Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Một số thách thức trong phát triển nền kinh tế tuần hoàn và gợi mở một số định hướng thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.17 KB, 7 trang )

QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

MỘT SỐ THÁCH THỨC
TRONG PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ TUẦN HOÀN
VÀ GỢI MỞ MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TUẦN HỒN Ở VIỆT NAM
Nguyễn Đình Chúc*
Trần Thị Thu Hương**

Tóm tắt: Phát triển bền vững ln là mục tiêu hướng tới cao nhất của mọi sự phát triển. Tuy
nhiên, trong bối cảnh ngày càng có nhiều thách thức như: suy giảm tài ngun thiên nhiên, suy
thối mơi trường, và đặc biệt là biến đổi khí hậu (BĐKH), việc hướng tới phát triển bền vững cũng
sẽ càng trở nên khó khăn hơn. Việt Nam nằm trong số các quốc gia dễ bị tổn thương và chịu ảnh
hưởng nặng nền nhất của BĐKH. Để ứng phó với các thách thức mới, đặc biệt là BĐKH, đã đến
lúc Việt Nam cần chuẩn bị cho một cuộc đổi mới tiếp theo, trong đó bao gồm cả đổi mới về mơ
hình phát triển của nền kinh tế. Một trong những mơ hình phát triển mang lại nhiều lợi ích, và
đang là xu hướng các nước theo đuổi để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, đó là mơ hình
kinh tế tuần hồn (KTTH). Tuy nhiên, việc chuyển từ mơ hình kinh tế truyền thống sang mơ hình
KTTH khơng phải lúc nào cũng thuận lợi. Vì vậy, việc nhận diện những thách thức trong phát
triển mơ hình KTTH trong điều kiện ở Việt Nam là rất cần thiết. Điều này sẽ giúp cho Việt Nam
có sự chủ động trong việc điều hành và ra các quyết sách quan trọng nhằm khắc phục, giảm thiểu
những rào cản để sớm chuyển đổi sang mơ hình kinh tế mới này.
Từ khố: Biến đổi khí hậu; Kinh tế tuyến tính; Kinh tế tuần hồn; Phát triển bền vững.
1. Đặt vấn đề
Kinh tế tuần hồn khơng cịn là một thuật ngữ mới xuất hiện trên thế giới trong những thập
kỷ gần đây mà đã manh nha từ những ý tưởng về tuần hồn vật liệu trong ngành nơng nghiệp thế
kỷ XVIII (Schivelbusch W., 2015). Tuy KTTH không phải là một thuật ngữ mới nhưng đến nay
vẫn chưa có một khái niệm thống nhất cho thuật ngữ này do các Tổ chức, nhà nghiên cứu đứng
trên quan điểm ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Khái niệm KTTH đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển
và ngày càng hoàn thiện hơn.


*

Tiến sĩ, Chánh Văn phòng, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, email:
Tiến sĩ, Trưởng phòng, Viện Nghiên cứu Phát triển bền vững Vùng, email:

**

44


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

Ở Việt Nam, KTTH lại đang khá mới mẻ; và vì vậy hiểu đúng và hiểu đủ về KTTH là rất
quan trọng. Gần đây, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm giai đoạn 2021-2030 đã khẳng
định “Phát triển bền vững trở thành xu thế bao trùm trên thế giới; kinh tế số, kinh tế tuần hồn,
tăng trưởng xanh đang là mơ hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn”. Đồng thời, Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 cũng đã xác định “Khuyến khích phát triển
mơ hình kinh tế tuần hồn để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất” là một
trong những phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong 10 năm tới.
Như vậy, phát triển mơ hình KTTH là con đường tất yếu Việt Nam lựa chọn cho giai đoạn tới do
lợi ích vượt trội của mơ hình này đem lại. Tuy nhiên, khơng phải dễ dàng có thể đạt được nếu
khơng có quyết tâm chính trị và các điều kiện tiên quyết khác.
Bài viết này bên cạnh việc tìm hiểu bản chất, đặc trưng của KTTH, còn nhận diện những thách
thức/hạn chế của Việt Nam trong quá trình chuyển đổi và phát triển mơ hình nền KTTH. Phần kết
luận sẽ đưa ra một số hướng gợi mở cho Việt Nam trong giai đoạn 2021-2030.
2. Bản chất, đặc trưng và lợi ích của kinh tế tuần hồn
Mơ hình kinh tế tuyến tính (Linear economy)/hay mơ hình kinh tế truyền thống với đặc trưng
là khai thác, sản xuất/tạo ra, sử dụng và cuối cùng là thải loại/phá bỏ. Mơ hình này hiện đang đạt
đến giới hạn và ngày càng chứng tỏ không thể giải quyết được vấn đề tăng trưởng cả về chất lượng
lẫn hệ thống. Bởi cách thức vận hành này đã khiến tài nguyên liên tục bị khai thác và khối lượng

