Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Vai trò lãnh đạo của đảng đối với công tác an ninh, quốc phòng tiểu luận hệ thống chính trị với quản lý xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.3 KB, 36 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ QUẢN LÝ XÃ HỘI

Đề tài:
VAI TRỊ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI
CƠNG TÁC AN NINH, QUỐC PHÒNG


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
PHẦN I: MỞ ĐẦU..........................................................................................3
PHẦN II: NỘI DUNG.....................................................................................9
2.1. Làm rõ các khái niệm của vấn đề nghiên cứu............................................9
2.2.Quan điểm của Đảng, chính sách PL của NN về vai trò lãnh đạo đối với
nền an ninh quốc phòng..................................................................................17
2.3. Thực trạng của vai trị lãnh đạo của Đảng với cơng tác an ninh quốc
phòng...............................................................................................................23
2.4 . Phương hướng, giải pháp........................................................................26
III: KẾT LUẬN.............................................................................................31
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................33


LỜI MỞ ĐẦU
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt Nam lao động cần cù,
sáng tạo, chiến đấu anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên
truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất của dân
tộc và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam. Ngày nay, trong bối cảnh toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH, Hiến pháp này khẳng định tiếp tục phát huy các giá trị
truyền thống của dân tộc, kế thừa sáng tạo các Hiến pháp năm 1946, Hiến


pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 còn phù hợp, thực
hiện mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân, xây dựng nước Việt Nam vì mục
tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. chúng ta đã hội đủ
các tiền đề và điều kiện để làm sâu sắc thêm vấn đề vai trò lãnh đạo của Đảng
với Nhà nước và xã hội. Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước
và xã hội. khơng chỉ khẳng định vai trị lãnh đạo của Đảng thông qua tôn chỉ,
lý tưởng, sứ mệnh của Đảng mà còn khẳng định, nhân dân là chủ thể của mọi
quyền lực, sức mạnh của Đảng là ở nhân dân và Đảng hoạt động khơng có
mục đích nào khác ngồi lợi ích của nhân dân. Các tổ chức Đảng và đảng viên
vừa là người lãnh đạo vừa là công bộc của nhân dân. Đảng vì dân để dân tin
Đảng, và tự nguyện, tôn vinh Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Cơng tác xây dựng tiềm lực về quốc phịng cũng đạt được những kết
quả tích cực. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, chỉ đạo, điều hành của UBND
tỉnh, công tác xây dựng khu vực phòng thủ được các cấp, các ngành, lực
lượng vũ trang triển khai, thực hiện đạt kết quả theo Nghị quyết số
28-NQ/TW, ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong
tình hình mới và Nghị định số 152/2007/NĐ-CP, của Chính phủ về xây dựng
khu vực phịng thủ. Duy trì nghiêm chế độ thường trực sẵn sàng chiến đấu;
1


nâng cao khả năng hiệp đồng chiến đấu giữa các lực lượng và chất lượng các
cuộc diễn tập khu vực phòng thủ, diễn tập cụm tác chiến biên phòng, chiến
đấu trị an, cứu hộ, cứu nạn. Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành Trung ương
tiếp tục đầu tư xây dựng hệ thống cơng trình phịng thủ, căn cứ chiến đấu, căn
cứ hậu phương, các đồn, trạm biên phòng, đường tuần tra biên giới... Tập
trung khảo sát và thực hiện việc quy hoạch căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu
phương. Quan tâm bảo đảm phương tiện, vật chất cho lực lượng vũ trang thực
hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu.

Lịch sử Việt Nam chứng minh một cách sinh động: Sự lãnh đạo của
Đảng là điều kiện tất yếu, là nguyên tắc và là nhân tố chủ yếu quyết định
thắng lợi của cách mạng. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt
Nam nói chung, với sự nghiệp quốc phịng, BVTQ nói riêng là sứ mệnh
thiêng liêng do tồn dân tộc ủy thác, được thể hiện trang trọng trong Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội Việt Nam. Những năm qua, Đảng ta đã luôn cố
gắng để xứng đáng với sứ mệnh đó. Trong tình hình mới, càng phải tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất, bước sang thời kỳ xây dựng Chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, Đảng và Nhà nước ta vẫn xác định cơng
tác an ninh, quốc phịng là một trong những vấn đề lớn của nước ta.
Hiểu rõ tầm quan trọng của công tác ưu đãi đối với người có cơng nên
em chọn nghiên cứu và trình bày đề tài:
“Vai trị lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác An ninh, Quốc phòng”

