Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

gia tri thang du docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.71 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN 1: QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG XÃ
HỘI TƯ BẢN…………………………………………………………………… 3
I. Sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản
xuất ra giá trị thặng dư………………………………………………………… 3
II. Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến, tư bản khả biến. Bản chất của
tư bản………………………………………………………………………………4
1. Tư bản bất biến và tư bản khả biến………………………………………4
2. Bản chất tư bản…………………………………………………………….5
III. Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư………………………………………6
1. Tỷ suất giá trị thặng dư……………………………………………………6
2. Khối lượng giá trị thặng dư……………………………………………… 6
IV. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và giá trị thặng dư siêu ngạch8
1. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư………………………………7
A. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối…………………………………….7
B. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối……………………………………8
2. Giá trị thặng dư siêu ngạch……………………………………………… 8
V. Sản xuất giá trị thặng dư – quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản8
PHẦN II: SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT
NAM HIỆN NAY……………………………………………………………… 11
1. Thành tựu đạt được và những hạn chế trong việc vận dụng quy luật sản xuất
giá trị thặng dư vào nền kinh tế Việt Nam……………………… 11
2. Một số giải pháp để vận dụng lý luận giá trị thặng dư nhằm phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện
nay………………………………………………………………………….19
KẾT LUẬN …………………………………………………………………… 25
LỜI MỞ ĐẦU

Lịch sử loài người đã trải qua 5 chế độ xã hội: Nguyên thủy, phong kiến, chiếm
hữu nô lệ, tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa xã hội. Mỗi chế độ đều gắn với một phương


thức sản xuất riêng.
Chủ nghĩa tư bản ra đời gắn với sự phát triển ngày càng cao của sản xuất hàng
hóa. Nhưng sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa khác với sản xuất giản đơn không
chỉ về trình độ mà còn khác về chất. Trong nền kinh tế hiện nay xuất hiện một loại
hàng hóa mới đó là hàng hóa sức lao động. Khi sức lao động trở thành hàng hóa thì
tiền tệ mang hình thái là tư bản và gắn liền với nó là một quan hệ sản xuất mới xuất
hiện: Quan hệ giữa nhà tư bản và người làm thuê. Thực chất mối quan hệ này là
nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư của công nhân làm thuê. Nhưng quá trình tư
bản thể hiện bản chất và những thủ đoạn bóc lột giá trị thặng dư đó được diễn ra và
sử dụng như thế nào.
Do đó nhóm em sẽ đi sâu vào nghiên cứu đề tài: “ Quá trình sản xuất ra giá trị
thặng dư dưới Chủ nghĩa tư bản. Từ đó liên hệ vào nền kinh tế Việt Nam hiện
nay.”
Trong quá trình làm bài tiểu luận vì kiến thức còn hạn chế nên khó tránh khỏi
những sai sót và khuyết điểm. Vì vậy nhóm em rất mong nhận được những nhận
xét và góp ý của thầy và các bạn để bài tiểu luận thêm hoàn thiện.
PHẦN I: QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG XÃ
HỘI TƯ BẢN
I. SỰ THỐNG NHẤT GIỮA QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ SỬ DỤNG
VÀ QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT RA GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1. Quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng trong chủ nghĩa tư bản:
Mục đích sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản xuất giá trị thặng dư. Muốn vậy
phải tổ chức sản xuất ra hàng hoá có giá trị sử dụng. Do vậy, quá trình sản xuất
TBCN là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất giá trị sử dụng và quá trình sản xuất
giá trị thặng dư.
2. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư:
Muốn sản xuất giá trị thặng dư, nhà tư bản buộc người công nhân phải sản xuất giá
trị sử dụng của hàng hóa nhất định nào đó. Việc sản xuất ra những giá trị sử dụng
nằm dưới sự kiểm soát của nhà tư bản, vì vậy quá trình sản xuất ở đây là quá trình
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhà tư bản là chủ thể của quá trình sản xuất, sau quá

trình sản xuất sẽ tạo ra hàng hóa mới có giá trị lớn hơn tổng giá trị những tư liệu
sản xuất và sức lao động mà nhà tư bản đã tiêu dùng trong sản xuất.
Quá trình này với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra hàng hóa với
quá trình làm tăng giá trị được phân tích qua một ví dụ sau:


Ví dụ về quá trình sản xuất sợi của nhà tư bản.
Để tiến hành sản xuất nhà tư bản mua các yếu tố sản xuất và giả sử mua đúng giá
trị.
10kg bông giá 10 USD
Khấu hao máy móc thiết bị 2 USD
Mua sức lao động 3 USD/12giờ
Trong 1 giờ người công nhân tạo ra 0,5 USD giá trị mới
Giả sử trong 6h lao động đầu người công nhân đã thực hiện kéo hết 10 kg
bông thành sợi, giá trị của sợi là 15USD. Nếu quá trình sản xuất chỉ dừng ở đây thì
sẽ không tạo ra giá trị thặng dư. Tuy nhiên vì nhà tư bản mua sức lao động trong
12h. Tức là trong 6h sau họ vẫn phải lao động tạo ra hàng hoá sợi có giá trị 15
USD. Tuy nhiên trong quá trình này chi phí nhà tư bản bỏ ra chỉ có 12 USD.
( Không tính thêm chi phí mua sức lao động công nhân).
Vậy, Tổng giá trị sản xuất trong ngày của công nhân 30USD
Tổng chi phí sản xuất 15+12= 27USD
Giá trị thặng dư: m = 3 USD
Từ sự phân tích trên cho phép rút ra kết luận sau: Ngày lao động của công nhân
chia làm hai phần, phần thời gian lao động (6h đầu) là thời gian lao động cần thiết
(xã hội) (t), Phần còn lại của lao động (6h sau) là thời gian lao động thặng dư (t’).
Giá trị sản phẩm được sản xuất ra bao gồm:
- Giá trị tư liệu sản xuất được lao động cụ thể của công nhân bảo tồn và di chuyển
vào sản phẩm mới gọi là giá trị cũ (c)
- Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình lao động gọi là
giá trị mới, phần giá trị này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao

