sinh lớp khác, tơi thấy các em cịn mắc những lỗi
sau:
- Học sinh nhầm lẫn giữa so sánh logic và so sánh tu từ.
Ví dụ: Học sinh nhầm câu “Bỗng cậu thấy cái lưng cịng của ơng cụ sao giống
lưng ơng nội thế” (Trận bóng dưới lịng đường- Tiếng Việt 3) [3]. là một phép so
sánh tu từ bậc hơn kém nhưng thực tế nó là phép so sánh logic.
- Nhận diện sai các yếu tố so sánh.
Ví dụ: câu: “Những hạt mưa còn đọng trên lá long lanh như những viên pha lê.”
Học sinh xác định các sự vật được so sánh với nhau là: “ hạt mưa” so sánh với

“ lá”, như vậy là sai. Đáp án ở đây phải là “ hạt mưa” được so sánh với “ viên
pha lê”.
- Tạo hình ảnh so sánh chưa hợp lí.
Ví dụ: Học sinh đặt câu có hình ảnh so sánh: “Hàng cây đứng thẳng tắp như một
chiếc thước kẻ.”… Hầu hết các em chỉ biết tạo ra hình ảnh so sánh mà thiếu đi
tính thẩm mĩ của nghệ thuật so sánh.
- Học sinh chưa cảm nhận được giá trị của phép so sánh. Chẳng hạn với những
câu hỏi như: “Em thích hình ảnh so sánh nào? Vì sao?” Các em chỉ nêu được
hình ảnh so sánh mình thích chứ khơng giải thích được vì sao.
4

skkn


c-Kết quả khảo sát học sinh:
Để kiểm tra khả năng nắm bài cũng như theo dõi sự tiến bộ của học sinh, tôi
đã tiến hành khảo sát học sinh trước khi áp dụng biện pháp mới. Sau khi học
xong 2 tiết về so sánh ở tuần 1 và tuần 3, tôi đã cho học sinh khảo sát về nội
dung đã học với phiếu kiểm tra sau:
PHIẾU KIỂM TRA
Bài 1 (4điểm): Đọc các câu thơ, câu văn rồi điền vào bảng sau cho thích hợp:
a. Sương trắng viền quanh núi
Như một chiếc chăn bông.
b. Trăng ơi… từ đâu đến?
Hay biển xanh diệu kì
Trăng trịn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi.
c. Bà em ở làng quê
Lưng còng như dấu hỏi.
d. Mùa hè, cây phượng giống như một bó đuốc rừng rực cháy giữa trời.

Câu
Sự vật được so sánh
Từ so sánh Sự vật để so sánh
a
b
c
d
Bài 2 (3điểm): Tìm các hình ảnh so sánh trong những câu thơ, câu văn dưới đây
rồi viết vào bên dưới:
a) Khi vào mùa nóng
Bóng bàng trịn lắm
Tán lá xịe ra
Trịn như cái nong
Như cái ơ to
Em ngồi vào trong
Đang làm bóng mát.
Mát ơi là mát.
b) Mùa xuân, lá bàng mới nảy trông như những ngọn nến xanh lung linh.
a)…………………………………………………………………………………
b)…………………………………………………………………………………
Bài 2 (3điểm): Trong những hình ảnh so sánh ở bài tập 2, em thích hình ảnh nào
nhất, vì sao?
……………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………..
- Kết quả thu được từ bài kiểm tra trên như sau:
Sĩ số
32

Điểm 9- 10
SL

TL
4
12,5

Điểm 7-8
SL
TL
13
40,6

Điểm 5-6
SL
TL
12
37,5

Điểm dưới 5
SL
TL
3
9,4

Qua khảo sát, bài làm đạt điểm dưới 5 còn cao (9,4%) do học sinh chưa xác định
được các hình ảnh so sánh, các từ dùng để so sánh và đặc biệt là chưa giải thích
được vì sao thích hình ảnh so sánh đó...Vậy làm thế nào để giúp các em học tốt
phần này hơn đó là điều mà tơi trăn trở rất nhiều. Tôi mạnh dạn áp dụng các giải
pháp sau để giúp học sinh nhận biết và vận dụng tốt hơn phép tu từ so sánh.
5

skkn



2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giúp học sinh nhận biết và vận dụng tốt
phép so sánh tu từ trong phân môn Luyện từ và câu lớp 3
2.3.1. Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa, phân nhóm các
dạng bài tập so sánh.
* Nội dung chương trình sách giáo khoa:
Muốn giảng dạy tốt từng bộ môn, phân mơn thì việc đầu tiên giáo viên phải
nghiên cứu kỹ nội dung, chương trình sách giáo khoa để có phương pháp và kế
hoạch dạy học đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy, ngay từ đầu năm học, khi được
nhà trường phân công giảng dạy lớp 3, tôi đã bắt tay ngay vào việc nghiên cứu
kỹ chương trình để có định hướng dạy tốt phân môn Luyện từ và câu, nhất là
mảng kiến thức về phép so sánh tu từ.
Phân môn Luyện từ và câu lớp 3 được dạy 1tiết/1 tuần trong đó có 7 tiết
dạy về so sánh (trong học kỳ I). Mục đích yêu cầu về nội dung, kiến thức mỗi
tiết cũng nâng dần mức độ từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, giúp học
sinh từng bước hiểu, ghi nhớ và vận dụng có hiệu quả. Yêu cầu và mức độ của
mỗi tiết dạy được tôi cụ thể hóa như sau:
+ Tiết 1 (Tuần 1): Giúp học sinh bước đầu làm quen với biện pháp tu từ so sánh.
+ Tiết 2 (Tuần 3): Giúp học sinh nhận biết những hình ảnh so sánh trong các câu
thơ, câu văn và nhận biết các từ chỉ sự so sánh trong các câu văn đó.
+ Tiết 3 (Tuần 5): Giúp học sinh biết được các kiểu so sánh hơn kém, so sánh
ngang bằng. Biết cách thêm các từ so sánh vào những câu văn chưa có từ so
sánh.
+ Tiết 4 (Tuần 7): Giúp học sinh biết về cách so sánh sự vật với con người, con
người với sự vật.
+ Tiết5 (Tuần10): Giúp học sinh biết về cách so sánh âm thanh với âm thanh.
+ Tiết 6 (Tuần 12): Giúp học sinh biết cách so sánh hoạt động với hoạt động.
+ Tiết 7 (Tuần 15): Giúp học sinh đặt được câu văn có hình ảnh so sánh.
Tồn bộ chương trình Tiếng Việt 3 dạy về so sánh gồm 7 tiết với các mơ hình