2


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Trong nhiệm kỳ qua, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, tình hình thế
giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khủng hoảng chính trị diễn ra ở
nhiều nơi, nhiều nước; cạnh tranh về nhiều mặt ngày càng quyết liệt giữa các
nước lớn tại khu vực; diễn biến phức tạp trên biển Đơng,… đã tác động khơng
nhỏ đến quốc phịng-an ninh nước ta.
Trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều phức tạp, chúng ta vẫn giữ
vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo đảm

quốc phịng-an ninh và trật tự an tồn xã hội; toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng. Ban Chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, cấp ủy chỉ huy các cấp đã tập trung lãnh đạo, chỉ
đạo toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, hồn thành tốt các mục tiêu, nhiệm
vụ quốc phòng-an ninh.
Tham mưu cho Đảng, Nhà nước thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự-quốc
phòng. Quốc phòng, an ninh được tăng cường; chủ động đánh giá, dự báo, xử
lý đúng đắn các tình huống, khơng để bị động, bất ngờ, nhất là trong đấu
tranh bảo vệ chủ quyền biên giới, lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, đảo; bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy
tín quốc tế của nước ta ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan
trọng để ta tiếp tục tăng cường củng cố quốc phòng-an ninh bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. Tuy nhiên, nhận
thức của một số cán bộ các cấp, các ngành về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới chưa thật đầy đủ, sâu sắc.

3


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm tàu hộ vệ tên lửa Lý Thái Tổ.
(Ảnh: TTXVN tháng 5-2016)
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, có mối quan hệ chặt chẽ, tác
động và chi phối lẫn nhau; song vị trí, vai trị của từng nhiệm vụ trong mối
quan hệ này là khác nhau. Cương lĩnh 1991 xác định: “Trong khi đặt lên hàng
đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn ln nâng cao cảnh giác,
củng cố quốc phịng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ Tổ
quốc và các thành quả cách mạng” ; “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh
quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn dân và Nhà nước” ;

“Sự ổn định và phát triển mọi mặt đời sống xã hội là nền tảng của quốc phòng
- an ninh”. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã bổ sung nhận thức mới về vị trí, vai
trị của từng nhiệm vụ chiến lược và giải quyết đúng đắn mối quan hệ này.
Trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải “kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến
lược”, Đảng ta đã “đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội”;

4


đồng thời, “ln coi trọng quốc phịng, an ninh”, “khơng lơi lỏng nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc”. Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh: Trong khi đặt trọng tâm
vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta không một một chút lơi
lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, ln coi trọng quốc phịng - an ninh; coi đó là
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Chính vì những lý do trên nên em chọn và nghiên cứu đề tài: “ Vai
trị lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác an ninh quốc phịng…”
2.

Tình hình nghiên cứu liên quan

Vai trị lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác quản lý xã hội ở Việt Nam
hiện nay là vấn đề thiết yếu lớn của Đảng và nhà nước ta. Chính vì vậy đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu, tài liệu, bài viết viết về vấn đề vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với cơng tác An ninh, Quốc phịng… , trong đó có đề cập đến
cơng tác này ở góc độ lý luận, chính sách, thực tiễn,... Một số cơng trình
nghiên cứu như sau :
Tăng cường và củng cố thế trận an ninh nhân dân trong bảo vệ chủ
quyển biển, đảo hiện nay – 6/10/2019 – TS Phạm Ngọc Anh. Bảo vệ vững
chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam là trách nhiệm thiêng liêng của mỗi công

dân Việt Nam đối với lịch sử dân tộc, là nhân tố quan trọng bảo đảm phát
triển bền vững. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Kiên quyết, kiên trì
đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ
vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời
giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước”. Đó
là ý chí sắt đá, quyết tâm khơng gì lay chuyển được của dân tộc Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Ra thăm cột mốc chủ quyền trên thềm lục địa phía Nam Tổ Quốc (tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu) _Ảnh: Nguyễn Đông
Ra thăm cột mốc chủ quyền trên thềm lục địa phía Nam Tổ Quốc (tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu) _Ảnh: Nguyễn Đông

5


Ra thăm cột mốc chủ quyền trên thềm lục địa phía Nam Tổ Quốc (tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu
Ảnh: Nguyễn Đơng
Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ở Việt Nam trong tình hình mới –
Võ Văn Trường- 7/12/2019. TCCS - Trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm chăm lo xây dựng Đảng thật sự
trong sạch, vững mạnh. Từ khi giành được chính quyền, Đảng ta vừa là một
bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị, vừa là hạt nhân lãnh đạo hệ thống
ấy. Bởi vì, “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam,… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(1). Xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh chi phối tính chất, mục tiêu, nhiệm vụ, hiệu quả xây dựng hệ
thống chính trị. Đến lượt nó, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các tổ chức
thành viên trong hệ thống chính trị chính là thước đo năng lực lãnh đạo, uy
tín, vị thế, địa vị cầm quyền của Đảng.

