Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Trang phục truyền thống của phụ nữ Một số nước Đông Nam Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.5 KB, 25 trang )

Lời nói đầu
Trang phục là một thành tố quan trọng của văn hoá tộc ngời, là biểu
hiện bên ngoài của bản sắc văn hoá dân tộc. Mỗi dân tộc trên thế giới đều
mang theo sắc thái văn hoá độc đáo của mình qua trang phục. Cùng với
ngôn ngữ, trang phục là dấu hiệu thông tin quan trọng để chúng ta dễ dàng
nhận biết tộc ngời này với tộc ngời khác. Ngời ta có thể nhận biết đợc đâu
là phụ nữ Nhật Bản, phụ nữ Mexico hay phụ nữ các nớc theo Hồi giáo qua
bộ Kimônô của Nhật Bản hay chiếc váy xoè cùng với mũ rộng vành của phụ
nữ miền Trung Mĩ và chiếc mạng che mặt của phụ nữ Hồi giáo. Trang phục
gắn bó mật thiết và tồn tại trong sự vận hành của đời sống tộc ngời.
Trang phục ra đời trớc hết mang ý nghĩa bảo vệ cơ thể rồi sau đó trong quá
trình phát triển trang phục trở thành nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu làm đẹp cho
con ngời
(8)
. Trang phục quan hệ đến rất nhiều lĩnh vực trong xã hội nh địa
lý, lịch sử, kinh tế, tôn giáo , đẳng cấp, nghề nghiệp, phong tục, tập quán....
nhất là ở lĩnh vực văn hoá tinh thần. Nó thể hiện cụ thể, rõ nét trình độ và
thị hiếu thẩm mỹ của mỗi con ngời, mỗi dân tộc và mỗi thời đại.
Nằm trong bối cảnh văn hoá của toàn khu vực, phong tục mặc của c
dân Đông Nam á đặc biệt là của phụ nữ có nhiều nét tơng đồng phù hợp
hợp với điều kiện tự nhiên (Vị trí địa lý, thời tiết ...) và nền văn minh nông
nghiệp lúa nớc có nguồn gốc từ lâu đời ( khoảng 2000 năm trớc đây) hay
ngời ta thờng gọi là nền văn minh nông nghiệp thực vât. Tuy có nhiều đặc
điểm chung nhng mỗi dân tộc ở khu vực Đông Nam á vẫn bảo lu, giữ gìn
và phát huy đợc những nét đặc sắc trong trang phục truyền thống đặc biệt
là trang phục của phụ nữ.
Mối quan hệ giữa trang phục truyền thống và thời trang hiện đại cũng
là một vấn đề đợc xem xét trong việc tìm hiểu trang phục.Do đó điều quan
trọng hiện nay là làm sao gìn giữ đợc những tinh hoa và bản sắc cổ truyền
1
của thẩm mỹ trang phục trong cách phục scs của thời hiện đại.để thời trang


vừa phù hợp với thời đại vừa mang nét đặc thù của các dấu ấn truyền thống
tạo ra một phong cách mặc riêng biệt và độc đáo của từng dân tộc . Khi
trình bày đề tài này chúng tôi mong muốn đợc góp một phần nhỏ bé vào
việc gìn giữ và phát huy bản sắc truyền thống trong trang phục mặc của các
dân tộc Đông Nam á.
Trong giới hạn của một bài viết, cộng với việc hạn chế của tài liệu
tham khảo,chúng tôi chỉ xin trình bày một khía cạnh nhỏ trong phong tục
mặc đó là Trang phục truyền thống của phụ nữ một số nớc Đông Nam
á.
Bài viết đợc trình bày theo nội dung sau:
Chơng I : Địa lý - môi trờng văn hoá và ảnh hởng của nó đối với
trang phục
1. Địa lý - môi trờng văn hoá
2. Những đặc điểm chung trong trang phục truyền thống của phụ nữ
một số nớc Đông Nam á.
3. Nét đặc sắc trong chất liệu trang phục
ChơngII: Trang phục truyền thống và ảnh hởng của nó trong xã hội
hiện đại: Trang phục của phụ nữ Thái Lan, Malaysia, Việt Nam.
Kết luận:
2
Ch ơng I
Địa lý- môi trờng văn hoá và ảnh hởng
của nó đối với trang phục
1. Địa lý- môi trờng văn hoá
Đông Nam á là một khu vực khá rộng, diện tích khoảng trên 4 triệu
km
2
trải ra trên một phần trái đất từ khoảng 92
0
đến 140