sau:
+ Mơ hình 1: So sánh sự vật - sự vật.
+ Mơ hình 2: So sánh sự vật - con người .
+ Mơ hình 3: So sánh hoạt động - hoạt động.
+ Mơ hình 4: So sánh âm thanh - âm thanh.
Đặc trưng của phân môn Luyện từ và câu theo chương trình hiện hành là: Học
sinh tự rút ra kiến thức qua việc làm các bài tập. Dựa vào nội dung kiến thức
trên, tôi đã khái quát lại thành các dạng bài tập về biện pháp so sánh như sau:
Dạng 1: Nhận biết những sự vật so sánh, những hình ảnh so sánh, những đặc
điểm so sánh và những từ so sánh trong câu: Tiết 1(bài 2), 2, 3, 4, 5(bài 1a), 6.
Dạng 2: Cảm nhận và nêu tác dụng của phép so sánh, tập đặt câu có sử dụng
phép so sánh: Tiết 1(bài 3), tiết 5 (bài 1b) và tiết 7 .
2.3.2. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu khái niệm, cấu trúc của phép so sánh tu
từ.
Như ta đã biết: So sánh tu từ là đối chiếu hai hay nhiều sự vật, sự việc mà
giữa chúng có những nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho lời
văn. Khi so sánh phải có ít nhất hai sự vật trở lên. Hai sự vật này phải có ít nhất
6

skkn


một nét tương đồng. Hiệu quả của phép so sánh tu từ là gợi ra những hình ảnh
cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ.
Trong quá trình dạy ta cần giúp học sinh phân biệt giữa so sánh logic và so
sánh tu từ. So sánh logic là một biện pháp nhận thức trong tư duy của con người,
là việc đặt hai hay nhiều sự vật, hiện tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm
tìm ra sự giống nhau và khác biệt giữa chúng.
Ví dụ: Con giống bố như đúc- là phép so sánh logic. Cơ sở của phép so sánh
logic dựa trên tính đồng nhất, đồng loại của các sự vật hiện tượng và mục đích

của sự so sánh là xác lập sự tương đương giữa hai đối tượng. Nếu như giá trị của
so sánh logic là xác lập được sự tương đương giữa hai đối tượng thì giá trị của
so sánh tu từ là ở sự liên tưởng, sự phát hiện và gợi cảm xúc thẩm mĩ ở người
đọc, người nghe.
Ví dụ : Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan. ( Tiếng Việt 3 - tập 1, trang 58)[3].- là phép
so sánh tu từ. Ở ví dụ trên, “trẻ em” được ví như “búp trên cành” là một hình
ảnh so sánh đúng và hay. Bởi cả “trẻ em” và “búp trên cành” đều là những sự
vật còn non tơ, đang phát triển mạnh. Hình ảnh đưa ra làm chuẩn để so sánh
“búp trên cành” gợi sự liên tưởng giàu ý nghĩa về trẻ em: còn non tơ, đang phát
triển, cần được nâng niu, chăm sóc. Như vậy, so sánh tu từ và so sánh logic khác
nhau ở 3 yếu tố:
- Tính hình tượng
- Tính biểu cảm
- Tính dị loại (khơng cùng loại) của sự vật.
*Cấu trúc của phép so sánh tu từ:
Cấu trúc đầy đủ của phép so sánh tu từ gồm 4 yếu tố:
1- Đối tượng được so ánh.
2-Phương diện, đặc điểm so sánh.
3-Từ so sánh.
4- Đối tượng đưa ra để làm chuẩn so sánh.
Ví dụ: Mắt hiền(1) sáng (2) tựa(3)vì sao(4)Trong đó :
- Yếu tố (1) là cái so sánh, đây là yếu tố được hoặc bị so sánh tùy theo việc so
sánh là tích cực hay tiêu cực.
- Yếu tố (2) là cơ sở so sánh, đây là yếu tố chỉ tính chất sự vật hay trạng thái của
hành động được nhìn nhận theo một cách nào đó có vai trò nêu rõ phương diện
so sánh.
- Yếu tố (3) là mức độ so sánh thường được diễn ra ở mức độ ngang bằng nhau
(ngồi từ “ như” cịn có các từ “ tựa”, “ tựa như”, “ giống như”, “ là”, “như là”, “
như thể”…); so sánh hơn kém thường dùng các từ “ hơn”, “ chẳng bằng”…

- Yếu tố (4) là cái được so sánh, tức là cái đưa ra làm chuẩn để so sánh. Theo
cấu trúc như trên, đối tượng được so sánh và đối tượng đưa ra để làm chuẩn so
sánh có thể là sự vật, con người, âm thanh, đặc điểm, hoạt động…
*Các dạng so sánh:
+ Dựa vào cấu trúc có thể đưa ra các dạng so sánh sau:
Dạng 1: Phép so sánh đầy đủ cả 4 yếu tố:
Ví dụ: Tiếng suối(1) trong(2) như(3) tiếng hát xa(4).
7

skkn


Dạng 2: Phép so sánh vắng yếu tố (2).
So sánh vắng yếu tố (2) cịn gọi là so sánh chìm, tức là khơng có cơ sở so sánh.
Khi bớt cơ sở so sánh thì phần thuyết minh miêu tả cái được so sánh sẽ rõ ràng
hơn. Nó cịn tạo điều kiện cho sự liên tưởng rộng rãi, phát huy sự sáng tạo của
người đọc, người nghe hơn là so sánh có đủ 4 yếu tố. Dạng so sánh này kích
thích sự làm việc của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn để có thể xác định được
những nét giống nhau giữa 2 đối tượng ở 2 vế và từ đó nhận ra điểm tương đồng
của các đối tượng được miêu tả.
Ví dụ: Bà(1) như(3) quả ngọt chín rồi(4)
Càng thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng.
Dạng 3: Phép so sánh vắng yếu tố (2) và (3).
Đây là dạng so sánh không đầy đủ, chỉ có cái so sánh và cái được so sánh.Trong
trường hợp này yếu tố (2) và yếu tố (3) được thay thế bằng chỗ ngắt giọng, dấu
gạch ngang hoặc là hình thức đối chọi.
Ví dụ: Trường Sơn(1)- chí lớn ơng cha(4)
Cửu Long(1)- lịng mẹ bao la sóng trào(4).[5].
+Dựa vào mặt ngữ nghĩa thì so sánh tu từ có 2 dạng:
Dạng 1: Dạng so sánh ngang bằng.