động (v) cộng với giá trị thặng dư (m).
Kết luận:
- Như vậy, giá trị thặng dư là giá trị mới dôi ra ngoài gía trị sức lao động do công
nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt, là lao động không công của công nhân.
II. SỰ PHÂN CHIA TƯ BẢN THÀNH TƯ BẢN BẤT BIẾN, TƯ BẢN KHẢ
BIẾN. BẢN CHẤT CỦA TƯ BẢN:
1.Tư bản bất biến và tư bản khả biến:
Trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư, các bộ phận khác nhau của tư bản có vai
trò và tác dụng khác nhau.
A. Tư bản bất biến: bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất bao
gồm nhà xưởng, máy móc các thiết bị công cụ sản xuất, nguyên liệu, nhiêu liệu,
vật liệu,… Giá trị của nó không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất gọi là tư
bản bất biến ( kí hiệu là c - Constant)
B. Tư bản khả biến: Bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã có sự biến
đổi về lượng trong quá trình sản xuất. Bộ phận tư bản này được gọi là tư bản khả
biến (kí hiệu là v – Variable).
- Tham gia tạo ra giá trị thặng dư bao gồm 2 yếu tố, trong đó tư bản khả biến dùng để
mua sức lao động có vai trò trực tiếp sáng tạo ra giá trị thặng dư. Còn tư bản bất
biến đóng vai trò gián tiếp, nó chỉ là điều kiện vật chất cần thiết cho quá trình sản
xuất, tự bản thân nó không sáng tạo ra giá trị thặng dư.
- Nếu kí hiệu giá trị thặng dư là m thì giá trị mới sẽ là (v + m)
 Giá trị hàng hóa tư bản chủ nghĩa bằng (c + v + m)
Việc phát hiện ra tính hai mặt của lao động trong sản xuất hàng hóa đã giúp C.Mác
tìm ra chìa khóa để xác định sự khác nhau giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến.
C.Mác là người đầu tiên chia tư bản ra thành tư bản
Sự phân chia này đã vạch rõ thực chất của bóc lột tư bản chủ nghĩa, chỉ có lao
động của công nhân mới trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư
2. Bản chất của tư bản :
Kinh tế học tư sản cho rằng mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản, người ta coi tư bản
như một điều kiện vật chất tồn tại vĩnh viễn, không thay đổi trong các xã hội. Điều

này đã che giấu thực chất việc nhà tư bản bóc lột công nhân làm thuê. Thực ra, bản
chất các tư liệu sản xuất không phải là tư bản, nó là điều kiện vật chất cần thiết của
sản xuất trong bất cứ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở
thành tài sản của các nhà tư bản và được dùng để bóc lột lao động làm thuê. Khi
chế độ tư bản không còn nữa, thì tư liệu sản xuất không còn nữa.
Như vậy, tư bản là giá trị đem lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột công nhân làm
thuê, tư bản thể hiện quan hệ sản xuất giữa giai cấp tư sản và vô sản, tư bản là
phạm trù lịch sử.
III. TỶ SUẤT VÀ KHỐI LƯỢNG GIÁ TRỊ THẶNG DƯ:
1. Tỷ suất giá trị thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỉ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản
khả biến, tức là tỉ lệ theo đó tư bản khả biến tăng thêm giá trị.
C,Mác dùng chữ m’ để chỉ tỉ suất giá trị thặng dư
m’= (m/v) x 100%
Tỉ suất giá trị thặng dư phản ánh mức độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân,
nó chỉ rõ trong tổng số giá trị mới do sức lao dộng tạo ra, thì công nhân được
hưởng bao nhiêu, nhà tư bản chiếm đoạt bao nhiêu, tuy nhiên chưa nói được vi mô
của bóc lột tư bản.
m’ = (t’/t) x 100%
t’: Thời gian lao động thặng dư
t: Thời gian lao động tất yếu
Tỷ suất giá trị thặng dư còn chỉ rõ, trong một ngày lao dộng, phần thời gian lao
đọng thặng dư (t’), mà công nhân làm cho nhà tư bản, chiếm bao nhiêu phần trăm
so với thời gian lao động tất yếu (t).
2. Khối lượng giá trị thặng dư:
khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỉ suất giá trị thặng dư với tổng tư bản
khả biến (V) được sử dụng.
Nếu gọi M là khối lượng giá trị thặng dư, ta có công thức
M = m’ x V
V = v x Số lượng công nhân

V: tư bản khả biến đại diện cho tổng giá trị sức lao động
v : tư bản khả biến đại diện cho giá trị một sức lao động
M: Phản ánh quy mô sự bóc lột
Khối lượng giá trị thặng dư tùy thuộc vào 2 nhân tố: m’ và V. Điều đó có nghĩa là
khối lượng giá trị thặng dư phụ thuộc vào thời gian lao động thặng dư, cường độ
lao động của công nhân và số lượng công nhân mà nhà tư bản sử dụng.
Ví dụ: Công nhân ngày làm việc 8h thì tỷ suất giá trị thặng dư là 300%. Sau đó nhà
tư bản kéo dài ngày làm việc đến 10h thì tỷ suất giá trị thặng dư thay dổi như thế
nào nếu giá trị sức lao động không đổi (V không đổi) .
Chú thích: - t : thời gian lao động cần thiết
t’: thời gian lao động thặng dư
• Trường hợp 1:
Ta có công thức :
m’ = (t’/t) x100%
 300% = (t’/t ) x 100%
t’+ t = 8
t’ / t =3
 t’ = 6, t = 2
• Trường hợp 2 :
Vì giá trị sức lao động không đổi. => v không đổi
Ta có:
t + t’ = 10
t=2
 t’= 8
 tỷ suất giá trị thặng dư:
m’= (t’/t )x 100% = (8/2) x 100% = 400%
 Tỷ suất giá trị thặng dư tăng thêm = m’ (sau) – m’(đầu)
 = 400% - 300% =100%
IV. HAI PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ SIÊU NGHẠCH:

1. Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
A. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối:
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được bằng các kéo dài ngày lao
động hoặc tăng cường độ lao động trong khi thời gian lao động tất yếu, giá trị sức
lao động và năng suất lao động không thay đổi.
Giới hạn về thể chất, tinh thần: giới hạn này đòi hỏi trong 24h của một ngày đêm
người công nhân cần phải ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí phục hồi sức lao động. Với
sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa, ngày lao động có xu hướng ngày càng
ngắn hơn trước.
Giới hạn về kinh tế - xã hội: về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian
lao động tất yếu nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của
người lao động. Về mặt xã hội, trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản mới ra đời, nhà
nước ban bố nhiều đạo luật có lợi cho giai cấp tư sản.
B. Sản xuất giá trị thặng dư tương đối:
Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao
động tất yếu, bằng cách tăng năng suất lao động xã hội, qua đó hạ thấp giá trị sức
lao động và làm tăng tương ứng thời gian lao động thặng dư, trong điều kiện độ dài
ngày lao động và cường độ lao động không đổi.
2. Giá trị thặng dư siêu ngạch:
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do giá trị cá biệt của
hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội.
Những doanh nghiệp nào đi đầu trong đổi mới công nghệ sẽ thu được giá trị thặng
dư. Giá trị thặng dư siêu ngạch chính là giá tri thặng dư tương đối do tăng năng
suất lao động mà có nhưng khác ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do tăng năng xuất
lao động xã hội, do đó tất cả các nhà tư bản đều được hưởng. Còn gía trị thặng dư
siêu ngạch là do tăng năng suất lao động cá biệt nên chỉ có những nahf tư bản nào
có năng suất lao động cá biệt hơn năng suất lao động xã hội thì mới được hưởng
giá trị thặng dư siêu ngạch.
V. SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ – QUY LUẬT KINH TẾ TUYỆT ĐỐI
CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN

1. Quy luật kinh tế tuyệt đối:
Mỗi phương thức sản xuất bao giờ cũng tồn tại một quy luật phản ánh bản chất của
phương thức sản xuất, quy định sự vận động phát triển của phương thức sản xuất
và đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống các quy luật kinh tế gọi là quy luật kinh tế
tuyệt đối.
3. Quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản:
Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, quy luật kinh tế tuyệt đối được C. Mác xác
định là quy luật sản xuất giá trị thặng dư. Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa
là làm giàu, là nhân giá trị lên, do đó là bảo toàn giá trị cũ và tạo ra giá trị thặng
dư. Sản xuất giá trị thặng dư là mục đích trực tiếp duy nhất của nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Vì mục đích này, các nhà tư bản sản xuất bất kỳ hàng hóa gì, kể cả
phương tiện giết người hàng loạt, miễn là tối đa hóa giá trị thặng dư.
Theo đuổi giá trị thặng dư bằng bất cứ thủ đoạn nào là mục đích, động cơ thúc đẩy
sự hoạt động của mỗi nhà tư bản cũng như của toàn bộ nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa.
Giá trị thặng dư xét về bản chất là phạm trù kinh tế riêng của nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa, trong mọi xã hội, các sản phẩm thặng dư đều có giá trị nhưng chỉ
trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, giá trị của sản phẩm thặng dư mới là giá trị
thặng dư. Phần giá trị thặng dư do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra
ngoài giá trị sức lao động và bị nhà tư bản chiếm không. Phạm trù giá trị thặng dư
phản ánh mối quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê, mối quan hệ cơ bản và
sâu sắc nhất của xã hội tư bản, xuyên suốt tất cả quan hệ sản xuất của xã hội đó.
Do vậy, sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.
4. Vai trò quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản:
Quy luật giá trị thặng dư tác động quyết định đến mọi mặt của xã hội tư bản, nó
quyết định sự phát sinh, tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản, nó là quy luật
vận động của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Quy luật giá trị thặng dư, một mặt thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, phân công lao động xã
hội phát triển, làm cho lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng lên
nhanh chóng. Mặt khác, làm cho các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, trước

hết là mâu thuẫn cơ bản của nó, mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với
sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng gay gắt. Mâu thuẫn này diễn
biến ngày càng phức tạp, quy định xu hướng lịch sử tất yếu của chủ nghĩa tư bản là
sẽ nhường chỗ cho một xã hội mới văn minh hơn. Do vậy, đối với giai cấp tư sản
hiện đại, việc tìm mọi cách để điều chỉnh, để thích nghi, để tồn tại là vấn đề sống
còn của chủ nghĩa tư bản ngày nay.
PHẦN II. SẢN SUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT
NAM
Là một nước tiến lên XHCN không qua giai đoạn phát triển TBCN. Vì vậy chúng
ta không kế thừa tất cả những tiền đề nảy sinh một cách tự phát như những sang
tạo của những người đi trước cho dù chỉ là những nhân tố vô cớ. Điểm xuất phát để
nhận thức tầm quan trọng của học thuyết giá trị thặng dư chính là sản phẩm của lao
động thừa vượt quá những chi phí để duy trì lao động và việc xây dựng, tích lũy
quỹ sản xuất xã hội và dự trữ “ Tất cả những cái đã và vẫn mãi mãi vẫn là cơ sở
cho mọi sự tiến bộ về xã hội, chính trị và về tinh thần. Nó sẽ là điều kiện và động
cơ kích thích sự tiến bộ hơn nữa”…
Đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân nước ta, việc ngiên cứu sản xuất
GTTD gợi mở cho các nhà hoạch định chính sách phương thức làm tăng của cải,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện điểm xuất phát của nước ta còn thấp
là nước tiểu nông cũng có nghĩa từ một nước chưa có nền kinh tế hàng hóa mặc dù
có sản xuất hàng hóa., để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cần tận dụng triệt để các
nguồn lực, nhất là lao động và sản xuất kinh doanh. Về cơ bản và lâu dài, cần coi
trong việc tăng năng suất lao động xã hội, coi đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nền kinh tế quốc dân là giải pháp cơ bản để tăng năng suất lao động XH, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
1. Thành tựu đạt được và những hạn chế trong việc vận dụng quy luật sản xuất
giá trị thặng dư vào nền kinh tế Việt Nam
GTTD là do lao động không công của công nhân lao động làm thuê tạo ta, là mục
đích, kết quả hoạt động của TB, của giai cấp tư sản. Trong XHCN, với chủ trương
việc bóc lột sức lao động không công của người công nhân không còn nữa, nhưng