0
kinh Đông và từ
khoảng 28
0
vĩ Bắc chạy qua xích đạo đến khoảng 15
0
vĩ Nam. Về mặt địa
lý, hành chính Đông Nam á hiện nay gồm 10 nớc: Việt Nam, Lào,
Campuchia,TháiLan, Myanma, Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippines,
Brunei
(10)
, với số dân khoảng 600 triệu ngời (theo số liệu năm 1999).
Do điều kiện địa lý nằm trên bán đảo (Đông nam á ) và hệ thống các
quần đảo (Đông Nam á hải đảo) , tiếp giáp với biển Đông , biển Jawa, eo
Malacca nên đặc điểm nổi bật nhất của khí hậu Đông Nam á là tính chất
gió mùa tạo nên hai mùa tơng đối rõ rệt : mùa khô, lạnh, mát và mùa ma t-
ơng đối nóng và ẩm. Vì thế Đông Nam á còn đợc gọi là khu vực Châu á
gió mùa. Về mùa hạ có gió mùa từ biển vào nên lợng ma rất cao, từ 2000
đến 4000 mm. Mùa đông có gió mùa đông bắc từ lục địa thổi ra, thời tiết
khô ráo ( trừ vùng Malaya nằm trong đới khí hậu xích đạo nóng và ẩm ớt
quanh năm ).
Mạng lới sông ngòi dày đặc với một số hệ thống sông lớn nh sông Mê
Công, sông Hồng, sông Mênam, sông Iraoadi... cung cấp nớc cho các đồng
bằng châu thổ.
3
Khí hậu biển cũng là một đặc điểm quan trọng đối với tuyệt đại đa số
các quốc gia Đông Nam á. Chính gió mùa và khí hậu biển làm cho khí hậu
vùng Đông Nam á đáng lẽ trở nên khô cằn ( nh một số lục địa khác có
vùng vĩ độ ) nhng nó đã biến Đông Nam á thành Thiên đờng của thế giới
thực vật, xanh tốt và trù phú vơí những đô thị đông đúc và thịnh vợng nh

Kuala-Lumpur, Singapore, Jacacta...
Điều kiện tự nhiên nóng ẩm, ma nhiều và có gió mùa đã góp phần tạo
nên đặc trng của Đông Nam á : nền văn minh thực vật hay nền văn minh
lúa nớc. Đông Nam á đợc coi là cái nôi của cây lúa nớc và là một trong ,
năm trung tâm cây trồng lớn của thế giới. Vì thế nông nghiệp trồng lúa nớc
đã trở thành cội nguồn, thành mẫu số chung của nền văn minh khu vực.
Đó là nền văn minh có đủ sắc thái đồng bằng, biển, nửa đồi núi, nửa rừng
với đủ các dạng kết cấu đan xen phức tạp ... nhng mẫu số chung là văn minh
nông nghiệp trồng lúa, văn hoá xóm làng (Trần Quốc Vợng, Cao Xuân
Phổ: Đông Nam á một nền văn hoá cổ xa,Báo nhân dân,số ra ngày
1-10-1978).
Chính hai nhân tố của môi trờng tự nhiên hoặc có nguồn gốc từ tự
nhiên là khí hậu nóng bức của vùng nhiệt đới và công việc lao động trồng
lúa nớc đã có nhiều ảnh hởng và chi phối tới cách thức trang phục của c dân
Đông Nam á, đặc biệt là trang phục của phụ nữ. Điều kiện tự nhiên, văn
hoá đó đã thúc đẩy sự phát triển, tính đa dạng của từng vùng, từng khu vực
của trang phục để con ngời thích nghi và tồn tại. Đồng thời thiên nhiên ấy,
khí hậu ấy chính là điều kiện ban đầu cho việc hình thành và xử lý trang
phục có thể nói trang phục của phụ nữ Đông Nam á đã ra đời dựa trên bối
cảnh của nền văn minh thc vật với môi trờng sông nớc, khí hậu nhiệt đới
gió mùa, nóng ẩm, tất cả tồn tại hoà quyện với nhau một cách hài hoà, uyển
chuyểnvà rất gần gũi với thiên nhiên. Chẳng hạn về màu sắc trang phục,
hầu hết là có nguồn gốc từ tự nhiên : mnàu nâu non vốn gần gũi với màu
4
phù xa của bùn đất, màu lam, màu chàm vốn gần gũi với mầu của núi non,
các sắc màu tơi sáng dờng nh bắt đầu từ sắc mầu của các loài hoa, quả (hoa
đào, hoa lý, vàng mơ ... )
(8)
. Sự mềm mại, tha thớt của những đờng nét
trang phục trong tà áo dài Việt Nam, trong bộ Kain của phụ nữ Indônêsia