Đây là dạng so sánh phổ biến thường dùng từ “ như”, “ là”, “tựa”, “ tựa như”…
để làm từ so sánh.
Ví dụ: Giọt sương sớm long lanh như những hạt ngọc.
Dạng 2: Dạng so sánh hơn- kém.
Đây là dạng so sánh luôn gắn với từ hơn: “khỏe hơn”, “đẹp hơn” hoặc “chẳng
bằng”.
Ví dụ: Những ngơi sao thức ngồi kia
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con.
Qua những ví dụ trên cho ta thấy, các đối tượng được đưa ra để so sánh khác
nhau về bản chất. Nhưng do một cách nhìn đặc biệt, các đối tượng vốn là khác
loại, khác bản chất có thể chuyển hóa được cho nhau, có những đặc điểm, những
nét giống nhau. Thực tế sách giáo khoa Tiếng Việt 3 không trực tiếp đưa ra khái
niệm so sánh (với tư cách là một biện pháp tu từ) cho học sinh mà thơng qua các
bài tập dần dần hình thành khái niệm đơn giản về so sánh cho học sinh. Chính vì
vậy khi dạy về so sánh cho học sinh, tôi đã dựa trên các dạng bài tập để phân
loại và lựa chọn phương pháp dạy phù hợp với từng dạng bài cụ thể.
2.3. 3. Giúp học sinh nắm vững các dạng bài tập về so sánh
*Dạng bài tập nhận biết biện pháp tu từ so sánh.
Đây là dạng bài tập giúp học sinh nhận biết những sự vật so sánh, những
hình ảnh so sánh, những đặc điểm so sánh và những từ so sánh trong câu. Để
giúp học sinh làm tốt dạng bài tập này, tôi đã hướng dẫn cụ thể trong từng tiết
học như sau:
Ví dụ 1: Tiết 1 – Tuần 1 (Bài tập 2/ Trang 8 - Tiếng Việt 3, Tập 1)
Tìm những sự vật được so sánh trong các câu văn, câu thơ dưới đây:
a) Hai bàn tay em
Như hoa đầu cành (Huy Cận)
b) Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch. (Vũ Tú Nam)
8

skkn



c) Cánh diều như dấu “á”
Ai vừa tung lên trời (Lương Vĩnh Phúc)
d) Ơ, cái dấu hỏi
Trông ngộ, ngộ ghê
Như vành tai nhỏ
Hỏi rồi lắng nghe (Phạm Như Hà)[3].
Đây là dạng bài tập đầu tiên các em được làm quen với so sánh. Để làm tốt bài
tập này, học sinh phải tìm được các từ chỉ những sự vật được so sánh với nhau
trong các câu thơ, câu văn trên. Sau khi thảo luận với nhau các em nêu được:
+ “ Hai bàn tay em” so sánh với “hoa đầu cành”
+ “ Mặt biển” so sánh với “tấm thảm khổng lồ”
+ “ Cánh diều” so sánh với “dấu á”
+ “ Dấu hỏi” so sánh với “vành tai nhỏ”.
Để giúp các em khắc sâu kiến thức và làm được bài tập 3, tơi đã hỏi: Vì sao
“Hai bàn tay em” được so sánh với “hoa đầu cành”? hay Vì sao “ Mặt biển”
được ví như “tấm thảm khổng lồ”?... ; các em tìm xem các sự vật này đều có
điểm nào giống nhau?
(+ Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa.
+ Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp.
+ Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á.
+ Dấu hỏi cong như vành tai nhỏ.)
Trên thực tế, ấn tượng thính giác kết hợp với ấn tượng thị giác giúp các em dễ
dàng nhận ra hiện tượng so sánh ẩn chứa trong các câu thơ, câu văn nên tơi đã
cho học sinh xem hình ảnh “bàn tay” và “Bông hoa đầu cành”, “mặt biển” và
“tấm thảm”, “cánh diều” và “dấu á”. Còn dấu hỏi cong cong, nở rộng ở phía trên
rồi nhỏ dần chẳng khác gì vành tai thì cho học sinh nhìn vào vành tai bạn để
quan sát, so sánh. Cuối cùng, tôi đưa ra kết luận: Các tác giả quan sát rất tinh tế
nên đã phát hiện sự giống nhau giữa các sự vật xung quanh ta. Bởi vậy, khi so

sánh cần có hai sự vật đưa ra, hai sự vật đó phải có điểm giống, điểm tương
đồng với nhau. Và trong hai sự vật đó (1 sự vật được so sánh, 1 sự vật đưa ra
làm chuẩn để so sánh) thường được đặt trước và sau từ “như”. Đây là một dấu
hiệu để nhận ra các sự vật được so sánh với nhau trong câu.
Ví dụ 2: Tiết 2 - Tuần 3 (Bài tập 1 + 2/ Trang 24 - Tiếng Việt 3, Tập 1)
Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu thơ, câu văn dưới đây. Ghi lại các từ chỉ
sự so sánh đó.
a) Mắt hiền sáng tựa vì sao
Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời. (Thanh Hải)
b) Em yêu nhà em
Hàng xoan trước ngõ
Hoa xao xuyến nở
Như mây từng chùm. (Tô Hà)
c) Mùa đông
Trời là cái tủ ướp lạnh
Mùa hè
Trời là cái bếp lò nung. (Lò Ngân Sủn)
9

skkn


d) Những đêm trăng sáng, dịng sơng là một đường trăng lung linh dát vàng.
(Đất nước ngàn năm ) [3].
Bằng kiến thức đã học ở tiết 1(Tuần 1), các em dễ dàng nhận ra các hình ảnh so
sánh có trong các câu thơ, câu văn:
a) Mắt hiền sáng tựa vì sao.
b) Hoa (xoan) xao xuyến nở như mâytừng chùm.
c) Trời là cái tủ ướp lạnh. Trời là cái bếp lò nung.
d) Dịng sơng là một đường trăng lung linh dát vàng.