không có nghĩa là GTTD không tồn tại, mà GTTD đc sử dụng vào mục đích khác
không giống như g/c tư sản, đó là giá trị thặng dư thu được là cơ sở, tiền đề để xây
dựng đất nước, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sx, vì mục đích pt XHCN, vì
con người. Không tách ra khỏi xu hướng xh, VN vận dụng các phương pháp sản
xuất GTTD vào trong công cuộc đổi mới, trong đó tiến hạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa là một nhiệm vụ hàng đâu, đây cũng là một quy luật đặc biệt của quá trình
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Có thể thấy vì giá trị thặng dư là cội nguồn sinh ra sự giàu có, sung túc vì xuất hiện
giá trị mới, nên để duy trì và phát triển sự giàu có, dôi dư này, giai cấp tư sản có xu
hướng không ngừng sản xuất ra càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt, sản xuất với
quy mô ngày càng lớn hơn trước. Những lợi tức, tiền bạc thu được đều được đưa
vào tái đầu tư, tái sản xuất, thuê mua nguyên vật liệu nhà xưởng để vận hành tạo
giá trị thặng dư.
Chuyển nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn, hiện đại Dưới tác động của quy luật
giá trị thặng dư và các quy luật của nền kinh tế của sản xuất hàng hóa, chủ nghĩa tư
bản đã làm tăng năng suất lao động, tạo ra khối lượng của cải khổng lồ hơn nhiều
xã hội trước cộng lại. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản đã giải phóng con người khỏi
xã hội phong kiến, đoạn tuyệt với nền kinh tế tự nhiên, tự túc, tự cấp, chuyển sang
phát triển kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghía, chuyển sản xuất nhỏ lên sản xuất hiện
đại.
Gần 20 năm phát triển (1990-2008) tốc độ tăng trưởng kinh tế của VN liên tục giữ
ở mức khá cao, tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 1990-2008 là 7,56%/năm.
Tốc độ tăng kinh tế cao, trong khi tốc độ tăng dân số được kìm hãm, đã dẫn đến
mức thu nhập GDP bình quân trên đầu người mỗi năm một tăng. Nếu năm 1990,
GDP trên đầu người của VN chỉ khoảng trên 100 USD, thì đến năm 2007,
GDP/người đã đạt 835 USD, tăng trên 8 lần. Năm 2008, GDP trên đầu người ước
tính đạt khoảng 1.047 USD/người (xem Bảng 1). Với mức thu nhập này, VN lần
đầu tiên thoát ra khỏi nhóm nước nghèo (nhóm nước có thu nhập thấp nhất). Theo
cách phân loại của Ngân hàng Thế giới
So với các nước trong khu vực, VN có mức tăng trưởng cao thứ ba, sau Trung

quốc và Ấn độ. Dưới đây là tốc độ tăng trưởng kinh tế VN so với tốc độ tăng
trưởng kinh tế thế giới, kinh tế các nước và nhóm nước.
Nguồn: IMF (năm 2008, số ước tính của IMF)
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế VN so với tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới
và nhóm nước theo khu vực ĐVT:%
Nguồn :WB, IMF và UNESCO
Bảng 5 :Vị trí nền kinh tế VN trong nền kinh tế thế giới qua các chỉ số (2007)
Hơn 20 năm đổi mới và hội nhập, kinh tế VN không ngừng phát triển với tốc độ
cao, VN đã thoát ra khỏi nhóm các nước có mức thu nhập thấp, mức sống người
dân được cải thiện, tỷ lệ nghèo giảm mạnh, nền kinh tế đang chuyển theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, như đã trình bày, những hạn chế và
những thách thức của hội nhập không phải là ít. Nhiều chỉ số phát triển còn thấp.
1.Thực trạng sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta:
Nước ta có nguồn lao động dồi dao, số người trong độ tuổi lao động chiếm phần đa
số ngoài ra con phải kể đến hang triệu người già vẫn còn khả năng lao động và
mong muốn được lao động. Thêm vào đó người lao động Việt Nam lại cần cù,
chăm chỉ, năng động có khả năng thich ứng
thị trường cao, nhanh chóng nắm bắt kỹ thuật mới ứng dụng vào sản xuất kinh
doanh. Tuy đây là một thuận lợi lớn của nước ta song chất lượng lao động va trinh
độ kỹ thuật, tay nghề của lao động Việt Nam con thấp, cơ cấu ngành không hợp lý,
tỷ lệ người trong độ tuổi lao động không có việc làm cao.
2. Vấn đề sử dụng nguồn vốn:
Hiện nay, trong lĩnh vực quản lý nguồn vốn đầu tư còn nhiều bất cập như: không
theo kịp đòi hỏi của thực tiễn đặt ra, lỏng lẻo trong khâu kiểm tra, giám sát việc
thực hiện nguồn vốn đầu tư, gây những hiện tượng lãng phi, tham nhũng.
Tình trạng đầu tư dàn trải, kéo dài, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao. Công tác giảm
nghèo chưa thực sự bền vững Số lượng văn bản quy phạm pháp luật được ban
hành quá nhiều, tính ổn định chưa cao, nhiều nội dung bị sửa đổi, bổ sung nhiều
lần hoặc thay thế, gây khó khăn trong triển khai thực hiện.
Bố trí vốn thiếu tập trung là điểm yếu lặp đi lặp lại nhiều năm, số dự án đầu tư mới

