Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

LUẬN VĂN: Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta Thực trạng và một số giải pháp cơ bản pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.2 KB, 37 trang )
















LUẬN VĂN:

Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo định hướng XHCN ở nước ta -
Thực trạng và một số giải pháp cơ bản









Phần mở đầu


Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, loài người không ngừng tìm kiếm
những mô hình thể chế kinh tế thích hợp đề đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Một
trong những mô hình thể chế kinh tế như thế là mô hình kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Kinh tế thị trường là nấc thang phát triển cao hơn kinh tế
hàng hoá, khi mà các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều được thực hiện
thông qua thị trường.
Sự phát triển của sản xuất hàng hoá làm cho phân công lao động xã hội ngày
càng sâu sắc, chuyên môn hoá, hiệp tác hoá ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các
ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ.
Hơn nữa, những nhà sản xuất kinh doanh muốn chiếm được ưu thế trên thị
trường phải năng động, nhạy bén, không ngừng cải tiến kỹ thuật và hoịp lý hoá sản
xuất. Từ đó làm tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển.
Phát triển sản xuất hàng hoá với quy mô lớn sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và
tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế ở trong nước và nước ngoài, hội nhập
nền kinh tế thế giới.
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa nên cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, lạc hậu, khả năng cạnh
tranh hạn chế. Trong khi đó, thị trường thế giới và khu vực đã được phân chia bởi
hầu hết các nhà sản xuất và phân phối lớn. Ngay cả thị trường nội địa cùng chịu sự
phân chia này.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế xã hội, để ổn định kinh tế
trong nước và hội nhập quốc tế ta phải xây dựng một nền kinh tế mới, một nền kinh
tế nhiều thành phần, đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
Phát triển kinh tế thị trường có vai trò rất quan trọng, đối với nước ta muốn
chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa thì phải phát triển kinh tế
thị trường là một tất yếu khách quan. Qua đây em xin chọn đề tài:





“Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước
ta - Thực trạng và một số giải pháp cơ bản”

I/ Cơ sở lý luận của việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
trong thời kỳ quá độ lên CNXH nói chung.
1. Lý luận của chủ nghĩa Mac- Lênin về sự phát sinh phát triển của sản
xuất hàng hoá.
1.1. Sự ra đời của sản xuất hàng hoá.
* Quá trình chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hoá sản xuất
tự cung tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế đầu tiên mà loài người sử dụng để giải quyết
vấn đề để sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai.
Sản xuất tư cung tự cấp là kiểu tổ chức sản xuất mà trong đó sản phẩm của
người lao động làm ra được dùng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của nội bộ từng hộ
gia đình, từng công xã hay từng cá nhân riêng lẻ. Sản xuất tự cung tự cấp còn được
gọi là sản xuất tự cấp tự túc hoặc kinh tế tự nhiên.
Đây là kiểu tổ chức sản xuất khép kín nên nó thường gắn với sự bảo thủ, trì
trệ, nhu cầu thấp, kỹ thuật thô sơ lạc hậu. Nền kinh tế tự nhiên tồn tại ở các giai
đoạn phát triển thấp của xã hội (công xã nguyên thủy, nô lệ, phong kiến).
ở Việt Nam hiện nay, kinh tế tự nhiên vẫn còn tồn tại ở vùng sâu, vùng xa,
vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên, đồng bào dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên, khi lực lượng sản xuất phát triển cao, phân công lao động được mở
rộng thì dần dần xuất hiện trao đổi hàng hoá. Khi trao đổi hàng hoá trở thành mục
đích thường xuyên của sản xuất thì sản xuất hàng hoá ra đời.
* Sản xuất hàng hoá.
Sản xuất hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản
xuất ra để bán trên thị trường.





Trong kiểu tổ chức kinh tế này, toàn bộ quá trình sản xuất phân phối - trao đổi
- tiêu dùng; sản xuất ra cái gì, như thế nào và cho ai đều thông qua việc mua bán,
thông qua hệ thống thị trường và do thị trường quyết định.
Cơ sở kinh tế - xã hội của sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá là phân
công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa người sản xuất này và người
sản xuất khác do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định.
Phân công lao động xã hội là việc phân chia người sản xuất vào các ngành
nghề khác nhau của xã hội. Hoặc nói cách khác đó là chuyên môn hoá sản xuất.
Do phân công lao động, xã hội nên mỗi người chỉ sản xuất một hay một vài
sản phẩm nhất định. Song, nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của mọi người đều cần có
nhiều loại sản phẩm. Vì vậy họ đòi hỏi phải có mối liên hệ trao đổi sản phẩm cho
nhau, phụ thuộc vào nhau.
Trong lịch sử đã diễn ra 3 cuộc phân công lớn:
+ Ngành chăn nuôi tách khỏi ngành trồng trọt.
+ Ngành thủ công tách ra khỏi ngành nông nghiệp.
+ Dẫn tới xuất hiện ngành thương nghiệp.
Phân công lao động xã hội là điều kiện của sản xuất hàng hoá. Điều kiện thứ
hai của sản xuất hàng hoá là sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất do
các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định.
Dựa vào điều kiện này mà người chủ tư liệu sản xuất có quyền quyết định việc
sử dụng tư liệu sản xuất vànhững sản phẩm do họ sản xuất ra. Như vậy quan hệ sở
hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã chia rẽ người sản xuất, làm họ tách biệt nhau
về mặt kinh tế.
Trong điều kiện đó người sản xuất này muốn sử dụng sản phẩm của người sản
xuất khác thì phải trao đổi sản phẩm lao động cho nhau. Sản phẩm lao động trở
thành hàng hoá.