Để giúp các em tìm được các từ chỉ sự so sánh, tôi đặt câu hỏi:
+ Trong câu a, dựa vào đâu em biết hình ảnh “mắt hiền” được so sánh với “vì
sao”? (Dựa vào từ “tựa”). Đây là từ chỉ sự so sánh. Tương tự câu a, học sinh sẽ
tìm được từ so sánh trong các câu cịn lại. Sau khi học sinh làm xong, để giúp
các em nắm chắc nội dung của bài, tôi đưa ra hệ thống câu trả lời như sau:
Từ ngữ chỉ sự vật được so
sánh
Mắt hiền
Hoa xoan (nở)
Trời
Trời
Dịng sơng

Từ so sánh
tựa
như




Từ ngữ chỉ sự vật dùng để so
sánh
vì sao
Mây từng chùm
cái tủ ướp lạnh
cái bếp lò nung
đường trăng lung linh dát vàng

Yêu cầu của bài học đã nâng cao dần so với tiết 1. Học sinh không chỉ nêu
được các sự vật so sánh mà còn nêu được các từ chỉ sự so sánh thường dùng:

như, là, tựa như, tựa, … Tôi nhấn mạnh để học sinh hiểu: Từ chỉ sự so sánh
chính là dấu hiệu để nhận biết câu văn, câu thơ có hình ảnh so sánh. Sau tiết
học, để củng cố lại kiến thức, tôi yêu cầu học sinh làm bài tập sau:
*Tìm các sự vật được so sánh với nhau và từ chỉ sự so sánh trong câu sau:
Quê hương là cánh diều biếc
Tuổi thơ con thả trên đồng[6]. (Đỗ Trung Quân)
Đáp án: Từ ngữ chỉ sự vật được so sánh: Quê hương.Từ so sánh: là.Từ ngữ chỉ
sự vật dùng để so sánh: cánh diều biếc.
Giáo viên chốt: Cùng là một sự vật, có khi đó là sự vật được so sánh, có khi lại
là sự vật dùng để đối chiếu so sánh.
Ví dụ 3: Tiết 3 - Tuần 5 (Bài tập 1, 2/Trang 42, 43- Tiếng Việt 3, Tập 1) - so
sánh ngang bằng, so sánh hơn kém.
Tìm hình ảnh so sánh trong những khổ thơ sau và ghi lại các từ so sánh trong
những khổ thơ đó:
a) Bế cháu ông thủ thỉ:
b) Những ngôi sao thức ngoài kia
- Cháu khỏe hơn ơng nhiều!
Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con.
Ơng là buổi trời chiều
Đêm nay con ngủ giấc trịn
Cháu là ngày rạng sáng.
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.
(Phạm Cúc )
(Trần Quốc Minh) [3].
Đáp án: Hình ảnh so sánh: a) Cháu khỏe hơn ơng nhiều; Ơng là buổi trời chiều;
Cháu là ngày rạng sáng.
10

skkn



b) Những ngơi sao thức ngồi kia, Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con; Mẹ là
ngọn gió của con suốt đời.
Các từ so sánh là: a) hơn, là, là
b) chẳng bằng, là
Dựa vào các từ so sánh vừa tìm được, tôi hướng dẫn học sinh nhận diện kiểu so
sánh mới (so sánh hơn kém); từ đó phân biệt được 2 kiểu so sánh bằng các câu
hỏi: Trong câu a, cách so sánh ở các câu “Cháu khỏe hơn ông nhiều” và “Ơng
là buổi trời chiều” có gì khác nhau? Hai sự vật được so sánh với nhau trong
mỗi câu là ngang bằng nhau hay hơn kém nhau? (Đáp án: Câu “Cháu khỏe hơn
ông nhiều”, hai sự vật so sánh với nhau là “ông” và “cháu”; hai sự vật này
không ngang bằng nhau mà có sự chênh lệch hơn kém (cháu khỏe hơn ơng). Câu
“Ơng là buổi trời chiều”, hai sự vật này có sự ngang bằng nhau.).
Sự khác nhau về cách so sánh của hai câu này do đâu tạo nên? (Đáp án: Do từ
so sánh khác nhau tạo nên. Từ “hơn” chỉ sự hơn kém, từ “là” chỉ sự ngang bằng)
Sau khi học sinh nhận biết được hai kiểu so sánh, tơi cho học sinh xếp các hình
ảnh vào hai nhóm: So sánh ngang bằng, so sánh hơn kém. Đặc biệt, ở bài này,
tôi đã nhấn mạnh cho học sinh biết sự khác nhau về cách so sánh là do từ chỉ sự
so sánh tạo nên:
+ Nếu từ so sánh là: tựa, như, là, giống như, như là, bằng…thì thuộc kiểu so
sánh ngang bằng.
+ Nếu từ so sánh là: hơn, chẳng bằng…thì thuộc kiểu so sánh hơn kém.
Ví dụ 4: Tiết 5 - Tuần 10 (Bài tập 1a, 2/Trang 79 - Tiếng Việt 3, Tập 1)- So sánh
âm thanh với âm thanh.
Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi:
“Đã có ai lắng nghe
Tiếng mưa trong rừng cọ
Như tiếng thác dội về
Như ào ào trận gió.” (Nguyễn Viết Bình). [3].
Học sinh thảo luận theo cặp và trả lời câu hỏi:

+ Tiếng mưa trong rừng cọ được so sánh với những âm thanh nào? (Đáp án: như
tiếng thác, tiếng gió).
Như vậy, khơng chỉ có các sự vật được dùng làm đối tượng so sánh mà
những âm thanh trong tự nhiên cũng được các nhà văn, nhà thơ chọn làm hình
ảnh so sánh. Điều quan trọng tất cả những sự so sánh này đều gợi lên những cảm
xúc thẩm mĩ, đều là kết quả của sự liên tưởng, sự phát hiện mà khơng phải ai
cũng nhìn ra và nhận thấy. Đây chính là so sánh âm thanh với âm thanh. Sau khi
làm được bài tập 1 các em dễ dàng hoàn thành bài tập 2 với đáp án là: Tiếng
suối- so sánh với tiếng đàn cầm; tiếng suối – so sánh với tiếng hát; tiếng chim
kêu- so sánh với tiếng xóc những rổ tiền đồng.
Ví dụ 5: Tiết 6 - Tuần 12 (Bài tập1/Trang 98 - Tiếng Việt 3, Tập 1)- So sánh
hoạt động với hoạt động.
Đọc khổ thơ dưới đây và trả lời câu hỏi:
Con mẹ đẹp sao
Những hòn tơ nhỏ
Chạy như lăn tròn
Trên sân, trên cỏ. (Phạm Hổ)[3].
11

skkn


a) Tìm các từ chỉ hoạt động trong khổ thơ trên.
b) Hoạt động chạy của những chú gà con được miêu tả bằng cách nào?
- Với câu hỏi a, học sinh đọc thầm khổ thơ và gạch dưới các từ chỉ hoạt động
(lăn, chạy)
- Với câu hỏi b, tôi cho học sinh thảo luận nhóm bàn và nêu ý kiến. (Miêu tả
bằng cách so sánh: chạy như lăn tròn). Sau các câu trả lời, tôi nhấn mạnh: đây là
cách so sánh hoạt động với hoạt động. Hoạt động “chạy” của những chú gà con
được miêu tả giống hoạt động “lăn” của những hòn tơ nhỏ.

Qua bài tập 1, học sinh bước đầu đã nắm được cách so sánh hoạt động với
hoạt động. Vận dụng các kiến thức đã học, các em sẽ tự mình khám phá, tìm
hiểu để tìm ra được những hoạt động được so sánh với nhau trong bài tập 2.
Sau 6 tiết học, học sinh đã nhận biết được các sự vật so sánh, các từ so sánh,
các kiểu so sánh và các cách so sánh. Bên cạnh đó, học sinh phần nào cảm nhận
được cái hay, cái đẹp của những câu văn, câu thơ có hình ảnh so sánh.
*Dạng bài tập cảm nhận và nêu tác dụng của so sánh
Ví dụ: Tiết 5 - Tuần 10 (Bài tập 1b/Trang 79 – Tiếng Việt 3, Tập 1)
Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi:
Đã có ai lắng nghe
Tiếng mưa trong rừng cọ
Như tiếng thác dội về
Như ào ào trận gió. (Nguyễn Viết Bình). [3].
Sau khi hồn chỉnh câu a (Những âm thanh so sánh với tiếng mưa trong rừng
cọ là tiếng thác đổ và tiếng gió), giáo viên hỏi:
+ Qua sự so sánh trên, em hình dung tiếng mưa trong rừng cọ ra sao?(Tiếng
mưa trong rừng cọ rất to, rất mạnh và rất vang). Như vậy nhờ có sự so sánh này
mà người đọc, người nghe hình dung rõ hơn về tiếng mưa trong rừng cọ. Đây
chính là tác dụng của so sánh- làm cho đối tượng được so sánh rõ hơn, nổi bật
hơn.
Tương tự bài tập 1, ở bài tập 2 tôi cũng đưa ra các câu hỏi giúp học sinh cảm
nhận cái hay, cái đẹp của phép so sánh. Với câu a: Tiếng suối được tác giả so
sánh với tiếng đàn cầm, vậy em hình dung ra tiếng suối như thế nào? (Tiếng
suối chảy đều đều và rất êm tai). Với câu b: Tiếng suối và tiếng hát được so
sánh với nhau ở điểm nào? (rất trong). Qua sự so sánh đó, em cảm nhận tiếng
suối như thế nào? (trong trẻo, nhẹ nhàng và ngân xa)
Như vậy, so sánh giúp cho người đọc, người nghe hình dung về sự vật một
cách cụ thể, sinh động hơn, đồng thời thể hiện sự quan sát rất tài tình và tinh tế
của người viết khi muốn bộc lộ cảm xúc của mình vào tác phẩm.
* Dạng bài tập vận dụng biện pháp so sánh tu từ

Ví dụ 1: Tiết 3 - Tuần 5 (Bài tập 4/ Trang 43 – Tiếng Việt 3, Tập 1).
Hãy tìm các từ so sánh có thể thêm vào những câu chưa có từ so sánh ở bài tập
3. M: Tàu dừa như chiếc lược chải vào mây xanh. [3].
Đây là bài tập giúp học sinh bước đầu làm quen với việc đặt câu có hình ảnh
so sánh. Vì vậy, ở bài tập này, tơi cho học sinh phân tích mẫu và chỉ ra kiểu so
sánh trong bài là so sánh ngang bằng. Từ đó, học sinh sẽ tìm được rất nhiều từ
ngữ thay thế: như, như là, tựa, tựa như, giống như… Khi học sinh đã viết được
12

skkn


những câu văn có hình ảnh so sánh, tơi cho học sinh làm thêm bài tập như sau
để củng cố và mở rộng kiến thức.
Ví dụ: Tìm từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống để hoàn chỉnh câu văn có hình
ảnh so sánh về cây bàng – trong từng câu dưới đây:
a. Mùa xuân, lá bàng mới nảy trông như…
b. Những chiếc lá bàng mùa đông đỏ như...
c. Cành bàng trụi lá trơng giống …
d. Tán bàng xịe ra giống … (Tiếng Việt nâng cao lớp 3)[6].
Với bài tập này, tôi chỉ gợi ý chứ không áp đặt, dập khn. Bằng sự liên
tưởng của mình, học sinh tìm được những điểm giống nhau của các sự vật và
viết được những câu văn sau:
a. Mùa xuân, lá bàng mới nảy trông như những ngọn nến xanh lung linh.
b. Những chiếc lá bàng mùa đông đỏ như màu gạch nung.
c. Cành bàng trụi lá trông giống như cánh tay gân guốc của người già.
d. Tán bàng xòe ra giống như một cái ơ xanh khổng lồ.
Ví dụ 2: Tiết 7 - Tuần 15 (Bài tập 3, 4/ Trang 126 – Tiếng Việt 3,tập 1)
Bài 3: Quan sát từng cặp sự vật được vẽ dưới đây rồi viết những câu văn có hình
ảnh so sánh các sự vật trong tranh. [3].