cao hơn số dự án kết thúc trong mỗi kỳ, vốn bình quân cho một dự án có xu hướng
giảm, nhiều bộ, ngành, địa phương không thực hiện đúng quy định về quản lý đầu
tư.
Thất thoát lãng phí vẫn còn lớn mà hiện tại chưa thể khẳng định con số chính xác
do chưa kiểm toán. Qua thanh tra một số công trình trong các năm 2002-2003, tỷ lệ
sai phạm tài chính là từ 13.6% đến 19% số vốn.
Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn chưa cao, nhất là vốn ngân sách. Vốn tín dụng
đầu tư phát triển, đầu tư của doanh nghiệp nhà nước cũng được đánh giá là kém
hiệu quả. Báo cáo của Chính phủ nêu lên tình trạng nợ quá hạn, nợ kéo dài. Đặc
biệt, 2 chương trình đánh bắt xa bờ và mía đường có số nợ quá hạn và lãi treo
chiếm tới 40% nợ quá hạn và lãi treo của toàn hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển.
Báo cáo thừa nhận công tác quản lý sử dụng vốn còn nhiều yếu kém, thể hiện cả ở
phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ. Theo báo cáo giám sát của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, thì chính cơ chế các bên cùng nằm trong một bộ đã tạo ra
những đường dây khép kín trong việc chạy dự án, chạy vốn đầu tư , khó kiểm
tra, giám sát, khó phát hiện vi phạm trong việc đã sử dụng nguồn vốn tối đa hay
chưa hoặc có phát hiện nhưng chậm ngăn chặn thất thoát, lãng phí, sai phạm.
3. Áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất:
Nhận thức của các ngành, các cấp về khoa học và công nghệ chưa đầy đủ và có
phần hạn chế, chưa coi khoa học và công nghệ là giải pháp thúc đẩy hoạt động của
ngành, địa phương và doanh nghiệp; do vậy, chưa có sự quan tâm thoả đáng đối
với hoạt động này.
Cơ chế quản lý kinh tế chưa tạo nhu cầu thực sự đối với khoa học và công nghệ.
Chưa thực sự coi đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu tư cho phát triển. Đầu
tư cho công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ chưa đến 'ngưỡng'. Thiếu các
cơ chế, chính sách hỗ trợ đưa kết quả nghiên cứu vào sản xuất và đời sống, đổi mới
công nghệ.
Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ kém hiệu quả, nhưng chậm được đổi mới,
không phát huy được năng lực khoa học và công nghệ hiện có. Hệ thống quản lý
khoa học và công nghệ chậm được kiện toàn và củng cố. Cơ chế quản lý tài chính

đối với hoạt động khoa học và công nghệ còn nhiều bất cấp, đặc biệt là việc quy
định giá trị công lao động chất xám, các chế độ chi tiêu, thủ tục thanh quyết toán.
Khối doanh nghiệp nhà nước hoạt động ít hiệu quả, qui mô vốn nhỏ, trình độ công
nghệ, năng lực cạnh tranh còn rất hạn chế; đối với nhiều doanh nghiệp, ứng dụng
tiến bộ khoa học và công nghệ chưa trở thành nhu cầu bức thiết để nâng cao năng
lực cạnh tranh. Doanh nghiệp khu vực tư nhân thì quá non yếu. Do vậy, đã không
tạo nên được yêu cầu đối với khu vực nghiên cứu để sáng tạo và phát triển công
nghệ. Các trường đại học trên địa bàn thực sự chưa vào cuộc để đóng vai trò là
'người cung cấp chính' trên thị trường khoa học và công nghệ của thành phố.
Thiếu chiến lược qui hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học và công nghệ.
Chưa có cơ chế, qui định về việc huy động, tập hợp lực lượng khoa học và công
nghệ trên địa bàn. Tinh thần cộng tác trong nghiên cứu khoa học và công nghệ
chưa cao. Trong công tác quản lý đào tạo nguồn nhân lực còn có sự chồng chéo và
thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan.
Theo lý luận giá trị thặng dư của Mác, máy móc không tạo ra gia trị thặng dư,
nhưng nó tạo điều kiện để tăng sức sản xuất của lao động, hạ giá trị cá biệt của
hàng hoá thấp hơn giá trị của thị trường, nhờ đó mà giá trị thặng dư tăng lên. Ngày
nay, việc ứng dụng khoa học – kỹ thuật đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu
đối với nông nghiệp, đem lại gia trị kinh tế cao như sản xuất thu hoạch bảo quản
chế biến Đối với công nghiệp, nhất là trong ngành công nghệ thông tin, điện tử,
viễn thông đa ứng dụng nhiều thanh tựu khoa học, kỹ thuật để hội nhập ra thế giới
4.Vấn đề bóc lột trong sản xuất và phân phối gia trị thặng dư ở nước ta:
Nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo điều
kiện cho nền kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện,
nhưng đồng thời cũng tạo ra sự chênh lệch về thu nhập, mức sống ngày càng rõ nét
hơn, trong đó phân hóa giàu nghèo đang là một trong những vấn đề xã hội bức xúc
hiện nay. Cùng với những người nghèo thì cũng đã có nhiều người giàu lên nhanh
chóng.
Nhóm có thu nhập cao là các giám đốc điều hành, trưởng đại diện, trưởng phòng,
cán bộ phụ trách kinh doanh… đang làm việc tại các doanh nghiệp có vốn dầu tư