Khi sản phẩm lao động trở thành hàng hoá thì người sản xuất trở thành người
sản hàng hoá, lao động của người sản xuất hàng hoá vừa có tính chất xã hội, vừa có
tính chất tư nhân, cá biệt. Tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hoá thể hiện
ở chỗ do phân công lao động xã hội nên sản phẩm lao động của người này trở nên
cần thiết cho người khác cần cho xã hội.
Còn tính chất tư nhân cá biệt thể hiện ở chỗ sản xuất ra cái gì, bằng công cụ
nào, phân phối cho ai là công việc cá nhân của chủ sở hữu về tư liệu sản xuất, do họ
định đoạt. Tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hoá chỉ được thừa nhận khi
họ tìm được người mua trên thị trường và bán được hàng hoá do họ sản xuất ra.
Vì vậy, lao động của người sản xuất hàng hoá bao hàm sự thống nhất giữa hai
mặt đối lập là tính chất xã hội và tính chất cá nhân, cá biệt của lao động.
Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội và tính chất tư nhân, cá biệt của lao động sản
xuất hàng hoá là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá. Đối với mỗi hàng hoá
mâu thuẫn đó được giải quyết trên thị trường. Đồng thời nó được tái tạo thường
xuyên với tư cách là mâu thuẫn của nền kinh tế hàng hoá nói chung. Chính mâu
thuẫn này là cơ sở của khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa.
Sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử lâu dài. Đầu tiên
là sản xuất hàng hoá giản đơn dựa trên kỹ thuật thủ công và lạc hậu. Nhưng khi lực
lượng sản xuất phát triển cao hơn, sản xuất hàng hoá giản đơn chuyển thành sản
xuất hàng hoá quy mô lớn. Quá trình chuyển biến này diễn ra trong thời kỳ quá độ
từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản.

* Thị trường và cơ chế thị trường.
Ngày nay sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội phổ biến để phát
triển kinh tế của một quốc gia. Sản xuất hàng hoá luôn gắn chặt với thị trường. Vậy
thị trường là gì?
Thị trường là một lĩnh vực trao đổi hàng hoá mà trong đó các chủ thể kinh tế
thường cạnh tranh với nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá làm ra.





Thị trường thường được gắn với một địa điểm nhất định như chợ, cửa hàng,
văn phòng giao dịch thị trường hoạt động dựa trên nguyên tắc hoàn toàn tự do:
thuận mua vừa bán. Hàng hoá bán trên thị trường chia làm hai loại tương ứng với
hai loại thị trường:
Thị trường đầu vào của sản xuất bao gồm máy móc, thiết bị, nguyên liệu, sức
lao động Thị trường đầu ra bao gồm: lương thực, thực phẩm và những mặt hàng
tiêu dùng thiết yếu.
Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó các vấn đề kinh tế
được giải quyết thông qua thị trường (mua bán và trao đổi hàng hoá), cơ chế thị
trường hoàn toàn đối lập với nền kinh tế tự nhiên. Trong cơ chế thị trường người
sản xuất và người tiêu dùng thường tác động lẫn nhau để giải quyết 3 vấn đề trung
tâm của một tổ chức kinh tế: sản xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho
ai.
Trong thị trường có 3 yếu tố chính: hàng hoá, tiền tệ, người mua bán. Động
lực hoạt động của con người trong cơ chế thị trường là lợi nhuận, nó bị chi phối bởi
một số quy luật như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ.
* Ưu thế của sản xuất hàng hoá.
Thứ nhất, sự phát triển của sản xuất hàng hoá làm cho phân công lao động xã
hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hoá, hiệp tác hoá ngày càng tăng,mối liên hệ
giữa các ngành, các vùng ngày càng chặt chẽ. Từ đó, nó xoá bỏ tính tự cấp tự túc,
bảo thủ trì trệ của nền kinh tế, đẩy mạnh quá trình xã hội hoá sản xuất và lao động.
Thứ hai, tính cách biệt kinh tế đòi hỏi người sản xuất hàng hoá phải năng động
trong sản xuất, kinh doanh để sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Muốn vậy, họ phải ra
sức cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao chất lượng, cải tiến quy cách,
mẫu mã hàng hoá, tổ chức tốt quá trình tiêu thụ Từ đó làm tăng năng suất lao
động xã hội, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ ba, sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, với quy mô ngày càng lớn

làm cho hiệu quả kinh tế đối với xã hội ngày càng cao và ưu thế của nó so với sản
xuất nhỏ ngày càng tăng lên về quy mô, trình độ kỹ thuật và khả năng thoả mãn nhu




cầu sản xuất hàng hoá quy mô lớn góp phần thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung
sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế ở trong nước và nước ngoài, hội nhập với nền
kinh tế thế giới.
Với những tác dụng kể trên, hiện nay trên thế giới có rất nhiều nước (trong đó
có Việt Nam) đã và đang tập trung cho việc phát triển kinh tế hàng hoá.
1.2. Hàng hoá.
Hàng hoá là một vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và
được và được sản xuất ra để bán.
Hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Trong đó giá trị sử
dụng là thuộc tính tự nhiên, còn giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hoá. Hai thuộc
tính này là hai mặt đối lặp cùng tồn tại trong hàng hoá. Cũng từ hai thuộc tính ấy
mà lao động sản xuất hàng hoá mang tính hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu
tượng.
* Giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị sử dụng là những công dụng khác nhau của vật phẩm do thuộc tính tự
nhiên của nó mang lại.
Giá trị tự sử dụng của vật phẩm được thể hiện ra khi ta mang tiêu dùng chúng.
Khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày càng phát triển dần dần người ta tìm thấy
thêm được nhiều thuộc tính có ích. Giá trị sử dụng của hàng hoá rất phong phú, vừa
thoả mãn nhu cầu về vật chất, của thoả mãn nhu cầu về mặt tinh thần. Nó là một
phạm trù vĩnh viễn nhưng trong nền kinh tế hàng hoá giá trị sử dụng đồng thời là
vật mang tính giá trị trao đổi.
Giá trị hàng hoá là một phạm trù rất trừu tượng vì nó là thuộc tính xã hội của
hàng hoá và muốn hiểu được giá trị hàng hoá ta phải xuất phát từ việc nghiên giá trị

trao đổi.
Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng mà một giá trị tự sử dụng này trao đổi
với một giá trị tự sử dụng khác.