chất thải ra môi trường gia tăng. Theo thống kê của Chương trình Mơi trường Liên hợp quốc
(UNEP), lượng tài nguyên mà con người khai thác năm năm 2017 đã đạt 92 tỷ tấn, tăng gấp 3,4
lần so với năm 1970 (27 tỷ tấn), và con số này vẫn đang tiếp tục tăng nhanh (UNEP, 2019). Năm
2018, Mạng lưới Dấu chân toàn cầu (Global Footprint Network) đã đưa ra ước tính nhu cầu tài
nguyên của thế giới đã gấp 1,7 khả năng đáp ứng hiện nay của trái đất.
Như vậy, mơ hình kinh tế truyền thống (KTTT) khơng cịn chứng tỏ được tính ưu việt của nó,
do: (i) tài nguyên thiên nhiên ngày càng trở nên khan hiếm, giá tài nguyên ngày càng cao và có thể
gây gián đoạn nguồn cung; (ii) các nhà sản xuất có xu hướng tìm kiếm giải pháp hữu hiệu để tiết
kiệm tối đa nhiên/nguyên liệu đầu vào sản xuất để giảm chi phí, giá thành sản xuất nên đã có nhiều
giải pháp sáng tạo nhằm tận dụng, tái chế và tái sử dụng trong quá trình sản xuất của mình; (iii)
sức ép trước yêu cầu của người tiêu dùng đối với nhiều khu vực sản xuất hàng hoá ngày càng gắt
gao trong việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên; và (iv) hiệu quả sinh thái thấp đã khiến
cho tốc độ sử dụng năng lượng ngày càng tăng trong khi tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt
(Lomberg B., 2011).
Kinh tế tuần hồn (Circular Economy - KTTH) là mơ hình phát triển mới, với cách tiếp cận
thay thế cho cách tiếp cận phát triển theo mơ hình KTTT, và được đánh giá là có nhiều tiềm năng
trong việc đảm bảo phát triển bền vững nền kinh tế toàn cầu. Bởi KTTH hướng tới mục tiêu kết
nối điểm cuối (thải loại/phá bỏ của KTTT) với điểm đầu (khai thác của KTTT) để giữ cho dịng
vật chất được sử dụng lâu nhất (có thể), khôi phục và tái tạo các sản phẩm, vật liệu ở cuối mỗi
vòng sản xuất hay tiêu dùng (Biểu đồ 1).
45


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

Biểu đồ 1. Kinh tế tuyến tính và kinh tế tuần hoàn

Nguồn: Quang Minh (2020).
Khái niệm KTTH được sử dụng chính thức đầu tiên trong nghiên cứu của Pearce và Turner
(1990). Nghiên cứu này đã chỉ ra đặc điểm của mơ hình kinh tế mới dựa trên ngun lý cơ bản, đó