nước ngoài, công ty liên doanh, các công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính,
ngân hàng, chứng khoán, bác sĩ tại một số bệnh viện, phòng khám.
Ngược lại, nhóm có thu nhập thấp là công nhân lao động đang làm việc trong các
khu công nghiệp, doanh nghiệp nước ngoài…Tại Hà Nội, chênh lệch giữa người có
tiền lương cao nhất so với trung bình là 42 lần (75,2 triệu đồng/tháng với mức bình
quân 1,8 triệu đồng/ tháng). Tại thành phố Hồ Chí Minh con số chênh lệch còn lên
đến 109 lần (240 triệu đồng/tháng so với 2,2 triệu đồng/tháng).
Bên cạnh đó, một số công ty sản xuất hàng hóa đổ tới Việt Nam mở nhà máy sản
xuất chỉ vì giá nhân công ở Việt Nam quá rẻ và chủ nhân mặc sức bóc lột sức lao
động. — Matthias Duhn, Giám đốc Phòng Thương Mại Châu Âu tại Việt Nam
nhận định như vậy tại một hội thảo do Cục Xúc Tiến Thương Mại, Bộ Công
Thương phối hợp tổ chức ngày 10 /12 /2010. Bản tin tờ Thanh Niên thuật lại các
con số khảo sát lương bổng công nhân tại khu vực Á Châu được nêu ra tại cuộc hội
thảo nói trên cho thấy:
“Indonesia $82 USD/tháng, Trung Quốc $117 USD/tháng, Thái Lan $156
USD/tháng, Philippines $167 USD/tháng, Malaysia $336 USD/tháng, Ðài Loan
$540 USD/tháng, Hàn Quốc $830 USD/tháng, Singapore $1,146 USD/tháng và
Nhật $1,810 USD/tháng.”Chỉ được trả “với gần $49 USD/tháng, lương của người
lao động Việt Nam chỉ xếp trên Campuchia – với $47.36 USD/tháng”, ông
Matthias Duhn nói rõ.
Ngay nay sức cạnh tranh trên thị trường ngày càng lớn, để thành công trong công
việc kinh doanh, người chủ kinh doanh ngày nay không chỉ có đóng góp tài sản,
tiền vốn mà còn đóng góp sức lao động của mình vào quá trình sản xuất. Sức lao
động đó trực tiếp góp phần tạo ra giá trị
thặng dư. Đồng thời còn tạo mối quan hệ tinh thần giữa người lao động và cấp
trên. Phân phối theo lao động thì dựa trên nguyên tắc lao động ngang nhau thi
hưởng ngang nhau, làm nhiều hưởng nhiều, lam ít hưởng ít.
Với xu thế cổ phần hóa trong sự hình thành và phát triển hệ thống doanh nghiệp,
cổ phần góp vốn của người lao động và người lao động cũng được phân phối một
phần lợi nhuận cho vốn – theo vốn của họ. Đây là hình thức phân phối giá trị thặng

dư.Nhưng trong xã hội cũng có những người không thể tham gia góp vốn và lao
động được thi cần phải có hinh thức phân phối lại qua các quỹ phúc lợi công cộng
của xã hội và của tập thể. Nội dung của hinh thức phân phối này được biểu hiện ở
việc: mọi công dân đều phải co nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước - Nhà nước là
đại diện cho lợi ích của tòan dân, tòan xã hội. Nhà nước trich một phần ở trong
ngân sách thu từ thuế lập quỹ phúc lợi xã hội. Những người được hưởng họ sẽ
không trực tiếp được hưởng ngay một lúc toàn bộ giá trị mà họ đã sáng tạo ra mà
họ sẽ được hưởng gian tiếp từ từ thông qua các quỹ phuc lợi hay các hàng hoá
công cộng.
2. Một số giải pháp để vận dụng lý luận giá trị thặng dư nhằm phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay:
a. Chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tập trung đầu tư cho công nghiệp:
Cần phải chuyển dịch nhanh chóng cơ cấu vốn đầu tư theo ngành theo hướng tăng
đầu tư cho ngành sản xuất vật chất. Vi chỉ co phat triển cong nghiệp, chung ta mới
thực sự phat huy được năng lực nội sinh. Tập trung đầu tư cho công nghiệp, với
mục tiêu lấy đó làm đà để phát triển các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân,
trong đó đặc biệt phải đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến, cần phải chú ý đầu
tư cho ngành công nghiệp chế biến nông – lâm sản, vi đây là chìa khóa, nhằm nâng
cao giá trị, khả năng cạnh tranh của hàng hóa nông lâm sản trên thị trường thế giới.
Việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư nay cần được coi la nhiệm vụ của tất cả cac thanh
phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chứ không phải chỉ la
nhiệm vụ của Nhà nước hay một vai doanh nghiệp nhà nước. Để thực hiện thành
công mục tiêu đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại hóa.
Cần gắn việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm
đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện tự do di
chuyển vốn giữa các ngành kinh tế, nhưng đồng thời Nhà nước phải đóng vai điều
tiết đầu tư bằng những chinh sách kinh tế vĩ mô (như thuế, và những ưu đãi,
khuyến khích đối với những ngành cần đầu tư) nhằm đảm bảo việc chuyển dịch cơ
cấu vốn đầu tư cũng như cơ cấu kinh tế theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội.

Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong tất cả các ngành, các lĩnh vực để đổi
mới và phát triển. Đảm bảo điều kiện cho mọi người sử dụng thông tin như một
nguồn tài nguyên quan trọng nhất để nâng cao tri thức và cải thiện chất lượng
sống; phát huy tiềm năng con trí tuệ của người Việt Nam, tạo phong cách làm việc
trong nền kinh tế năng động. Có chính sách, biện pháp khắc phục sự cách biệt về
thông tin giữa các vùng, các đối tượng dân cư
.
b. . Khuyến khích và thu hút đầu tư:
Cải thiện môi trường kinh doanh trong nước. Thực hiện sự bình đẳng giữa các
doanh nghiệp nhà nước và cac doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân, đặc
biệt la trong lĩnh vực vay vốn ở các ngân hàng. Tiếp tục tiến hành cải cach thủ tục
hành chinh, giảm thiểu các thủ tục cho các doanh nghiệp, vì trong kinh doanh cơ
hội tốt chỉ xuất hiện trong thời gian ngắn.
Tăng cường khả năng đầu tư của cac doanh nghiệp trong nước. Xây dựng một hệ
thống thông tin về tinh hinh khoa học kỹ thuật của thế giới cho các doanh nghiệp.
Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường cho các doanh
nghiệp trong nước. Về thu hút vốn đầu tư nước ngoai, cần thông qua các hoạt động
ngoại giao, thuyết phục các nước công nhận rằng hiện nay Việt Nam đang thực
hiện kinh tế thị trường, thông qua các buổi thuyết trình hay triển lảm tại nước
ngòai để giới thiệu về môi trường đầu tư tại Việt Nam, các chính sách ưu đãi đầu
tư đối với đầu tư nước ngoài cho các doanh nhiệp, doanh nhân nước ngoài, cũng
như với kiều bao Việt Nam ở nước ngoài.
Khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế, các hình thức đầu tư nước ngoài tham
gia phát triển đầu tư. Tháo gỡ các rào cản, tạo điều kiện cho mọi thành phần và chủ
thể kinh tế tham gia xây dựng, đầu tư và phát triển; khuyến khích cạnh tranh để
giảm giá, nâng cao chất lượng. Có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các doanh
nghiệp kinh doanh nước ngoài và trong nước ( không thu thuế doanh thu, thuế suất
thu nhập công ty thấp nhất, cho vay với lãi suất ưu đãi đặc biệt ).
c. .Không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư:
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá hoạt động đầu