Ví dụ như 1 Rìu= 20 kg thóc
Hai hàng hoá có còng dụng khác nhau mà được đem ra trao đổi với nhau là do
chúng có một thuộc tính chung duy nhất, chúng đều là sản phẩm của lao động của
con người.
Việc trao đổi hàng hoá chính là việc trao đổi lao động của người sản xuất hàng
hoá được kết tinh trong hàng hoá.
Thông qua trao đổi chúng ta phát hiện ra thuộc tính thứ hai của hàng hoá, đó là
giá trị.
Vậy thực thể của giá trị hàng hoá là lao động của người sản xuất kết tinh trong
hàng hoá.

* Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá.
Lao động cụ thể: là lao động được tiến hành dưới một hình thức nhất định, có
mục đích, phương pháp hoạt động, đối tượng và kết quả riêng biệt.
Mỗi loại lao động cụ thể tạo ra một giá trị sử dụng nhất định có bao nhiêu loại
sản phẩm hàng hoá thì có bấy nhiêu loại lao động cụ thể khác nhau. Các loại lao
động đó hợp thành hệ thống phân công lao động ở từng quốc gia. Xã hội càng phát
triển thì phân công lao động càng cao, lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn nó tạo
ra giá trị sử dụng cho hàng hoá.
Lao động trừu tượng: Đó là sự hao phí lao động nói chung của người sản xuất
hàng hoá (hao phí sức thần kinh và sức cơ bắp).
Khi có những lao động nào sản xuất ra hàng hoá thì mới quy thành lao động
trừu tượng. Không phải có hai thứ lao động cùng kết tinh trong hàng hoá mà là lao

động sản xuất hàng hoá mang tính hai mặt.
* Thời gian lao động xã hội cần thiết.




Thời gian lao động xã cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hoá
trong những điều kiện sản xuất trung bình xã hội với một trình độ thành thạo trung
bình, cường độ lao động trung bình của người sản xuất.
Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá
có xu hướng nghiêng về thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất mà họ
cung cấp phân bón một loại hàng hoá nào đó trên thị trường.
Hai nhân tố ảnh hưởng đến thời gian lao động cần thiết là năng suất lao động
và cương độ lao động.
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động hay sức sản xuất
của lao động. Luồng giá trị của hàng hoá thay đổi tỷ lệ nghịch với năng suất lao
động xã hội.
Cường độ lao động: Là mức độ tiêu hao về lao động trong một đơn vị thời
gian. Nó cho biết mức độ khẩn trương của lao động.


* Lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là sự tiêu hao sứclực giản đơn mà bất kỳ một người bình
thường nào, không cần biết đến tài nghệ đặc biệt đều có thể tiến hành được để làm
ra hàng hoá.
Lao động phức tạp là loại lao động phải đòi hỏi đào tạo tỷ mỉ, công phu và có
sự khéo léo, tài nghệ, phải có sự tích luỹ lao động. Trong cùng một đơn vị thời gian,
lao động phức tạp sáng tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Vì vậy ta cần lao
động phức tạp là bội số của lao động giản đơn.
Lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết.

1.3. Kinh tế hàng hoá.
Kinh tế hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ biến
của sản xuất hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm để bán để trao đổi trên thị trường.




Kinh tế hàng hoá đối lập với kinh tế tự nhiên và kinh tế chỉ huy. Khi sản xuất
hàng hoá, lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào,
phong phú, thị trường được mở rộng, khái niệm thị trường được hiểu ngày đầy đủ
hơn. Đó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới. ở đây người
mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá
lưu thông trên thị trường.
Để phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta, cần đẩy mạnh và chú trọng phát triển
các loại thị trường. Quá trình chuyển đổi ở nước ta cần phải từng bước hình thành
thị trường thống nhất và thông suốt cả nước. Từng bước hình thành và mở rộng
đồng bộ thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sanả xuất, dịch vụ, thị trường vốn là tiền
tệ Cần phải mở rộng giao lưu hàng hoá, phát triển thị trường trong nước, chú
trọng nông thôn, miền núi, xoá bỏ triệt để mọi hình thức chia cắt thị trường theo địa
giới hành chính. Đồng thời gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế, giải
quyết mối quan hệ giữa tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; có chính sách khuyến
khích sanả xuất nội địa để phát triển mạnh mẽ thị trường nước ta, hội nhập với thị
trường khu vực và thế giới.
ở nước ta, kinh tế hàng hoá mà Đảng chủ trương xây dựng và phát triển trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước”.
2. Những ưu điểm của kinh tế hàng hoá.
So với kinh tế tự nhiên, một loại hình kinh tế còn in đậm dấu vết ở nước ta,
kinh tế hàng hoá có những ưu thế s au.

Một là, thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất nhanh chóng, làm cho sự phân
công lao động, chuyên môn hoá sản xuất càng sâu sắc, hình thành các mối liên hệ
kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người sản xuất, tạo tiền
đề cho sự hợp tác lao động ngày càng chặt chẽ.
Hai là, thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, buộc người sản xuất phải
năng động, luôn cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao nâng suất lao động, cải tiến




chất lượng và hình thức mẫu mã cho phù hợp với nhu cầu xã hội Kết quả là thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển, gắn sản xuất với thị trường.
Ba là, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập chung sản xuất. Mở rộng giao lưu kinh
tế trong nước và hội nhập thế giới. Có tác dụng lớn trong việc tuyển chọn các doanh
nghiệp và cac cá nhân quản lý kinh doanh giỏi.
Bốn là, giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự trói buộc của nền sản
xuất khép kín đã từng kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, tạo những điều
kiện cần thiết cho việc tổ chức và quản lý một nền kinh tế phát triển ở trình độ cao
thực hiện dưới hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ.
Cơ chế thị trường tự điều tiết kinh tế rất linh hoạt, mềm dẻo, uyển chuyển. Tạo
môi trường kinh doanh và gia tăng động lực phát triển kinh tế xã hội mà thành tựu
đạt được là đưa nước ta ra khỏi thời kỳ khủng khoảng và suy thoái kéo dài.
Tuy nhiên, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật của
nó. trên thị trường chưa đựng tính tự phát, chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, mất cân
đối. Vì chạy theo lợi nhuận, các nhà sản xuất kinh doanh có thể gây nhiều hậu quả
sấu, môi trường bị huỷ hoại, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, phá sản, thất
nghiệp, phân hoá xã cao, lợi ích công cộng bị coi nhẹ, các vấn đề công bằng xã hội
không được bảo đảm, tệ nạn xã hội tăng v.v Vì vậy, để phát huy ưu thế, khắc phục
những khuyết tật của nó, cần phải tăng cường sự quản lý của Nhà nước.
3. Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá trong thời kỳ quá độ

Kinh tế hàng hoá ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội, gắn với
hai điều kiện tiền đề:
Sự phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất và sản phẩm lao động. ở nước ta hiện nay, những điều kiện chug của kinh
tế hàng hoá vẫn còn nên sự tồn tại của kinh tế hàng hoá là một tất yếu khách quan.
Một là, phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế của sản xuất
hàng hoá chẳng những không mất đi, trái lại ngày càng phát triển cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu, xoá bỏ tính tự cấp tự túc, đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá.