hay bộ Phá xin của phụ nữ Thái Lan ... dờng nh cũng đợc bắt đầu từ vẻ uốn
lợn của những dòng sông, con suối trong vắt. Dờng nh môi trờng văn hoá
sông nớc có ảnh hởng không phải là nhỏ tới cách thức trang phục của phụ
nữ Đông Nam á. Chiếc váy của phụ nữ là một dẫn chứng cụ thể chứng tỏ
điều kiện địa lý - môi trờng văn hoá có ảnh hởng nhiều tới trang phục. Với
hệ thống sông ngòi dày đặc, lợng ma lớn, khí hậu nóng ẩm thì chiếc váy là
một trang phục hết sức thuận lợi của phụ nữ Đông Nam á, có thể mặc trong
bất kỳ trờng hợp nào. Có phải vì thế mà hiện nay váy vẫn là một trang phục
đợc phụ nữ nhiều nớc Đông Nam á sử dụng, mặc dù kiểu cách và chất liệu
có nhiều thay đổi để phù hợp với lối sống hiện đại ngày nay.
Bên cạnh việc chịu ảnh hởng của điệu kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm,
ma nhiều, mang đặc trng của nền nông nghiệp lúa nớc thì trang phục của
phụ nữ Đông Nam á cũng chịu ảnh hởng của văn hoá du nhập tùa bên
ngoài vào, chủ yếu là chịu ảnh hởng của văn hoá ấn Độ và Trung Quốc. Sở
dĩ nói nh vậy là vì Đông Nam á có một vị trí đặc biệt, nó nằm trọn giữa
hai đại dơng lớn là Thái Bình Dơng và ấn Độ Dơng và nằm giữa hai nền
văn minh lớn của nhân loại đó là văn minh Trung Hoa và văn minh ấn Độ.
Sự tiếp xúc, giao lu với hai nền văn minh này đã có từ rất sớm, khoảng thế
kỷ I II trCN. ảnh hởng của văn hoá Trung Hoa và ấn Độ tới khu vực
Đông Nam á khá toàn diện và sâu sắc trên tất cả mọi lĩnh vực, trong đó có
một phần ảnh hởng tới trang phục. ảnh hởng đó đợc thể hiện qua các hoa
văn trên trang phục mang đậm màu sắc ấn Độ nh hình chim công, rắn
Naga, hoa sen....,các hoa văn hình học với những đờng nét dệt rất kì công và
5
tỉ mẩn đến từng chi tiết. Hình ảnh chiếc áo dài của Việt Nam cũng chịu ảnh
hởng nhiều từ chiếc áo dài Thợng Hải của Trung Hoa.
2. Những đặc điểm chung trong trang phục truyền
thống của phụ nữ một số nớc Đông Nam á
2.1. Trang phục chính
Trang phục chính gồm có đồ mặc phía trên và đồ mặc phía dới