tư. Khi nói đến hiệu quả đầu tư là không chỉ nói đến hiệu quả kinh tế mà còn phải
nói đến hiệu quả xã hội (tức la việc đầu tư đó có thể thu hut được bao nhiêu lao
động; ảnh hưởng đến môi trường ở mức độ nào…). Việc nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư phụ thuộc vào mục đích của hoạt động đầu tư là hiệu quả kinh tế
hay hiệu quả xã hội. Vì vậy, khi đầu tư phải xác định rõ mục đích đầu tư và không
được thay đổi mục đích đó trong quá trình tiến hành hoạt động đầu tư.
Thực hiện quyền tự chủ trong kinh doanh của các thành phần kinh tế, tận dụng
tính năng động của các thành phần kinh tế tư nhân, phát triển sản xuất. Chủ đầu tư
phải được độc lập trong việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư và phương án đầu tư, tránh
tình trạng đầu tư theo phong trào. Đối với các doanh nghiệp, sử dụng vốn có hiệu
quả kinh tế lá chu ý đến việc thực hiện gia trị thặng dư, theo ly luận gia trị thặng dư
của Mac, giá trị được sinh ra trong lĩnh vực sản xuất, chứ không phải trong lưu
thông, nhưng quá trình lưu thông lại là quá trình thực hiện giá trị, mà nếu giá trị
không được thực hiện thi cũng không có giá trị thặng dư.
Trong quá trinh sản xuất, doanh nghiệp phải chú ý đến giá trị sử dụng của hàng hoá
đáp ứng nhu cầu thị trường, đồng thời phải sử dụng các phương thức có hiệu quả
để ban hành, nhằm thực hiện giá trị thặng dư. Khuyến khích các doanh nghiệp áp
dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhằm nâng cao năng suất lao động, thu giá trị
thặng dư siêu ngạch.
Vi vậy, phải chú trọng nâng cao năng lực quản lý vốn đầu tư bằng cách: nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ về quản lý hoạt động đầu tư cho các cán bộ chuyên
trách. Thường xuyên kiểm tra trinh độ của các cán bộ này. Khi giải quyết bất kỳ
một vấn đề gì của hoạt động đầu tư, một mặt phải dựa trên ý kiến, nguyện vọng,
lực lượng, tinh thần chủ động, sáng tạo của các đối tượng bị quản lý , mặt khác
phải có một trung tâm quản lý tập trung và thống nhất với mức độ phù hợp, không
quan liêu, có sự phân cấp trong việc quản lý hoạt động vốn đầu tư.
5. Nâng cao chất lượng nguồn lao động, phát triển thị trường lao động trong
nước:
Phát triển thị trường lao động với tư cách là một yếu tố đầu vào quan trọng của quá
trình sản xuất, theo đó cung về lao động phải đáp ứng cầu về lao động cho công

nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cần phải chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, phù hợp
với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay theo chủ trương của Đảng và
Nhà nước.
Tăng cả về số lượng và chất lượng của lao động trong ngành công nghiệp, giảm về
số lượng lao động trong ngành nông nghiệp. Phân bố cơ cấu lao động hợp lý giữa
nông thôn và thành thị. Khuyến khích xây dựng các khu công nghiệp, nhà máy ở
các vùng nông thôn để thu hút nguồn lao động làm việc tại địa phương, giảm bớt
nguồn lao động quá tải ở thành thị.
Nâng cao chất lượng đao tạo nghề ở các trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp. Cải cách phương pháp đao tạo, gắn việc dạy ly thuyết với thực
hành, khuyến khích sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học. Nhằm tăng lao động
lành nghề, lao động có tri thức để tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ mới. Tăng nhanh
tỷ lệ lao động chất xám, lao động có kỹ thuật.
Thường xuyên đao tạo mới và đào tạo lại lao động, để đáp ứng nhu cầu trên thị
trường sức lao động, đồng thời phải đảm bảo cơ hội bình đẳng về việc làm cho
người lao động. Khuyến khích các doanh nghiệp phối hợp với nhà trường trong
việc đào tạo. Đối với các doanh nghiệp cần phải thực hiện nghiêm túc việc tổ chức
khám chữa bệnh định kỳ cho công nhân, đặc biệt là với những ngành nghề lao
động trong môi trường độc hại.
Để phát triển thị trường sức lao động ở nước ta còn cần phải nhanh chóng cải cách
chế độ tiền lương, chế độ tiền lương mới cần phải có sự phân biệt đang kể về thu
nhập trên cơ sở lấy hiệu quả lao động làm chính, phân biệt giữa người làm ít với
người làm nhiều, giữa lao động phức tạp với lao động giản đơn. Sự phan biệt này
góp phần thúc đẩy quá trình tự nâng cao chất lượng lao động đối với mỗi người lao
động, khuyến khich người lao động ban sức lao động của họ ở những nơi có mức
tiền lương cao. Mặt khac vẫn phải duy trì những ưu đãi xã hội và thực hiện tốt vấn
đề bảo hiểm xã hội…
Đổi mới mạnh mẽ hệ thống quản lý giáo dục, tập trung vào vấn đề quản lý chất
lượng. Xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng đào tạo, tăng cường thanh tra kiểm
tra, thay đổi cách tổ chức thi cử, tuyển sinh (hiện nay chỉ nặng về kiến thức sách