ở nước ta hiện nay ngày càng có nhiều ngành nghề mới ra đời sống phát triển.
Bên cạnh đó các nghề cổ truyền có tiếng không chỉ trong nước mà cả trên thế giới
trước đây bị cơ chế thị trường cũ làm mai một nay đang dần được khôi phục và phát
triển. Trong nội bộ từng khu vực, từng ngành, địa phương, phân công lao động ngày
càng chi tiết hơn. Điều đó chứng tỏ tính phong phú đa dạng và chất lượng cao hơn
của sản phẩm lao động đưa ra trên thị trường. Sự chuyên môn hoá, hợp tác đã vượt
qua phạm vi quốc gia trở thành phân công lao động trên phạm vi quốc tế.
Hai là, ở nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế, trình độ xã hội hoá
giữa các ngành, các đơn vị sản xuất kinh doanh trong cùng một thành phần kinh tế
vẫn chưa đều nhau. Do vậy việc hạch toán kinh doanh, phân phối và trao đổi sản
phẩm lao động tất yếu phải thông qua hình thái hàng hoá - tiền tệ để thực hiện mối
quan hệ kinh tế, đảm bảo lợi ích kinh tế giữa các tổ chức kinh tế thuộc các thành
phần với nhau.
Nếu xuất phát từ ý muốn chủ quan mà thu hẹp hay cản trở quá trình tiền tệ hoá
các mối quan hệ kinh tế trong giai đoạn lịch sử hiện nay bằng các hình thức khác
nhau sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Do vậy các thành phần kinh
tế trong cơ chế thị trường đều phải tiến hành sản xuất hàng hoá, góp phần làm dân
chủ hoá nền kinh tế, khai thác thế mạnh của thị trường. Phát triển kinh tế hàng hoá

còn là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển của các ngành khác, cơ sở hạ tầng và các
dịch vụ kèm theo như: quảng cáo, tư vấn, ngân hàng
Phát triển kinh tế hàng hoá sẽ khuyến khích được việc ứng dụng khoa học kỹ
thuật và công nghệ mới nhằm tăng năng suất lao động, tăng số lượng, chủng loại và
chất lượng hàng hoá dịch vụ, thúc đẩy tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế
giữa các vùng trong nước và với quốc tế.
Đối với nước ta hiện nay, muốn chuyển từ nền kinh tế còn kém phát triển nên
sản xuất lớn XHCN thì không còn con đường nào khác là phải phát triển kinh tế thị
trường. Bởi vì phát triển kinh tế thị trường được coi là chiếc đòn xeo để xây dựng
CNXH, là phương tiện để xã hội hoá nền sản xuất.




II/ Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần ở Việt Nam.
1. Phát triển kinh tế hàng hoá do yêu cầu của sự phát triển lực lượng sản
xuất. Thực chất là việc chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.
Xuất phát từ quy luật chung phổ biến - mối quan hệ biện chứng giữa lực
lượng sản xuất (LLSX) và quan hệ sản xuất (QHSX). Thật vậy mỗi thành phần kinh
tế bao giờ cũng thích ứng với một tính chất và trình độ nhất định của LLSX, theo đó
lực lượng sản xuất là nội dung và luôn có vai trò quyết định với QHSX và đồng thời
với thành phần kinh tế.
ở nước ta hiện nay, do tính đa dạng về trình độ của LLSX nên về hình thức
QHSX và thành phần kinh tế được đa dạng hoá là tất yếu.
Vì vậy, khi xác định các thành phần kinh tế cần phải xem xét đến tính chất và
trình độ LLSX và tất nhiên phải xem xét trong trạng thái động
Một trong những tư tưởng xuyên suốt do hội nghị lần thứ tư ban chấp hành
trung ương (khoá VIII) nhằm cụ thể hoá và thực hiện thành công những mục tiêu
kinh tế xã hội mà đại hội VIII của Đảng đề ra ra là “Ưu tiên phát triển lực lượng sản

xuất đi đôi với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN” Đây là
bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta. Nó bắt nguồn từ việctất yếu
phải giải phóng mọi năng lực sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước. Theo định hướng XHCN. Xét từ quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất, thì lực lượng sản xuất luôn là yếu tố động nhất, quyết định đối
với sự phát triển của sản xuất xã hội.
Chính vì vậy, để đạt được mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào
năm 2020 Đảng đã xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước bằng cách ưu
tiên phát triển lực lượng sản xuất, thực chất là việc chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn.
2. Phát triển kinh tế hàng hoá do ở Việt Nam tồn tại nền kinh tế nhiều
thành phần.




Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần đó là do còn nhiều hình thức
sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đại hội Đảng VIII khẳng định, các thành phần
kinh tế tồn tại khách quan tương ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, trong giai đoạn lịch sử hiện nay, đó là kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp
tác, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản chủ nghĩa và kinh tế tư bản Nhà nước.
Nếu kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường nước ta
là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi tình trạng thấp kém, đưa
nền kinh tế hàng hoá phát triển cả trong điều kiện ngân sách hạn hẹp.
Để có những chính sách và chiến lược phát triển thích hợp cho từng thời kỳ ta
phải tìm hiểu rõ các thành phần kinh tế đang tồn atại hiện nay.
Thứ nhất, thành phần kinh tế Nhà nước (TPKTNN) là những đơn vị tổ chức
trực tiếp sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất, kinh doanh mà toàn bộ nguồn
lực thuộc sở hữu Nhà nước, hoặc phần của toàn Nhà nước chiểm tỷ lệ khống chế.