là “mọi thứ đều là đầu vào đối với thứ khác”, hồn tồn khơng giống với cách nhìn của nền KTTT.
Tuy nhiên, đến nay chưa có một khái niệm được chuẩn hoá về KTTH giữa các tổ chức, các nhà
nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách. Chẳng hạn, theo Tổ chức Phát triển công nghiệp
Liên Hợp quốc (UNIDO) cho rằng: “KTTH là một cách mới để tạo ra giá trị, và hướng tới mục
tiêu cao nhất là sự thịnh vượng. Nó hoạt động bằng cách kéo dài vịng đời sản phẩm thơng qua
việc cải tiến thiết kế và bảo dưỡng, chuyển chất thải từ điểm cuối chuỗi cung ứng trở lại điểm đầu
- qua đó, sử dụng các tài nguyên hiệu quả hơn bằng cách sử dụng nhiều lần chứ không chỉ một
lần” (UNIDO, 2017). Theo Chương trình Mơi trường Liên Hợp quốc (UNEP) định nghĩa: “KTTH
là một nền kinh tế nơi giá trị của sản phẩm, nguyên vật liệu và tài nguyên được duy trì trong nền
kinh tế lâu nhất có thể và đồng thời giảm tối thiểu chất thải” (Barquet và cộng sự, 2013). Trong
khi đó, Chương trình Mơi trường Liên Hợp quốc (Boons và Lüdeke-Freund, 2013) và Tổ chức
Hợp tác và Phát triển kinh tế (Bakker và cộng sự, 2014) cùng đồng quan điểm cho rằng KTTH “là
cách tốt nhất để phá vỡ mối liên hệ lâu nay giữa tăng trưởng kinh tế và các ảnh hưởng tiêu cực
tới môi trường”. Gần đây, Luật số 72/2020/QH14 Bảo vệ Môi trường đã lần đầu tiên đưa ra định
nghĩa về KTTH, đó là “mơ hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và
dịch vụ nhằm giảm khai thác nguyên liệu, vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải
phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường” (Điều 142).
Báo cáo nghiên cứu “KTTH bao trùm: ưu tiên cho các nước đang phát triển” của nhóm nghiên
cứu Wellesley và cộng sự (2019) thuộc Viện Hoàng gia Chatham House (Anh) đã đưa ra một khái
niệm và biểu đồ về các hoạt động trong mơ hình KTTH rất cụ thể, theo đó, KTTH được hiểu là
“một nền kinh tế trong đó các sản phẩm được tái chế, sửa chữa hoặc tái sử dụng thay vì vứt bỏ,
và trong đó chất thải từ một q trình này trở thành đầu vào cho các quá trình khác”. Nghiên cứu
này cũng đã chia KTTH thành 3 nhóm hoạt động như sau: (i) Tạo ra các vịng lặp/khép kín - một
sản phẩm khi đến giai đoạn kết thúc một vòng đời hoạt động theo thiết kế sẽ được tái sử dụng, sửa
46


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

chữa, tái sản xuất hay tái chế thay vì phải vứt bỏ; (ii) Làm chậm dòng lưu chuyển - thay đổi phương

thức thiết kế và sản xuất sản phẩm để đảm bảo các sản phẩm được duy trì sử dụng càng lâu càng
tốt, từ đó làm giảm nhu cầu mua sản phẩm mới; và (iii) Thu hẹp dịng lưu chuyển - nhóm hoạt
động này liên quan tới việc chuyển sang các phương thức sử dụng sản phẩm hiệu quả hơn (ví dụ
như: chia sẻ các sản phẩm hoặc áp dụng những mơ hình sử dụng sản phẩm thay vì sở hữu sản
phẩm,...).
Biểu đồ 2. Hoạt động kinh tế tuần hoàn

Nguồn: Wellesley và cộng sự (2019).
Kirchherr, Reike và Hekkert (2017) đã rà soát 114 định nghĩa về KTTH và phân tích các định
nghĩa này trên 17 chiều cạnh khác nhau. Các tác giả cho rằng, KTTH hiện chủ yếu được hiểu là
sự kết hợp giữa các hoạt động giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế, từ đó làm gia tăng sự giàu có về
kinh tế và chất lượng môi trường. Những nghiên cứu về KTTH cho thấy, đây khơng phải là mơ
hình đồng nhất cho tồn bộ nền kinh tế, mà nó bao gồm mơ hình khác nhau (như: mơ hình tuần
hồn vật liệu trong sản xuất sản phẩm, mơ hình tuần hồn trong chuỗi cung ứng...). Điều kết nối
các mơ hình này thành một thể thống nhất, cùng hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, về lâu
dài sẽ loại bỏ rác thải khỏi sản xuất và tiêu dùng là các nguyên tắc và triết lý. Kinh tế tuần hoàn
dựa trên các nguyên tắc cơ bản như sau: (i) duy trì và phát triển vốn tự nhiên; (ii) tối ưu hoá việc
sử dụng tài nguyên thiên nhiên; và (iii) nâng cao hiệu suất chung của tồn hệ thống. Việc duy trì
và phát triển vốn tự nhiên được đảm bảo từ việc khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên
thiên nhiên, tái tạo hệ thống tự nhiên và đẩy mạnh sử dụng năng lượng tái tạo. Trong KTTH, tài
nguyên thiên nhiên được sử dụng một cách tối ưu thông qua việc khép kín chu trình sản xuất, tiết
kiệm ngun vật liệu, nhằm nâng cao giá trị gia tăng của tài nguyên trong các chu trình sản xuất
và tiêu dùng. Đồng thời, hiệu suất của toàn bộ hệ thống được nâng cao do việc giảm thiểu các
ngoại ứng tiêu cực, thông qua việc quản lý chất thải, thiết kế sản phẩm và sử dụng ngun vật liệu
có tính tái tạo và phục hồi.
47


QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG


Biểu đồ 3. Lợi ích của mơ hình kinh tế tuần hồn
Lợi ích mơi trường
- Giảm ngun, vật liệu và năng
lượng đầu vào
- Đa số nguyên liệu thô đầu vào có thể
được tái tạo từ Hệ sinh thái sản xuất

Kinh tế tuần hồn

Đầu vào

Lợi ích kinh tế
- Giảm chi phí ngun liệu thơ và
chi phí năng lượng
- Giá trị tài nguyên được sử dụng
nhiều lần và không chỉ 1 lần.
- Giảm thiểu việc sử dụng tài
nguyên khan hiếm
- Giảm chi phí phát sinh từ quy
định luật pháp về mơi trường, thuế
và bảo hiểm
- Hình ảnh, trách nhiệm và thị
trường xanh tiềm năng

Lợi ích xã hội
- Cơ hội việc làm mới từ việc sử
dụng giá trị gia tăng của tài
nguyên
- Tăng ý thức cộng đồng, hợp tác,
và tham gia thông qua mơ hình

“kinh tế chia sẻ”
- Chia sẻ chức năng vật lý của sản
phẩm và dịch vụ trong nhóm thay
vì sở hữu cá nhân

Lợi ích mơi trường
- Giảm chất thải và khí thải
- Nguồn lực trong hệ thống sản
xuất-tiêu thụ được sử dụng nhiều
lần, không chỉ một lần
- Năng lượng tái tạo là nhiên liệu
trung tính CO2 và chất thải của
chúng là chất dinh dưỡng có thể
được sử dụng trong tự nhiên
Đầu Ra

Lợi ích kinh tế
- Giảm giá trị thất thốt và tiêu hao
- Giảm chi phí quản lý chất thải
- Giảm chi phí quản lý khí thải
- Giảm chi phí bảo vệ mơi trường,
thuế, phí, bảo hiểm
- Thị trường mới cho giá trị tài
nguyên
- Thu hút đầu tư từ hình ảnh trách
nhiệm kinh doanh mới

Nguồn: Korhonen và cộng sự (2018).
Nghiên cứu gần đây khi tổng hợp 45 chiến lược về KTTH và hơn 100 trường hợp trên thế
giới của Kalmykova và cộng sự (2018) đã đưa ra kết luận rằng hiện trên thế giới có hai cách tiếp

cận triển khai KTTH. Đó là: (i) Tiếp cận triển khai tồn bộ nền kinh tế theo hệ thống (Systemic
economy-wide implementation): Nền kinh tế ở đây được hiểu rất rộng, ở nhiều cấp độ khác nhau,
từ nền kinh tế quy mô cấp địa phương (khu công nghiệp, thành phố, tỉnh), đến nền kinh tế quy mô
ở cấp vùng trong một quốc gia (như: liên tỉnh, liên thành phố), đến nền kinh tế của một quốc gia,
và thậm chí là nền kinh tế quy mô liên quốc gia. Về tổng thể, cách thức triển khai nền kinh tế theo
hệ thống là kết nối các hoạt động kinh doanh và sản xuất thành các vòng tuần hồn vật liệu trong
một khơng gian kinh tế nhất định. Tiêu biểu của cách tiếp cận này là tại Đan Mạch, Trung Quốc,
Nhật Bản và Canada. Tuy nhiên, cách thức áp dụng ở mỗi nước khơng hồn tồn giống nhau; và
(ii) Tiếp cận theo nhóm ngành, sản phẩm, nguyên liệu hoặc vật liệu (Group of sectors, products,
materials and substances): Cách tiếp cận triển khai này không giới hạn ở phạm vi một không gian
kinh tế nhất định mà tập trung theo nhóm ngành, sản phẩm hoặc nguyên vật liệu. Theo đó, các
quốc gia lựa chọn một số vật liệu và từ đó xác định các ngành liên quan tới vật liệu đó làm ưu tiên
cho việc triển khai hoạt động KTTH. Tiêu biểu của cách tiếp cận này là Khối liên minh EU,
Canada, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,... Tuy nhiên, trên thực tế hai cách tiếp cận triển khai
này khơng hồn tồn được phân biệt một cách rạch rịi với nhau. Chẳng hạn, một khu cơng nghiệp
48