Tổng kết cơng tác quốc phịng – an ninh năm 2018, triển khai nhiệm vụ
năm 2019 - - Sáng ngày 14/12, UBND tỉnh tổ chức Hội nghị tổng kết công tác
6


quốc phòng – an ninh năm 2018, triển khai nhiệm vụ năm 2019. Tham dự hội
nghị có các đồng chí: Trịnh Văn Chiến, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư
Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh; Đỗ Trọng Hưng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh
uỷ, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh; Đỗ Minh Tuấn, Phó Bí thư Tỉnh uỷ;
Thiếu tướng Hà Thọ Bình, Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Qn khu 4; các
đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực HĐND, lãnh đạo
UBND tỉnh; lãnh đạo các Ban, ngành, các địa phương và các lực lượng vũ
trang trong tỉnh. Đồng chí Nguyễn Đình Xứng, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch
UBND tỉnh chủ trì hội nghị. Theo báo cáo tổng kết cơng tác quốc phịng – an
ninh năm của UBND tỉnh: Năm 2018, cấp ủy, chính quyền, các Ban, ngành,
đoàn thể các cấp đã triển khai thực hiện có hiệu quả cơng tác quốc phịng – an
ninh. Cơng tác tuyên truyền, giáo dục quốc phòng – an ninh cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân có nhiều đổi mới, đạt hiệu quả thiết thực. Các lực lượng chủ
động nắm tình hình, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền chỉ đạo xử lý kịp thời
các tình huống ở địa phương, cơ sở, nhất là các địa bàn trọng điểm, khu cơng
nghiệp, các doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi; kịp thời phát hiện, tham mưu,
đề xuất biện pháp ngăn chặn các hoạt động chống phá, giữ vững ổn định
chính trị trên địa bàn, khơng để xảy ra điểm nóng; bảo vệ vững chắc chủ
quyền quốc gia, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, tạo mơi
trường đầu tư ổn định, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội. Lực
lượng vũ trang được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, là
lực lượng tin cậy của cấp ủy, chính quyền các địa phương trong xây dựng nền
quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân và biên phịng tồn dân ngày càng
vững chắc, bảo đảm an ninh chính trị, cứu hộ, cứu nạn, đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ trong tình hình mới.

3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1

Mục đích nghiên cứ

- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về vai trị của Đảng đối với cơng tác quốc
phịng an ninh
7


- Phân tích được thực trạng tình hình thực hiện vai trị của Đảng đối với
cơng tác quốc phịng an ninh ở nước ta trong thời gian qua.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện vai trị của
Đảng đối với cơng tác quốc phịng an ninh trong thời gian tới.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tiểu luận nghiên cứu các nhóm đối tượng quản lí xã hội Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Nghiên cứu vai trò lãnh đạo Đảng đối với Quốc phòng an
ninh trong giai đoạn 2014 – 2019.
Về khơng gian: Nghiên cứu nhóm quản lý xã hội trên địa bàn cả nước
5. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình làm tiểu luận em sử dụng các phương pháp chủ yếu
như sau:
-

Phương pháp nghiên cứu định lượng


-

Phương pháp nghiên cứu định tính

-

Phương pháp điều tra xã hội

-

Phương pháp thu thập dữ liệu

8


PHẦN II: NỘI DUNG
2.1. Làm rõ các khái niệm của vấn đề nghiên cứu
* Đảng Cộng Sản Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền tại Việt Nam hiện nay
theo Hiến pháp (bản năm 2013), đồng thời là chính đảng duy nhất được phép
hoạt động trên đất nước Việt Nam, và được đảm bảo bằng Điều 4 Hiến pháp
năm 1980. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức được công bố hiện nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam là đại biểu của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa Marx-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh
làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Trên thực tế, một số yếu tố
của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa dân tộc và cả một vài yếu tố có tính truyền
thống của Nho giáo cũng có những ảnh hưởng nhất định. Tại Việt Nam, trong
các ngữ cảnh khơng chính thức, các phương tiện truyền thông, các nhà lãnh
đạo thường dùng từ "Đảng" (hoặc "Đảng ta") để nói về Đảng Cộng sản Việt