2.1.1. Đồ mặc phía dới.
Đồ mặc phía dới tiêu biểu và ổn định hơn cả của phụ nữ Đông Nam á
qua các thời đại là cái váy. Váy là đồ mặc đặc trng của phụ nữ ở hầu hết
các dân tộc Đông Nam á (nếu nh không nói là tất cả). ở mọi nơi, từ những
vùng xa xôi thuộc các quốc gia hải đảo nh Malaysia, Indosia, Philippin,
Brunei đến các vùng núi của nhiều quốc gia lục địa Đông Nam á nh: Việt
Nam, Campuchia, Thái Lan, Mianma, Lào.... thậm chí ngay cả ở các thủ đô
nh Phnômpênh, Kuala Lumur, Jakarta.... phụ nữ hiện này vẫn mặc váy
(1)
.
Qua đó ta thấy váy là trang phục mặc hết sức phổ biến rộng rãi của phụ nữ
các nớc trong khu vực Đông Nam á.
Sở dĩ nó là trang phục đặc trng và phổ biến của phụ nữ Đông Nam á vì
mặc váy không chỉ thoáng, mát, gây cảm giác dễ chịu, đối phó đợc một
cách có hiệu quả với khí hậu nóng, bức mà còn phù hợp với công việc đồng
áng. Khi làm việc hoặc khi đi lại, váy đợc kéo cao tới đầu gối, gặp sông,
suối, trớc khi lội xuống nớc ngời ta cởi váy ra, quấn lên đầu, sang bờ bên
kia lại mặc vào. Khi ở nhà hoặc nghỉ ngơi váy đợc thả dài đến tận gót chân,
thật là tiện lợi
(5)
. Do những đặc thù phù hợp với môi trờng, khí hậu nóng
bức của khu vực Đông Nam á và chiếc váy khác hẳn với chiếc quần có
nguồn gốc du mục Trung á là nơi có khí hậu giá lạnh và công việc chủ yếu
là chăn nuôi cỡi ngựa.
6
Váy có hai loại: váy khâu và váy quấn. Váy quấn là tấm vải hình chữ
nhật đợc quấn cho hai mép chạy về một phía chân, đầu mảnh vải đợc thắt
lại. Váy khâu là loại váy hai mép vải đợc khâu thành hình ống.
ở Đông Nam á, váy đợc gọi theo một từ quen thuộc khác là sarông.
Sarông của ngời Malaysia, Indonesia, Brunei gọi là Kain nó là một loại váy

đơn giản, chỉ là một tấm vải quấn quanh mình. Ngày này, sarông vẫn đợc
hầu hết các dân tộc Đông Nam á, đặc biệt là các dân tộc ít ngời sử dụng.
Chỉ lấy riêng Philippines làmví dụ cũng đủ thấy sự phổ biến rộng rãi của nó.
Phụ nữ dân tộc Tagan, Visaia, Ilacano, Bicon và hàng loạt dân tộc khác nh
Ifugao, Bonter, Tinjian, Kaling, Gatan, Ivatan.... đều mặc sarông.
(1)
Váy
của phụ nữ Thái Lan đợc gọi là Phá xin, là một loại váy khâu liền (váy ống),
gấp ở eo. Tuỳ từng địa phơng mà Phá xin có những kiểu dáng, màu sắc
khác biệt nhau. Thờng ngày chiếc Phá xin đợc mặc kết hợp với chiếc áo lót
cộc tay bó sát ngời
(7)
. Còn Kain của phụ nữ Indonesia là một tấm vải nhiều
màu sắc đợc quấn hai vòng quanh ngời từ thắt lng đến đầu gối hoặc chấm
mắt cá chân. Kain thờng dài 2,5m và rộng từ 0,5m đến 1m. Kain ngắn
(Kain pendek) để mặc khi làm việc nặng, còn bình thờng thì phụ nữ
Indonesia mặc Kain dài (Kain panjnang)
(3)
. Tuy cùng là một chiếc váy nh-
ng ở mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, phụ nữ lại mặc những chiếc váy có những
nét đặc sắc riêng để khi nhìn vào sẽ biết đợc đó là dân tộc nào hay quốc
giao nào?
Đi liền với váy, thờng có cạp váy (hay còn gọi là dải thắt lng), đợc làm
bằng vải với mục đích giữ cho váy khỏi tuột. Cạp váy là một mảnh vải rộng
khoảng một gang tay có thể khâu liền cùng với váy hoặc là một tấm vải dài
tách rời, khi mặc váy sẽ thắt lại. Tấm vải đó đợc gọi là dải thắt lng có chiều
dài hơn 2m. Cạp váy thờng khâu bằng dải vải khác màu nh màu đỏ, trắng,
xanh.... miễn không đợc đồng màu với thân váy. Dải cạp là để gập mép sao
cho váy bó sát thân eo, làm đờng thắt lng nổi cộm rõ đờng nét thắt đáy lng
ong. Trên dải cạp thờng trang trí các hoa văn, hoạ tiết một cách chi tiết tỉ