RISK GOVERNANCE AND SUSTAINABLE URBAN DEVELOPMENT

được thành lập cũng có thể định hướng thực hiện tuần hoàn một hoặc một vài vật liệu nhất định.
Vì thế, hiện nay ở nhiều quốc gia, hai cách tiếp cận này thường được sử dụng kết hợp với nhau,
và cách thức triển khai rất đa dạng tùy vào đặc điểm của từng quốc gia.
Như vậy, về tổng thể KTTH là một hệ thống kinh tế có tính giảm thiểu, đổi mới, tái tạo và
khơi phục, thơng qua việc thay đổi cách mà hàng hố, dịch vụ được thiết kế, sản xuất và tiêu dùng.
Bản chất của KTTH là: (i) thực hiện KTTH không phải là hi sinh lợi ích kinh tế để đạt được các
mục tiêu về môi trường, mà thực hiện KTTH sẽ giúp gia tăng lợi ích cho tồn xã hội trên nhiều
khía cạnh (như: tạo việc làm, tiết kiệm tài nguyên, tạo sự cạnh tranh kinh tế, giảm chi phí sản
xuất,...); (ii) KTTH không phải là mục tiêu hướng đến mà là cách thức, là phương tiện và là con
đường để hướng đến phát triển bền vững; (iii) nhà nước đóng vai trị kiến tạo, tạo mơi trường thúc

đẩy để các doanh nghiệp chuyển đổi phương thức sản xuất mới trên nền tảng triết lý “giảm thiểu,
đổi mới, tái tạo và khơi phục”, doanh nghiệp chính là động lực của thúc đẩy sự chuyển đổi nhanh
sang mơ hình KTTH, người dân và người tiêu dùng có vai trị quan trọng tạo sức ép đối với doanh
nghiệp, buộc doanh nghiệp ngày càng coi trọng thực hiện KTTH; (iv) KTTH không chỉ là tuần
hồn vật liệu mà cịn là giảm thiểu việc sử dụng các vật liệu khó tái chế; đồng thời, KTTH không
phải là xử lý chất thải, mà ngược lại KTTH coi chất thải là tài nguyên, là một sản phẩm của q
trình sản xuất. Điều đó địi hỏi các hoạt động kinh tế phải có sự kết nối một cách có tính tốn trước,
sao cho tạo ra một sự kết hợp mang tính hợp nhất, tạo thành các vịng trịn tuần hoàn trong nền
kinh tế.
3. Những thách thức của Việt Nam trên con đường hướng tới mơ hình kinh tế tuần hồn
Phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) đã và đang đặt ra yêu cầu thúc
đẩy việc chuyển đổi sang mơ hình KTTH. Tại Việt Nam, phát triển bền vững từ lâu đã được coi là
nhiệm vụ ưu tiên trọng tâm của quốc gia, và ln là đích phấn đấu của mọi ngành, lĩnh vực. Điều
3, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 của Việt Nam đã khẳng định và chính thức hố nội hàm của
phát triển bền vững, đó là“phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn
hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài
hòa giữa tăng trưởng kinh tế, đảm bảo tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”. Việt Nam hiện được
xếp vào một trong năm quốc gia dễ bị tổn thương nhiều nhất do BĐKH. Đã có nhiều bằng chứng
cho thấy BĐKH đã gây ra những thiệt hại lớn về kinh tế đối với Việt Nam. Đơn cử như: BĐKH
và thiên tai đã gây thiệt hại 5% GDP của Việt Nam (năm 2010), và con số này có thể lên tới 11%
vào năm 2030 nếu Việt Nam khơng có giải pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề (DARA, 2012:221).
Tương tự, Ngân hàng Thế giới đã đưa ra dự báo BĐKH có thể gây ảnh hưởng 1,5% GDP của Việt
Nam từ nay đến năm 2050. Theo phân tích của Viện Tài nguyên thế giới về ảnh hưởng của lũ lụt
đến GDP, Việt Nam đứng thứ 4 trong số 164 quốc gia được khảo sát về tác hại nghiêm trọng của
lũ lụt đến toàn nền kinh tế; làm thiệt hại 2,3% GDP của Việt Nam mỗi năm (Nguyễn Thị Lan,
2019). Do đó, khuyến khích phát triển KTTH đang là một trong những phương hướng, nhiệm vụ
ưu tiên, cấp bách mà Việt Nam lựa chọn nhằm phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong 10
năm tới.
49