Kinh tế Nhà nước (KTNN) bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) các
tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, các ngành kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước.
Các doanh nghiệp Nhà nước là bộ phận quan trọng cơ bản nhất của kinh tế
Nhà nước. Các doanh nghiệp này trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội.
Chẳng hạn như nhà máy thuỷ điện Hoà Bình công ty gang thép Thái Nguyên v.v
Các ngành kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước cung cấp hàng hoá hay dịch vụ cho
xã hội. Bao gồm hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, bưu điện, hệ thống ngân hàng
tài chính, bảo hiểm (ngân hàng công thương Việt Nam, ngân hàng đầu tư và phát
triển, kho bạc ). Các xí nghiệp liên doanh trong đó vốn Nhà nước chiếm tỷ lệ
khống chế (51%).
Nhưng lực lượng vật chất thuộc sở hữu Nhà nước bao gồm: đất đai, tài
nguyên, ngân hàng, tài chính, dự trữ quốc gia
Các doanh nghiệp ở nướcta được hình thành qua ba con đường:
- Nhà nước đầu tư vốn để xây dựng mới hoàn thành ngay từ đâu




- Nhà nước cấp vốn để liên doanh với các ngành khác.
- Nhà nước tiến hành việc đòi nợ, quốc hữu hoá các xí nghiệp tư bản tư nhân.
Ngoài ra với bản chất Nhà nước XHCN, Nhà nước xác định đất đai tài nguyên
thiên nhiên, tài chính, ngân hàng do Nhà nước nắm giữ, chi phối để điều tiết, định
hướng sự phát triển kinh tế xã hội. KTNN thuộc sở hữu Nhà nước, sản xuât kinh
doanh theo nguyên tắc hạch toán kinh tế, thực hiện phân phối theo lao động và hiệu
quả sản xuất kinh doanh. Theo chủ trương của Đảng ta, KTNN cần tập trung vào
những ngành, lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hệ thống tài
chính, Ngân hàng, những cơ sở như giải quyết kinh doanh, thương mại, dịch vụ
quan trọng, những cơ sở kinh tế phục vụ an ninh quốc phòng và vấn đề xã hội, để
đảm bảo cân đối lớn, chủ yếu của nền kinh tế và thực hiện vai trò chủ đạo của nền
kinh tế thị trường.

Tiếp tục đổi mới và phát triển KTNN để đảm bảo những mục tiêu kinh tế xã
hội. Trước hết cần hoàn thiện chế độ chính sách, luật pháp đảm bảo doanh nghiệp
Nhà nước thật sự là một đơn vị sản xuất hàng hoá có tư cách pháp nhân. Phân định
dứt khoát quyền sở hữu Nhà nước với quyền đại diện chủ sở hữu Nhà nước; quyền
sở hữu Nhà nước với quyền sở dụng, quản lý v.v
Thứ hai, thành phần kinh tế hợp tác là sự liên kết kinh tế tự nguyện của chủ
thể kinh tế với các hình thức đa dạng, linh hoạt, phù hợp với nhu cầu, khả năng và
lợi ích của các bên tham gia, có thể dẫn tới hoặc không dẫn tới pháp nhân.
Hình thức tồn tại của kinh tế hợp tác là: Hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã
tiểu thủ công nghiệp hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng.
Các hợp tác xã được hình thành với các quy mô và góc độ khác nhau, tuỳ vào
sự phát triển của lực lượng sản xuất. ở đây người lao động được tự do trong việc
tham gia và rút lui khỏi hợp tác xã.
Trong những năm đổi mới, kinh tế hợp tác xã có những biến đổi cơ bản: hộ
nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ, ruộng đất được giao sử dụng lâu dài.
Thực tế xuất hiện những hình thức hợp tác xã giản đơn, từng khâu như hợp tác xã




cổ phần, hợp tác xã dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ cho kinh tế hộ gia đình, và kinh
tế trang trại phát triển.
Thứ ba, thành phần kinh tế tư bản Nhà nước (TPKTTBNN) là sản phẩm của
sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của các tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản
trong và ngoài nước.
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước bao gồm tất cả các hình thức hợp tác, liên
doanh sản xuất kinh doanh giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế tư bản trong và ngoài
nước, nhằm sử dụng, khai thác phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia, đặt dưới
sự kiểm soát giúp đỡ của Nhà nước.
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc huy động

vốn, kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý của các Nhà nước tư bản.
Lenin chỉ rõ “trong một nước tiểu nông phải đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản Nhà
nước, tiến lên CNXH”.
Nhà nước cần đa dạng hoá các hình thức liên doanh liên kết với các tổ chức và
công ty tư bản nước ngoài, nâng dần tỷ lệ đầu tư của phía Việt Nam. Đồng thời áp
dụng nhiều phương thức góp vốn kinh doanh giữa nhà nước với các nhà kinh doanh
tư nhân trong nước dưới nhiều hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn, nhằm tạo thế và lực mới cho các doanh nghiệp trong nước phát triển, tăng sức
cạnh tranh và hợp tác bên ngoài.
Thứ tư, thành phần kinh tế cá thể (TPKTCT): là thành phần kinh tế hoạt động
sản xuất kinh doanh dựa vào kinh nghiệm của bản thân là chính.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ của nông dân, thợ thủ công, những người buôn bán,
dịch vụ cá thể. Sở hữu của thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân, sản xuất kinh
doanh phân tán, manh mún, trình độ kỹ thuật công nghệ thủ công, mục đích kinh
doanh chủ yếu nuôi sống mình, còn tiểu chủ, bản thân vừa lao động trực tiếp vừa
thuê một số công nhân. Thế mạnh của TPKTCT là phát huy nhanh, có hiệu quả, tiền
vốn, sức lao động, tay nghề, sản phẩm truyền thống. Vì thế nó có vai trò quan trọng
trong nền kinh tế, có khả năng đóng góp phát triển kinh tế xã hội.