7
mỉ. Nh trên cạp váy của phụ nữ Mờng (cạp váy đợc dệt bằng vải thổ cẩm)
trang trí những hoa văn hình học và đợc dệt một cách công phu, tỉ mẩn đến
từng chi tiết.
Váy là y phục vừa cổ xa nhất, vừa chung nhất trong nhiều dân tộc và
tộc ngời ỏ Đông Nam á. Qua thời gian và theo thời đại tuy có nhiều thay
đổi cho phù hợp nhng chiếc váy vẫn giữ đợc những nét đặc thù để ta dễ
dàng nhận biết và phân biệt đợc trang phục truyền thống của phụ nữ các nớc
Đông Nam á so với các nớc khu vực khác.
2.1.2. Đồ mặc phía trên:
ở khắp Đông Nam á, y phục bên trên của phụ nữ là chiếc áo ngắn đ-
ợc làm từ vải bông hay vải gai và thờng không có ống tay. áo đợc cấu thành
từ hai mảnh vải khâu lại với nhau ở phía lng, phía trớc để mở và có dây để
thắt khi mặc. Nhng kiểu áo đó cũng biến dạng ít nhiều ở các dân tộc và các
tộc ngời khác nhau.
Đối với phụ nữ Kachin (Mianma) áo mặc ngoài không có tay nhng áo
mặc trong lại có ống tay dài. Trong khi đó ngời Chin (Mianma) lại chỉ mặc
một kiểu áo không có ống tay. Cũng vẫn là kiểu áo hai mảnh, nhng áo của
ngời Lisu và Lahu (Mianam) lại có tà dài tới đầu gối và ống tay ngắn
(5)
.
Điều khác biệt là áo dài của ngời Lahu đợc xẻ ở bên sờn từ thắt lng và có
chiếc móc cài bằng đồng hoặc cổ. áo cũng là y phục phổ biến ở các nhóm
Karen (Mianam và Thái Lan), ở ngời Kaia (Mianma). Y phục của hai dân
tộc này là đối tợng lý thú cho các nhà nghiên cứu, vì nhiều vấn đề cha đợc
lý giải rõ ràng. VD: Ngời Karen mặc áo ngắn, không ống tay còn ngời Kaia,
ngoài áo ngắn còn có tấm áo kháo bên ngoài mỗi khi trời lạnh. Tục mặc tấm
khoác hiện nay vòn rất phổ biến ở các dân tộc miền núi Việt Nam và
Campuchia. Ngời Xtiêng (Việt Nam), phụ nữ mặc tấm khoác khi dự lễ hội.
Cách đây không lâu, tấm khoác còn là một bộ phận y phục của phụ nữ Thái