QUẢN TRỊ RỦI RO VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG

Việc thực thi phát triển KTTH ở các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng trên
thực tế cịn nhiều hạn chế bởi KTTH địi hỏi có những thay đổi đột phá và đổi mới căn bản, sự
chuyển đổi sang nền KTTH liên quan đến nhiều chủ thể và liên quan tới khả năng quản lý, hoạt
động sản xuất công nghiệp của từng quốc gia. Đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển như
Việt Nam, việc chuyển đổi sang mơ hình KTTH sẽ càng khó khăn.
Nghiên cứu của Ritzén và Sandstrưm (2017) đã chỉ ra rằng các rào cản của việc thực hiện KTTH
bao gồm: tài chính, cấu trúc, hoạt động, thái độ và công nghệ. Merli và cộng sự (2018) tiến hành
nghiên cứu về rào cản đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của Tây Ban Nha, đã chia các rào cản thành
rào cản cứng và rào cản mềm, theo đó: (i) rào cản cứng như thiếu nguồn lực tài chính, cơng nghệ,
thơng tin, chính sách,... đều có thể được giải quyết bằng kích thích tài chính, hiện đại hóa cơng nghệ,
hay bổ sung các chính sách cần thiết; nhưng (ii) rào cản mềm liên quan đến thái độ thiếu quan tâm
của người đứng đầu doanh nghiệp hay người tiêu dùng lại là điều rất khó khăn để thay đổi. Tương
tự, nghiên cứu của Tura và cộng sự (2019) đã chỉ ra một số rào cản thực thi KTTH, đó là: (i) Giá cao
và trong nhiều trường hợp mơ hình KTTH địi hỏi đầu tư trả trước trong khi lợi nhuận không chắn
chắn hoặc thu được sau một thời gian dài; (ii) Thiếu cơng cụ và phương pháp đo lường lợi ích dài
hạn khi triển khai các dự án KTTH; (iii) Thiếu nhận thức xã hội và sự không chắc chắn về phản ứng
cũng như nhu cầu của người tiêu dùng; Thiếu cơ chế thị trường để hồi phục; Thiếu những hỗ trợ rõ
ràng, đặc biệt là hỗ trợ tài chính; (iv) Quy định phức tạp và chồng chéo; và (v) Thiếu hỗ trợ của chính
phủ và thiếu chuyên gia hoạch định chính sách hiểu biết về KTTH.
Bên cạnh những rào cản cụ thể đối với việc chuyển đổi KTTH tại các cấp độ, một trong những
khó khăn nữa xuất phát từ việc khái niệm KTTH hiện chủ yếu tập trung vào khía cạnh kinh tế và
mơi trường, trong khi cịn thiếu các khía cạnh về xã hội và thể chế để giải quyết các vấn đề liên
quan cũng như động lực nhằm dẫn dắt và thực hiện quá trình chuyển đổi (Moreau và cộng sự,
2017). Ngay tại Trung Quốc, là quốc gia sớm thực hiện KTTH với quy định pháp lý và chiến lược
truyền thông rộng khắp, nhận thức của cán bộ về KTTH còn khác biệt với hành động thực tế (Xue
và cộng sự, 2010). Nhận thức của người dân và cộng đồng về KTTH hạn chế hơn rất nhiều so với
cán bộ. Điều tra ở Thiên Tân (Trung Quốc) cho thấy, cư dân có nhận thức hạn chế và hiểu biết

kém về KTTH. Trong khi chính phủ đặt ra một mục tiêu đầy tham vọng và có trách nhiệm hơn
trong việc thúc đẩy KTTH, thì cơng chúng khơng có thơng tin cơ bản về vai trò mà họ đảm nhiệm
trong việc thực thi và thúc đẩy KTTH. Hầu hết cư dân không tham gia vào việc quảng bá kinh tế
tuần hoàn và nhận thức của họ về KTTH chủ yếu xuất phát từ vấn đề sức khoẻ và an toàn của
chính họ, thay vì một nhận thức chung về mơi trường toàn cầu.
Như vậy, con đường đi đến triển khai mơ hình KTTH ở nhiều quốc gia trên thế giới đều gặp
phải những rào cản, trở ngại tuy ở mức độ và thời điểm có thể rất khác nhau. Cũng giống như
nhiều quốc gia trên thế giới, việc chuyển đổi từ mơ hình KTTT sang KTTH ở Việt Nam cũng gặp
nhiều thách thức, trong đó có những thách thức vơ cùng lớn cần phải lưu ý, đó là:
Nhận thức của từng cấp lãnh đạo, cấp quản lý, cán bộ, công chức và từng doanh nghiệp, người
dân về bản chất và lợi ích vượt trội của mơ hình KTTH khơng phải lúc nào cũng đúng và đầy đủ.
50



×