Do các ưu thế của nó, nhà nước và các thành phần kinh tế khác không thể
không tạo điều kiện giúp đỡ, hướng dẫn thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ về vốn,
kỹ thuật để nó từng bước tham gia kinh tế hợp tác một cách tự nguyện hoặc làm
“vệ sinh” cho các doanh nghiệp của nền kinh tế.
Thành phần kinh tế thứ năm và cũng là thành phần kinh tế cuối cùng. Thành
phần kinh tế tư bản tư nhân (TPKTTBTN): là các đơn vị kinh tế mà vốn do một
hoặc một số nhà tư bản trong và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Kinh tế tư bản tư nhân tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp, tư nhân, doanh

nghiệp cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn
Từ năm 1991, sau khi có luật doanh nghiệp tư nhân ở nước ta, kinh tế tư bản
tư nhân phát triển mạnh và đóng góp nhất định vào phát triển kinh tế - xã hội.
Cần khẳng định nhất quán chủ trương phát triển kinh tế tư bản tư nhân, bình
đẳng với các thành phần kinh tế khác khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư vào sản
xuất, bảo vệ quyền sở hữu và lợi ích hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi và củng cố lòng
tin cho các nhà đầu tư phát triển.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng, mỗi thành phần kinh tế đồng thời vừa tồn tại độc lập
tương đối vừa tác động qua lại lẫn nhau, vừa hợp tác cạnh tranh với nhau, vừa thống
nhất, vừa mâu thuẫn trong một chỉnh thể kinh tế xã hội. Không nên hiểu mỗi thành
phần kinh tế như những bộ phận tách rời, những lực lượng tự trị và theo đó cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần là sự hợp nhất cơ học của các bộ phận đó.
Trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường, một vấn đề có tính nguyên tắc cần phải nắm vững, đó là kinh tế Nhà
nước phải giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền
tảng của nền kinh tế. Nếu thành phần kinh tế nhà nước đủ mạnh và đóng được vai
trò chủ đạo thì sẽ lôi kéo được các thành phần kinh tế khác theo định hướng XHCN.
Nếu ngược lại, sẽ không loại trừ khả năng thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa sẽ
lớn mạnh hơn và kéo nền kinh tế quốc dân theo định hướng TBCN. Cần phải luôn
nhớ rằng thành phần TBCN đã, đang, và sẽ còn có sự hậu thuẫn quốc tế rất mạnh.




Nhất là trong tình hình hiện nay, các thế lực chống đối XHCN đang tìm cách làm
cho kinh tế tư nhân TBCN ở nước ta thắng thế.
Ta phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần để sản xuất phát triển
liên tục, không bị gián đoạn, tạo sự cạnh tranhh giữa các thành phần kinh tế trong
cơ chế thị trường.
3. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần do đòi hỏi nâng cao

đời sống nhân dân.
Việt Nam đi lên từ một nước phong kiến thuộc địa lạc hậu, tiếp theo đó là
chiến tranh kéo dài. Khi kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước Việt Nam có thời
gian nhìn lại mình thì đã tụt hậu về kinh tế quá xa so với thế giới. Sự hỗ trợ to lớn
của các nước XHCN là hậu thuẫn mạnh mẽ cho cuộc kháng chiến nhưng ở t hời kỳ
hoà bình xây dựng, hỗ trợ đó hầu như không có hiệu quả, thể hiện ở tình trạng lạc
hậu về kỹ thuật so với các nước tư bản phát triển, ở cơ cấu kinh tế bất hợp lý, ở
trình độ và kinh nghiệm quản lý theo kiểu nền kinh tế kế hoạch tập trung Cùng
với sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Đông Âu, Việt Nam đứng bên bờ của khủng
hoảng kinh tế xã hội. Thu nhập bình quân đầu người được đánh giá vào nhóm các
nước nghéo nhất thế giới.




So sánh một số chỉ tiêu kinh tế xã hội giữa Việt Nam và các nước ASEAN
năm 1993.
Chỉ tiêu
Việt
Nam
Indonêx
ia
Malaix
ia
Philipi
n
Xingap
o
Thái
Lan

GDP bình quân đầu
người USD - Phương
pháp Atlas
170 730 3.160 830 19.310 2.040
GDP bình quân đầu
người USD - Phương
pháp PPP
1.040 3.140 8.630 2.660 20.470 6.390
Chỉ số HDI 0,514 0,568 0.794 0.621 0.836 0.798
Vị trí HDI trong 176
nước
116 105 57 99 43 54
HDI - chỉ số phát triển con người.
Trước đây, việc thực hiện chính sách và cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp khiến cho sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị
và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh, đời sống một bộ phận nhân dân,
nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, đồng bào dân tộc, còn
quá khó khăn vất vả. Chất lượng giáo dục đào tạo, y tế ở nhiều nơi rất thấp. Người
nghèo không đủ tiền để chữa bệnh và cho con em đi học. Trong khi đó nguồn tài
chính từ ngân sách và các nguồn lực khác có thể huy động được cho yêu cầu phúc
lợi xã hội vừa hạn chế vừa chưa được sử dụng có hiệu quả. Tình trạng ùn tắc giao
thông, ô nhiễm môi trường sinh thái, huỷ hoại tài nguyên ngày càng tăng. Văn hoá
phẩm độc hại lan tràn, tệ nạn xã hội phát triển, trật tự an toàn xã hội còn nhiều phức
tạp.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế của đời sống xã hội, để ổn định kinh tế trong
nước và hội nhập quốc tế ta phải xây dựng một nền kinh tế mở, một nền kinh tế
nhiều thành phần, đa dạng hoá các hình thức sở hữu.