Ở bài tập này, sách giáo khoa cung cấp sẵn nội dung so sánh qua các tranh vẽ
từng cặp sự vật có điểm giống nhau. Việc cần làm của học sinh là xác định được
sự vật so sánh và sự vật đưa ra để làm chuẩn so sánh ở từng cặp là gì, sau đó tìm
ra sự giống nhau giữa các cặp sự vật trong tranh và đặt câu có hình ảnh so sánh
các sự vật đó. Để tạo hứng thú cho học sinh đặt câu, tơi phóng to bức tranh trong
sách giáo khoa và yêu cầu học sinh nói tên các cặp sự vật có trong mỗi tranh.

- Tranh 1: Mặt trăng - quả bóng.
- Tranh 2: Nụ cười của bé - bông hoa. Khuôn mặt của bé - bông hoa.
- Tranh 3: Ngọn đèn - ngôi sao. Ngọn đèn - ánh trăng.
- Tranh 4: Hình dáng nước ta - hình chữ S
13

skkn


Sau khi học sinh nêu tên các cặp sự vật có trong mỗi tranh, tơi hướng dẫn các
em xác định đâu là sự vật so sánh và đâu là sự vật dùng để đối chiếu so sánh.
Tiếp đó tơi cho học sinh đặt câu có hình ảnh so sánh phù hợp với từng tranh.
Lớp nhận xét và nêu thêm những câu của mình. Câu nào chưa hay, tơi hướng
dẫn các em sửa lại câu văn cho hay hơn.
Ví dụ: + Trăng trịn như quả bóng-> Trăng đêm rằm trịn xoe như quả bóng.
+ Bé cười tươi như hoa -> Nụ cười của bé tươi như bông hoa mới nở.
+ Đèn sáng như sao -> Ngọn đèn sáng tựa những vì sao đang nhấp nháy trên bầu
trời.
Giáo viên chốt: Khi đặt câu có hình ảnh so sánh cần lưu ý điều gì? (Tìm ra điểm
nổi bật và tương đồng của hai sự vật)
Bài tập 4: Tìm những từ ngữ thích hợp với mỗi ô trống:
a. Công cha nghĩa mẹ được so sánh như………, như……..
b. Trời mưa, đường đất sét trơn như…………..

c. Ở thành phố, có nhiều tịa nhà cao như……[3].
Nếu như ở bài tập 3 cần căn cứ vào các cặp tranh để tìm ra sự giống nhau giữa
các sự vật trong tranh rồi đặt câu thì bài tập 4 lại cần tìm những từ ngữ thích hợp
(sự vật có điểm tương đồng với sự vật đã cho) điền vào chỗ trống sau từ “như”
để tạo câu có sự so sánh. Dựa vào những yếu tố cho sẵn, kết hợp với trí tưởng
tượng và vốn kiến thức đã có, học sinh có thể hồn thành bài tập này như sau:
a. Cơng cha nghĩa mẹ được so sánh như núi Thái Sơn, như nước trong nguồn
chảy ra.
b. Trời mưa, đường đất sét trơn như bơi mỡ.
c. Ở thành phố, có nhiều tịa nhà cao như núi.
Cuối cùng, tôi cho học sinh so sánh sự khác nhau của hai bài tập (Bài tập 3: Từ
2 sự vật phải tìm được điểm giống nhau để so sánh; Bài tập 4: Từ 1 sự vật cho
trước phải tìm được sự vật khác có điểm giống với sự vật đó để so sánh).Ngồi
ra tơi cịn đưa thêm các bức tranh,hình ảnh hay video để học sinh quan sát và đặt
câu có hình ảnh so sánh về các sự vật trong đó. Điều này khơng chỉ giúp các em
mở rộng và khắc sâu được kiến thức đã học mà cịn tạo hứng thú học tập cho các
em.
Ví dụ: Hãy quan sát mỗi bức ảnh sau và đặt câu có sử dụng biện pháp so sánh để
nói về sự vật trong mỗi bức ảnh đó.

Nhiều học sinh đặt được những câu văn như sau:
14

skkn


- Cánh đồng lúa chín như một tấm thảm màu vàng khổng lồ trải rộng mênh
mơng.
- Dịng sơng quanh co uốn khúc như một con trăn khổng lồ.
Sau bài học này tôi chốt lại cho học sinh cấu trúc chung của so sánh để các em

nhớ, biết và vận dụng khi đặt câu:
“Sự vật A - Đặc điểm so sánh - Từ so sánh - Sự vật B”.
2.3. 4. Giúp học sinh củng cố kiến thức về biện pháp so sánh qua hệ thống bài
tập mở rộng. (Dạng bài tập này được luyện thêm vào buổi 2).
*Dạng bài tập nhận diện những sự vật được so sánh, những hình ảnh so
sánh, những đặc điểm so sánh và những từ so sánh trong câu.
Ví dụ: Bài 1: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu thơ, câu văn dưới đây:
a)Tóc bà trắng tựa mây bông
Chuyện bà như giếng cạn xong lại đầy.
b) Khi cá vàng khẽ uốn lưng thì đi xòe rộng như một dải lụa màu da cam.
d) Từ xa nhìn lại, cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ.[5].
Đáp án: a) Mái tóc (của bà) trắng tựa mây bông; chuyện (bà kể cho cháu nghe)
như giếng (cái giếng khơi ở làng quê Việt Nam) cạn xong lại đầy.
b) Đi (cá vàng) xịe rộng như một dải lụa màu da cam.
c) Cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ.
Bài 2: Tìm các từ chỉ sự so sánh trong mỗi câu sau:
a)Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
b)Mẹ bảo: trăng như lưỡi liềm
Ông rằng: trăng tựa con thuyền cong mui
Bà nhìn: như hạt cau phơi
Cháu cười : quả chuối vàng tươi ngoài vườn.
c)Lá phượng giống lá me, mỏng, ngon lành như những hạt cốm non
d)Ngọn đèn sáng tựa trăng rằm. [6].
Đáp án: a) là; b) như, tựa, như; c)giống, như; d) tựa.
Bài 3: Điền các bộ phận của phép so sánh trong mỗi câu vào bảng sau cho phù
hợp:
a)Những giọt sương sớm đọng trên lá long lanh như những viên pha lê.
b) Những bông hồng đẹp như những nàng công chúa đang ngào ngạt tỏa hương.
c)Tiếng ve đồng loạt cất lên như một dàn đồng ca chào mùa hạ.