vở!), khắc phục tình trạng nặng về quản lý đầu vào, nhẹ quản lý đầu ra; kiên quyết
chống bệnh thành tích đang ngăn cản con đường đi tới chất lượng.
6. Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế và giữ vững định hướng
XHCN:
Vai trò quản lý của Nhà nước là định hướng chiến lược phát triển, tạo môi trường
cho sản xuất kinh doanh, lo xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ lợi ích công cộng, sử
dụng các công cụ chính sách để hướng dẫn sản xuất, dùng công cụ luật pháp để
hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường, kiểm soát và can thiệp vào kinh tế vĩ mô
không để cho các lực lượng thuần túy thị trường (nhất là về tài chính tiền tệ) lũng
đoạn, làm rối loạn nền kinh tế. Nhà nước có chính sách điều tiết thu nhập, thực
hiện công bằng xã hội, hỗ trợ các "nhóm yếu thế", giữ định hướng xã hội xã hội
chủ nghĩa. Các cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất kinh doanh (giao thông, năng
lượng v.v…) cần có chính sách khuyến khích, thu hút kinh tế tư nhân tham gia đầu
tư họ tự chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư; giảm hẳn cách làm sử dụng vốn ngân
sách nhà nước giao cho doanh nghiệp nhà nước rất kém hiệu quả như lâu nay. Kể
cả phát triển các dịch vụ công (văn hoá, giáo dục, y tế ) cũng cần có chính sách
khuyến khích tư nhân đầu tư, thực hiện chủ trương xã hội hóa kết hợp với sự quản
lý và đầu tư của nhà nước.
Lấy ví dụ cụ thể là trong việc quản lý đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp,
hiện nay còn có nhiều cơ quan thuộc các cấp khác nhau quản lý việc đăng ký kinh
doanh, gây tình trạng lộn xộn, khiến việc nắm về số lượng, việc kiểm tra giám sát
việc kinh doanh của các doanh nghiệp khó khăn. Cần phải quy định riêng một cơ
quan làm công việc này. Kiện toàn hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế vĩ
mô để nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước. Hệ thống pháp luật phải thống
nhất, một mặt phải bảo đảm việc trả lương tương xứng cho người lao của các
doanh nghiệp, mặt khác phải định hướng dư luận, bảo vệ những người có thu nhập
cao chính đáng. Các chính sách kinh tế vĩ mô, phát huy đúng tác dụng điều tiết nền
kinh tế, tránh những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, khuyến khích sản
xuất phát triển…
Hiện nay, chúng ta đang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức

sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân, nghĩa là nền kinh tế ở nước ta vẫn còn bóc lột
ở mức độ nào đó với nhiều hình thức “thiên biến vạn hóa”. Để giảm sự tiêu cực đó,
nhà nước cần thực hiện chế độ phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế
(hay phân phối theo mức độ đóng góp); phải thực hiện tốt các chính sách xã hội
như phúc lợi xã hội, các ưu đãi xã hội, bảo hiểm xã hội…
Bên cạnh những ưu đãi đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nhân nước
ngoài hiện nay ở nước ta, cũng cần phải xây dựng hoàn chỉnh và thực hiện nghiêm
túc hơn luật kinh doanh đối với những doanh nhân nay, tránh tình trạng coi thường
pháp luật Việt Nam của những người nay.
Trong các doanh nghiệp tư nhân cần phải tăng cường sự hoạt động của các tổ chức,
đoàn thể Đảng, Công đòan, đoàn thanh niên… để bảo vệ quyền lợi chính đáng của
công nhân. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp liên doanh, hay các doanh nghiệp
100% vốn đầu tư nước ngoài, cần nâng cao năng lực hoạt động cũng như tư cách
đạo đức của những người làm công tác công đoàn
KẾT LUẬN:
Kinh tế thị trường luôn gắn liền với các quy luật kinh tế của nó, trong đó có quy
luật sản xuất “giá trị thặng dư”, vì vậy, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay thì sự tồn tại của quy luật sản xuất “giá trị thặng
dư” là một tất yếu khách quan. Do đó, việc nghiên cứu về “giá trị thặng dư” là một
điều cần thiết.
Trong bất kỳ một chế độ xã hội nào thì việc thu được nhiều lợi nhuận vẫn là mục
tiêu chính và hàng đầu khi áp dụng các công nghệ kỹ thuật cao vào quá trình sản
xuất. Trong nền sản xuất xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay cũng không nằm
ngoài cái quy luật ấy, nhưng nền sản xuất xã hội chủ nghĩa khác biệt với nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa ở chỗ: khi áp dụng khoa học công nghệ cao vào quá trình sản
xuất các doanh nghiệp không thu được giá trị thặng dư như các nhà tư bản trước
chủ nghĩa tư bản mà họ chỉ thu được sản phẩm thặng dư mà thôi. Vì vậy việc áp
dụng các biện pháp để tăng cường bóc lột giá trị thặng dư dưới chủ nghĩa tư bản và
điều kiện Việt Nam chỉ có thể xét dưới góc độ làm thế nào để sản xuất ra nhiều sản
phẩm thặng dư chứ không phải giá trị thặng dư như chủ nghĩa tư bản.

Quy luật sản xuất “giá trị thặng dư” có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển
kinh tế, phát triển cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, cũng như việc cải
thiện đời sống của nhân dân. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư có ý nghĩa
quan trọng, giúp chúng ta có nhận thức đúng đắn, phân biệt giữa giá trị thặng dư và
vấn đề bóc lột, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cần phát triển kinh tế, nền
sản xuất xã hội phải sản xuất ra giá trị thặng dư đồng thời phải phân phối lượng giá
trị thặng dư ấy một cách công bằng loại bỏ sự bóc lột trong xã hội; áp dụng quá
trình sản xuất giá trị thặng dư: kết hợp sức lao động và tư liệu sản xuất tạo ra giá trị
thặng dư vào nền sản xuất xã hội ở nước ta trong giai đoạn này, khẳng định việc
phát triển chất lượng nguồn lao động, phát triển thị trường lao động, thu hút và sử
dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư là quá trình đúng đắn để phát triển đất nước; từ
việc nghiên cứu này còn giúp Đảng và Nhà nước xây dựng những chủ trương phát
triển kinh tế đồng thời đảm bảo công bằng xã hội.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×