Sự thành công của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN không chỉ
biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng cao, mà còn ở chỗ mức sống thực tế của mọi tầng lớp
dân cư đều được nâng lên, y tế, giáo dục đều phát triển, khoảng cách giữa giàu
nghèo được thu hẹp, đạo đức, truyền thống bản sắc văn hoá dân tộc được giữ vững,
môi trường được bảo vệ.
III. Thực trạng và Những giải pháp để phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt
Nam.
1. Nội dung của phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng XHCN ở Việt Nam.
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ
biến của sản xuất là sản xuất ra sản phẩm là để bán, để trao đổi trên thị trường.
Nội dung của phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
XHCN ở Việt Nam là:
Phát triển nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế nhiều thành phần.
Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ kinh tế kém phát
triển, mang nặng tính tự cấp tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường.
Đại hội Đảng VII đã khẳng định, các thành phần kinh tế đang tồn tại khách
quan tương ứng với tính chất và trình độ sản xuất. Trong giai đoạn lịch sử hiện nay,
đó là: Kinh tế Nhà nước; Kinh tế hợp tác; Kinh tế cá thể; Kinh tế tư bản tư nhân;
Kinh tế tư bản nhà nước.
Nền kinh tế nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú trong việc
đáp ứng nhu cầu xã hôị vừa phản ánh tính chất phức tạp trong việc quản lý theo
định hướng XHCN. Do đó, việc “Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải
đi đôi với việc tăng cường quản lý của nhà nước về kinh tế xã hội. Để hạn chế và
khắc phục những hậu quả của mặt trái của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường mang lại, giữ cho công cuộc đổi mới đúng hướng và
phát huy bản chất tốt đẹp của CNXH Nhà nước phải thực hiẹen tốt vai trò quản lý





kinh tế - xã hội bằng luật pháp, kế hoạch, chính sách, thông tin, tuyên truyền, giáo
dục và các công cụ khác.
Nhận thức tính chất nhiều thành phần của kinh tế là một tất yếu khách quan, từ
đó có thái độ đúng đắn trong việc khuyến khích sự phát triển của chúng theo
nguyên tắc tự nhiên của kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp đi lên CNXH ở nước ta.
Sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, cũng có nghĩa là còn có
các quy luật kinh tế khác nhau hoạt động. Sự vận động và phát triển của các thành
phần kinh tế trong giai đoạn này chịu sự chi phối trực tiếp của các quy luật thị
trường. Thông qua hoạt động của các quy luật thị trường mà nó đào thải những mặt,
yếu tố bất hợp lý, thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hoá sản xuất.
2. Phát triển kinh tế hàng hoá theo hướng mở rộng quan hệ kinh tế với
nước ngoài.
Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá đã làm phá vỡ các mối quan hệ
kinh tế truyền thống của nền kinh tế khép kín, kém phát triển, bảo thủ, trì trệ. Đặc
biệt đến giai đoạn tư bản chủ nghĩa sự phát triển của kinh tế hàng hoá đã làm cho thị
trường dân tộc hoạt động gắn bó với thị trường thế giới.
Việc mở rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài là tất yếu vì sản xuát và trao đổi
hàng hoá tất yếu vượt qua phạm vi quốc gia, mang tính chất quốc tế, đồng thời đó
cũng là tất yếu sự phát triển nhu cầu. Biệt lập trong sự phát triển kinh tế dẫn đến đói
nghèo. Do đó mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài dưới nhiều dạng khác nhau
đối với nước ta như là một tất yếu trong sự phát triển, khi trình độ khoa học kỹ thuật
của thế giới cho phép đáp ứng nhu cầu cả về sản xuất lần tiêu dùng. Thông qua mở
rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài để biến nguồn lực bên ngoài thành nguồn lực
bên trong. Điều đó tạo điều kiện cho quá trình phát triển rút gắn ở nước ta.
Mở rộng quan hệ kinh tế với nước bằng nhiều hình thức như tăng cường hoạt
động ngoại thương, hợp tác, liên doanh, liên kết đề thu hút vốn đầu tư cho nước ta.
Gia nhập vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực. Tranh thủ nắm bắt những,

những mặt hàng mũi nhọn có tương lai, gắn với công nghệ mới, tiến tới có khả năng




cạnh tranh trên thị trường thế giới., nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta hội nhập
vào nhịp điệu của nền kinh tế thế giới.
Việc “mở cửa” về kinh tế phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn
nhau, đảm bảo chủ quyền và cũng có lợi.




3. Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN thông qua bản
chất và vai trò quản lý của Nhà nước.
Mặc dù có rất nhiều ưu điểm nhưng nền KTTT không thể nào giải quyết được
những vấn đề do chính cơ chế và đời sống kinh tế xã hội đặt ra. Vì vậy, sự tác động
của Nhà nước - một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách
quan - vào nền kinh tế là một tất yếu cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Thiên sử
“can thiệp” của Nhà nước vào kinh tế, để cho thị trường tự do hoạt động, thì việc
điều kinh tế nước ta sẽ không có hiệu quả.
Nhà nước sử dụng luật pháp và các công cụ kinh tế vĩ mô khác để quản lý kinh
tế hàng hoá, làm cho nền kinh tế “lành mạnh” hơn, giảm bớt các thăng trầm, đột
biến xấu trên con đường của nó, khắc phục được tình trạng phân hoá bất bình đẳng,
bảo vệ được tài nguyên môi trường của đất nước.
Sự vận dung của nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước ở nước ta là sự vận động được điều tiết bởi sự thống nhất giữa cơ chế thị
trường - “bàn tay vô hình”, và sự quản lý của nhà nước - “bàn tay hữu hình”.
4. Thực trạng kinh tế hàng hoá ở nước ta hiện nay.
Nước ta đang từng bước quá độ lên CNXH không qua giai đoạn phát triển tư

bản chủ nghĩa, xu hướng vận động và phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với các
đặc điểm sau:
Một là, kinh tế thị trường bao gồm nhiều loại hình đan xen nhau: nhiều thành
phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau tham gia vào nền kinh tế thị
trường. Mỗi kiểu hàng hoá, tham gia vào nền kinh tế thị trường có những nét đặc
thù về bản chất kinh tế - xã hội và trình độ phát triển, nhưng nó đều là các bộ phận
khác nhau của nền kinh tế quốc dân thống nhất. Bởi vậy chúng ta vừa hợp tác, vừa
cạnh tranh nhau, bình đẳng trước pháp luật, được pháp luật bảo vệ. Nhân tố kinh tế
và quan hệ kinh tế trong mỗi kiểu sản xuất hàng hoá của mỗi thành phần kinh tế đều
xuất hiện cái mới. Trong đó, sản xuất hàng hoá XHCN giữ vai trò chủ đạo, định
hướng với các kiểu sản xuất hàng hoá khác. Nhận thức được tính chất nhiều thành
phần kinh tế là một tất yếu khách quan từ đó có thái độ đúng đắn trong khuyến