Lan, đặc biệt là ở miền Trung và miền Đông Bắc Thái Lan. Một chi tiết rất
8
đặc trng của y phục các nhóm tộc ngời Karen là ống tay áo rời, khi cần thiết
(khi nóng bức hay khi làm việc) ngời ta có thể tháo bỏ hai ống tay áo. Kiểu
tay áo cơ động này cũng phổ biến ở ngời Tauntu. Kiểu may áo của vài
dân tộc khác ở Myanmar cho thấy xa kia họ có dùng loại ống tay áo cơ
động Ví dụ: ngời Akha, ống tay áo đợc khâu không phải trực tiếp vào áo
mà là một mảnh vải trắng trung gian nối giữa áo và ống tay.
ở Đông Nam á, đặc biệt là vùng lục địa, còn có kiểu áo cũng không
kém phần đặc săc, đó là áo chui. Hai khu vực phổ biến kiểu áo này, một ở
Myanma và Thái Lan (ngời Karen), một ở Đông Dơng. áo chui của ngời
Karen không có ống tay hoặc chỉ có ống tay ngắn. Những chiếc áo chui th-
ờng rất rộng nên vẫn gây ấn tợng nh là có ống tay. Phụ nữ cha chồng Karen
trắng ở Thái Lan thờng mặc áo chui dài chấm gót chân. Phụ nữ Giaien
Karen mặc áo chui ngắn và váy. Phụ nữ Taunta mặc áo chui đen. Phụ nữ
Taunyo mặc áo chui đỏ. Gần đây áo chui của các tộc ngời Karen dần dần bị
thu ngắn lại và trở thành một kiểu áo cánh. ở Đông Dơng, áo chui phổ biến
hơn cả là ở ngời Chăm (Việt Nam), ngoài ra còn có ở ngời Êđê, Mnông,
Mạ và ở cả Campuchia. áo chui của phụ nữ Chăm màu xanh thẫm, ống tay
dài, bó nên họ chỉ mặc khi hội lễ hoặc khi trời lạnh. Con gái và phụ nữ trẻ
mặc áo chui, qua tuổi 30 họ mặc váy sarông.
C dân Đông Nam á lục địa còn có một loại y phục khá đặc trng, đó là
chiếc yếm. Yếm là một miếng vải vuông đặt chéo trên ngực ngời mặc. ở
góc phía trên khoét hình trong làm cổ yếm (loại yếm này có tên là yếm cổ
xây) hay khoét hình chữ V (gọi là yếm cổ xẻ hay yếm con nhạn). ở góc
nhọn cổ yếm (cổ xẻ) có ba đờng khâu nổi nh hình chân chim có tác dụng
trang trí, đồng thời giữ cho cổ yếm lâu bị rách
(13)
. Hai đầu cổ yếm có hai
dải nhỏ hình tam giác dài vắt chéo ngang ở sau lng rồi lại buộc ra phía trớc.

Có hai kiểu mặc yếm: mặc bên trong và không cần áo ngoài, kiểu thứ hai là
mặc yếm bên trong mặc áo bên ngoài. Yếm đợc mặc phổ biến ở các dân
9
tộc thiểu số ở Đông Nam á nhng đó là đồ mặc mang tính chất thuần tuý
Việt Nam
(11)
, thờng do phụ nữ tự cắt may, nhuộm lấy với nhiều kiểu cổ,
nhiều màu phong phú; yếm nâu để đi làm thờng ngày ở nông thôn, yếm
trắng thờng ở thành thị, yếm hồng, yếm đào, yếm thắm..... dùng vào những
ngày lễ hội. Yếm dùng để che ngực cho nên nó trở thành biệu tợng của nữ
tính và có sức quến rũ mãnh liệt:
Ba cô đội gạo lên chùa.
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho s.
S về s ốm tơng t.
ốm lăn ốm lóc cho s trọc đầu.
Yếm và những bộ phận của yếm trở thành biểu tợng của tình yêu:
Ước gì sông rộng một gang,
Bắc cầu giải yếm cho chàng sang chơi
Ngời ta đã nói rất nhiều về cái yếm. Nó vừa là vật che chắn vừa là vật
trang điểm đầy sức quến rũ không kém gì hoa tai, nhẫn, xuyến hay son
phấn. Có ý kiến cho rằng, yếm có nguồn gốc ở phía Bắc, đợc các tộc ngời
Tạng Miến và Mèo Dao đa vào Đông Nam á
(5)
.
2.2. Trang phục phụ
Bên cạnh trang phục chính bao gồm đồ mặc trên và dới, trang phục
của phụ nữ các nớc Đông Nam á còn có những bộ phận khác không kém
phần điển hình, nó thể hiện những nét đặc sắc trong trang phục truyền thống
của phụ nữ các nớc Đông Nam á.
2.2.1. Khăn và mũ.

Phụ nữ Đông Nam á, cũng nh phụ nữ các nơi khác trên thế giới thờng
dùng khăn và mũ. Khăn vừa có tác dụng che ma, che nắng vừa làm gọn tóc,
do đó nó giúp con ngời lao động dễ dàng. các cô gái Thái (miền Tây Bắc
Việt Nam) trở nên duyên dáng hơn với chiếc khăn Piêu (khăn thêu) đội đầu
10

×