Sự vật A

Đáp án:
Sự vật A
giọt sương sớm
bông hồng
tiếng ve

Đặc điểm so sánh Từ so sánh

Sự vật B

Đặc điểm so sánh
long lanh
đẹp
đồng loạt cất lên

Sự vật B
viên pha lê
công chúa
dàn đồng ca

Từ so sánh
như
như
như

15

skkn



Tôi đưa bài tập trên nhằm giúp học sinh nắm vững mơ hình, cấu trúc của câu
văn có hình ảnh so sánh. Đây là cơ sở để giúp các em viết được các câu văn có
hình ảnh so sánh hay.
*Dạng bài tập cảm nhận và nêu tác dụng của so sánh
Bài 1: Gạch dưới những hình ảnh so sánh trong các câu văn dưới đây. Trong các
hình ảnh đó, em thích hình ảnh nào? Vì sao?
a)Dịng sơng mùa lũ cuồn cuộn chảy như những con ngựa tung bờm phi nước
đại.
b)Dưới ánh nắng chói chang, hàng ngàn lá cọ xịe ra như những vầng mặt trời
rực rỡ.
Đáp án: (hình ảnh so sánh: a-.dịng sơng mùa lũ cuồn cuộn chảy như những con
ngựa tung bờm phi nước đại; b-hàng ngàn lá cọ xịe ra như những vầng mặt trời
rực rỡ.). Tiếp đó tơi u cầu học sinh chọn hình ảnh mình thích và giải thích lý
do vì sao? (Ví dụ: em thích hình ảnh “hàng ngàn lá cọ xịe ra như những vầng
mặt trời” vì nó thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả khi tìm ra được hình ảnh
“vầng mặt trời” để so sánh với “hàng ngàn lá cọ” / so sánh như vậy làm cho sự
vật trở nên sinh động hơn.)
Bài 2: Trong các câu văn sau em thấy câu nào hay nhất? Vì sao?
a.Lũy tre xanh rì.
b.Lũy tre xanh như bức tường thành vững chãi bao quanh làng.
Các câu văn trên đều nói về lũy tre nhưng mỗi câu lại có cách diễn đạt khác
nhau. Tơi cho học sinh so sánh và giúp các em nhận ra câu thứ 2 diễn đạt hay
hơn, vì giúp ta hình dung ra lũy tre giông như một bức tường bảo vệ cho dân
làng, từ đó các em thấy lũy tre thật có ích.
Qua phân tích, học sinh khơng chỉ lựa chọn được câu văn hay mà các em còn
hiểu được khi so sánh, muốn sự vật miêu tả được đẹp và sinh động thì cần so
sánh với một sự vật khác đẹp hơn. Như thế câu văn mới có sức gợi tả, gợi cảm,
làm cho người đọc thấy thích thú.

*Dạng bài tập vận dụng biện pháp tu từ so sánh:
Bài 1: Tìm từ thích hợp điền vào chỗ trống để tạo thành các câu văn có hình ảnh
so sánh.
a) Những chú gà nhỏ ... hòn tơ đang chay theo mẹ đi kiếm mồi.
b)Con sông quê em quanh co, uốn khúc … như một dải lụa mềm mại.
c) Trăm cô gái đẹp…tiên sa.
Đáp án: a) giống như hoặc như; b) như; c) tựa
Bài 2: Tìm những từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống để câu văn có hình ảnh so
sánh:
a) ……….. lơ lửng giữa trời như cánh diều đang bay.
b)……….. cuồn cuộn chảy như con trăn khổng lồ đang trườn qua cánh đồng.
c) Mùa xuân, hoa xoan nở từng chùm tím biếc trơng như …………..
d)Trăng rằm trung thu trịn như ……………
e)Mùa hè cây bàng như……………………..[5].
Để làm tốt bài bập này thì giáo viên phải hướng dẫn học sinh quan sát, suy
nghĩ, liên tưởng để tìm ra những sự vật có nét tương đồng với sự vật đã cho, từ
đó tạo câu văn có hình ảnh so sánh.
16

skkn


Ví dụ: Trong câu a, em thấy có những sự vật nào giống như một cánh diều? (mặt
trăng lưỡi liềm, hạt cau, dấu á…) ? Trong các sự vật trên, sự vật nào ta thấy lơ
lửng được trên không? (mặt trăng lưỡi liềm). Từ đó học sinh chọn được hình
ảnh phù hợp điền vào chỗ trống để tạo thành câu văn đúng và hay “Mảnh trăng
lưỡi liềm lơ lửng giữa trời như cánh diều đang bay”. Tương tự với các trường
hợp còn lại, học sinh viết được những câu văn có hình ảnh so sánh “Dịng sơng
mùa lũ cuồn cuộn chảy như con trăn khổng lồ đang trườn nhanh qua cánh
đồng.” “Mùa xuân, hoa xoan nở từng chùm tím biếc trông như những đám mây