khích sự phát triển của chúng theo nguyên tắc tự nhiên của kinh tế, phục vụ cho
việc đi lên XHCN ở nước ta.
Hai là, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế
kém phát triển, mang nặng tính tự cấp tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá
tập trung sang nền kinh tế hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên,
kinh tế thị trường ở nước ta vẫn còn ở trình độ kém phát triển. Biểu hiện ở số lượng
và chủng loại hàng hoá nghèo nàn, khối lượng hàng hoá lưu thông thị trường và kim
ngạch xuất khẩu còn nhỏ, chi phí sản xuất và giá cả hàng hoá cao, chất lượng thấp,
quy mô và dung lượng thị trường hẹp, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và hàng
hoá trên thị trường trong nước cũng như nước ngoài còn yếu, đội ngũ các nhà quản
lý doanh nghiệp giỏi còn ít, thu nhập của người lao động còn thấp Trình độ phát
triển thấp của hàng hoá bắt nguồn từ trình độ thấp của lực lượng sản xuất, từ tính
chất sản xuất nhỏ của nền kinh tế, từ trình độ phân công lao động xã hội kém phát
triển, từ sự kém phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng, lao động thủ công còn

chiếm tỷ trọng lớn, từ sự kìm hãm của nền kinh tế trong cơ chế kế hoạch hoá tập
trung, bao cấp một thời gian quá lâu dài, từ sự nhận thức giản đơn về CNXH.
Ba là, nền kinh tế phát triển theo hướng hoà nhập vào thị trường thế giới và
khu vực. Cách mạng khoa học - kỹ thuật công nghệ càng phát triển càng làm cho
lực lượng sản xuất phát triển trình độ xã hội hoá cao, dẫn đến quá trình khu vực
hoá, quốc tế hoá nền kinh tế ngày càng mở rộng. Do vậy, phát triển kinh tế thị
trường không phải chỉ dựa trên cơ sở điều kiện trong nước mà còn phải tính đến
quan hệ quốc tế, đến xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế. Nền kinh tế thị trường
của mỗi quốc gia muốn phát triển không thể không gắn với thị trường thế giới. Bất
cứ một quốc gia nào, cho dù là nước phát triển nhất cũng không thể sản xuất tất cả
các loại hàng hoá. Vì vậy mỗi nước phải tùy theo lợi thế của mình lựa chọn mặt
hàng xuất khẩu có hiệu quả và cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Sản xuất
hàng hoá của nước ta sẽ phát triển nếu biết cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài và
áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới để khai thác những tiềm
năng của nền kinh tế. Muốn vậy, con đường đúng đắn là phát triển nền kinh tế mở:
hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu có hiệu quả.




Bốn là, nền kinh tế thị trường phát triển định hướng XHCN thông qua bản
chất và vai trò của nhà nước. Sự vận động của nền kinh tế hàng hoá thông qua cơ
chế thị trường không thể nào giải quyết được những vấn đề như: lạm phát, thất
nghiệp, khủng hoảng, phân hoá bất bình đẳng, ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân
số cũng như các hiện tượng xã hội khác. Những tình trạng và hiện tượng trên ở
những mức độ khác nhau trực tiếp hay gián tiếp đều có tác động ngược trở lại, làm
cản trở sự phát triển bình thường của một xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng
hoá nói riêng.
Phát triển kinh tế hàng hoá gắn liền với nền kinh tế mở là tất yếu, nhưng trong
quá trình đó, bên cạnh việc tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới, thì cũng có nguy cơ

du nhập những yếu tố văn hoá xa lạ với truyền thống, đặc điểm của dân tộc. Muốn
giữ được nền kinh tế thị trường mang bản sắc văn hoá Việt Nam phải thực hiện có
hiệu quả sự quản lý vĩ mô của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, không chấp
nhận lối sống thực dụng với sự chi phối tất cả của đồng tiền, không chấp nhận
thương mại hoá mọi hoạt động của đời sống xã hội kết hợp sự chọn lọc tinh hoa
của văn minh nhân loại với giữ gìn những yếu tố tinh tuý của văn hoá dân tộc, xây
dựng những yếu tố văn hoá XHCN.
ở nước ta, khu vực sản xuất nông nghiệp chiếm tới từ 70% sức lao động và
80% dân số - nơi khai sinh của sự nghiệp đổi mới bằng “khoán 10” “chỉ thị 100”, từ
chỗ thiếu đói đã vươn lên đứng thứ ba thế giới về xuất khẩu gạo.
Khu vực kinh tế tư nhân là khu vực phát triển mạnh thứ hai, cho đến nay
chúng ta có khoảng 22.000 doanh nghiệp tư nhân, gấp hai lần số doanh nghiệp nhà
nước khi bắt đầu đi vào công cuộc đổi mới và gấp 3 lần số doanh nghiệp nhà nước
có đến hiện nay. Trong đó có những doanh nghiệp sử dụng 10.000 công nhân. Khu
vực ngoài quốc doanh (bao gồm không nhiều bộ phận của kinh tế hợp tác) chiếm
trên dưới 2/3 tổng sản phẩm trong nước.
Bình quân tăng trưởng 5 năm (1990 - 1995) là 8,2% một năm. (Năm 1995,
tăng trưởng bình quân hoàn toàn thế giới 3,5% trong đó cao nhất là vùng Đông á -
Thái Bình Dương: 8,1%; Mỹ 3%; Nga 1,6% Các nước ASEAN vẫn tiếp tục giữ
mức độ tăng trưởng khá: Xingapo 8,9%; Philipin 5%; Thái Lan 8,9%

×