bồng bềnh trên ngọn cây.” “Trăng rằm trung thu trịn như cái đĩa./ như quả
bóng bay…” “Mùa hè, cây bàng như một cái ô xanh khổng lồ.”
Bài 3: Em hãy sử dụng biện pháp so sánh để diễn đạt lại các câu sau cho sinh
động, gợi cảm hơn:
a)Những bơng hoa cúc vàng tươi.
b)Tóc bà em bạc trắng.
c) Những chú họa mi hót véo von trên cành cây.
Học sinh suy nghĩ và viết lại câu văn theo ý mình. Tơi chú ý hướng dẫn, sửa
chữa cho các em nhưng không áp đặt, đồng thời, tôi ghi nhanh một số câu văn
hay lên bảng cho các em khác học tập.
Ví dụ: a) Những bơng hoa cúc vàng tươi như những vầng mặt trời tí hon.
b) Tóc của bà em bạc trắng tựa như màu mây.
c) Những chú họa mi hót véo von trên cành cây như đang tấu lên bản nhạc chào
ngày mới.
Sau khi học sinh đã thành thạo dạng bài tập này tôi lại ra một số bài tập ở mức
độ khó hơn.
Bài 4: Hãy dùng biện pháp so sánh để miêu tả mỗi sự vật sau bằng một câu văn:
ơng mặt trời, hàng cây, dịng sơng, ….
Loại bài tập này khó hơn, địi hỏi học sinh phải có một trí tưởng tượng thật
phong phú kết hợp với khả năng diễn đạt thật thành thạo thì mới có thể viết
được những câu văn có hình ảnh so sánh hay. Tơi cho học sinh thảo luận rồi sau
đó trình bày kết quả trước lớp và tổ chức cho các em bình chọn để tìm ra câu
văn hay nhất.
Ví dụ: - Ông mặt trời đỏ rực như một quả cầu lửa đang từ từ nhô lên ở chân trời.
- Hàng cây đứng thẳng tắp như một đội quân đang duyệt binh.
- Dịng sơng như một dải lụa mềm mại vắt lên cánh đồng xanh mướt lúa ngô.
Khi làm những bài tập dạng này, ta sẽ phát hiện được khả năng tưởng tượng
phong phú của học sinh từ đó giúp các em phát triển năng lực ngôn ngữ.
Bài 5: Hãy viết một đoạn văn khoảng 10 câu để giới thiệu về một cảnh đẹp trên
quê hương em. Trong đoạn văn có sử dụng ít nhất 2 hình ảnh so sánh. Hãy gạch

chân dưới các hình ảnh so sánh đó.
Đây là bài tập vận dụng tổng hợp, vừa kiểm tra được khả năng dùng từ, đặt
câu, tạo đoạn văn, vừa kiểm tra được khả năng nhận biết, vận dụng phép so sánh
trong viết đoạn văn. Qua bài tập này, tôi thấy học sinh của mình cũng khá sáng
tạo và tinh tế.
Ví dụ: Khi giới thiệu về cánh đồng, có em đã viết được những câu văn sau: “Khi
có gió, lúa lại nhấp nhơ như những làn sóng nhỏ đang gợn lăn tăn.” “ Cây lúa
17

skkn


to như cổ tay, phần lá xòe rộng như chiếc chổi đang qt sạch bầu khơng khí”,..
2.3.5. Dạy biện pháp so sánh tu từ tích hợp vào các mơn học:
* Dạy tích hợp trong mơn Tiếng Việt:
Khi dạy các phân môn thuộc bộ môn Tiếng Việt, giáo viên kết hợp lồng ghép
nội dung dạy so sánh tu từ.
Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc “Cửa Tùng”, sau khi giúp các em hiểu nghĩa các từ
ngữ “chiếc thau đồng, bờ biển Cửa Tùng”, giáo viên cho học sinh tìm câu văn
có hình ảnh so sánh miêu tả về 2 sự vật trên. Học sinh sẽ dễ dàng tìm ra câu:
“Mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển. Người xưa đã ví bờ
biển Cửa Tùng giống như một chiếc lược đồi mồi cài vào mái tóc bạch kim của
sóng biển.” Giáo viên có thể hỏi mở rộng thêm: Tác giả so sánh bờ biển Cửa
Tùng với chiếc lược đồi mồi cho thấy bờ biển ở đây như thế nào? (rất đẹp, rất
quyến rũ,…). Với những câu văn hay như thế, các em sẽ nhớ lâu hơn và vận
dụng tốt hơn trong việc viết văn của mình. Hay khi dạy bài tập đọc “Nhớ lại
buổi đầu đi học”, sau khi giúp các em tìm hiểu bài xong, ta có thể hỏi: Trong bài
có những hình ảnh so sánh nào? Em thích hình ảnh nào nhất, vì sao? Câu hỏi
này không chỉ giúp các em củng cố được kiến thức mà còn giúp các em cảm
nhận được cái hay, cái đẹp của câu văn, của bài văn.

Khi dạy các bài tập làm văn, đặc biệt bài liên quan đến miêu tả như: giới thiệu
về người thân của em, giới thiệu về nông thôn, thành thị, giới thiệu về một cảnh
đẹp của quê hương, kể về một lễ hội… ta nên khuyến khích học sinh tạo những
câu văn có hình ảnh so sánh.
* Tích hợp trong mơn Tự nhiên xã hội:
Khi dạy bài “Các thế hệ trong gia đình”, giáo viên có thể cho học sinh tìm
những câu tục ngữ, ca dao có hình ảnh so sánh nói về tình cảm của những người
thân trong gia đình. Tìm các sự vật được so sánh với nhau trong mỗi câu đó.
Ví dụ: - Anh em như thể chân tay.
- Chị em gái như trái cau non
- Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Thông qua dạy học tích hợp, các em sẽ được củng cố, mở rộng, tích lũy
thêm được kiến thức về so sánh tu từ, từ đó giúp các em học tốt hơn nội dung
này.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm :
Sau một thời gian nghiên cứu và dạy thực nghiệm, để nắm được kết quả học
tập của học sinh về nhận biết và vận dụng biện pháp tu từ so sánh, tôi đã tiến
hành khảo sát học sinh lớp 3A đợt 2 (Thời điểm cuối học kì I năm học 20202021) với phiếu bài tập sau:
PHIẾU BÀI TẬP
Bài 1(3điểm): Đọc các câu thơ, câu văn sau rồi điền vào bảng bên dưới cho
thích hợp:
a. Hàng cây đứng thẳng tắp như đội quân đang duyệt binh.
b. Dịng sơng giống như một con trăn khổng lồ đang trườn qua cánh đồng.
c. Trăm cô gái tựa tiên sa
Múa chày đơi với chày ba rập rình.
18

skkn




×