Nam.
Cơ quan cao nhất của Đảng là Đại hội Đại biểu, nơi sẽ bầu ra Ban Chấp
hành Trung ương. Giữa các kỳ Đại hội Đảng, Trung ương Đảng là cơ quan tối
cao quyết định các vấn đề của Đảng. Ngay sau Đại hội Đảng, Trung ương sẽ
bầu ra Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, và chỉ định người làm
Tổng Bí thư.
Lãnh đạo hiện tại của Đảng là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam 2013 khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt
đối của Đảng lên Nhà nước và xã hội:


Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân

Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Marx - Lenin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

9




Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền tại nước Cộng hịa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam và có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội,
chính trị của quốc gia này, đảng viên là những người nắm giữ nhiều cương vị
chủ chốt trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Trong Di chúc của Hồ Chí Minh có viết:


Đảng ta là một Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải


thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng
vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo,
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
-

Vai trò lãnh đạo của Đảng:

Đảng ta ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi xuất hiện trên vũ đài
chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ rõ là một đảng cách mạng chân
chính nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc, của giai cấp,
sớm trở thành đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc trong cuộc đấu tranh
chống đế quốc, phong kiến.
Đảng Cộng sản Việt Nam - chính đảng của giai cấp cơng nhân Việt
Nam ra đời trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai
cấp. Ngay từ đầu, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm đứng ra nhận sứ mệnh
lịch sử to lớn mà giai cấp và dân tộc giao phó: Lãnh đạo các tầng lớp nhân
dân Việt Nam đấu tranh chống thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc,
dân chủ cho nhân dân. Trước sự bế tắc về lý luận cũng như đường lối của các
lực lượng cách mạng Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, sự thất
bại không tránh khỏi của các phong trào chống Pháp do các sĩ phu yêu nước
và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản lúc đó, dân tộc ta đã hướng đến con
đường cứu nước mới, khác về chất, con đường mà các thế hệ người Việt Nam
yêu nước đã đi. Chính lúc dân tộc Việt Nam cần một đường lối chính trị đúng
đắn, một đội tiên phong dẫn đường, một bộ tham mưu lãnh đạo thì Đảng

10



Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đáp
ứng kịp thời và đầy đủ những đòi hỏi bức thiết của lịch sử.
Đảng ta ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi xuất hiện trên vũ đài
chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ rõ là một đảng cách mạng chân
chính nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc, của giai cấp,
sớm trở thành đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc trong cuộc đấu tranh
chống đế quốc, phong kiến. Có thể nói, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản
Việt Nam là do thời đại, do giai cấp và dân tộc quy định.
Trong tác phẩm "Đường Cách mệnh" Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra
có ba thứ cách mệnh là: Tư bản cách mệnh, dân tộc cách mệnh và giai cấp
cách mệnh. Ba cuộc cách mạng này về tính chất, mục tiêu, nội dung và
phương pháp tiến hành có khác nhau. Ở các nước dân tộc chủ nghĩa và tư bản
chủ nghĩa, ba cuộc cách mạng này không tiến hành đồng thời; mỗi cuộc cách
mạng đều do một giai cấp cách mạng lãnh đạo (như: Cách mạng tư sản do
giai cấp tư sản lãnh đạo đánh đổ chế độ phong kiến, quý tộc; cách mạng vô
sản do giai cấp công nhân lãnh đạo đánh đổ chế độ tư bản). Ở Việt Nam, do
tính quy định của lịch sử, cả ba cuộc cách mạng đó đều thuộc phạm trù cách
mạng vơ sản. Sự kiện Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin đã đánh
dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách
mạng của Người: Chủ nghĩa yêu nước chân chính đã bắt gặp chủ nghĩa quốc
tế vơ sản. Hồ Chí Minh khẳng định: "Muốn cứu nước giải phóng dân tộc
khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản". Để thực hiện
được mục tiêu đó, Hồ Chí Minh khẳng định: "Trước hết phải có Đảng Cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với các
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới
thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy".
Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trị lãnh đạo nhân dân Việt Nam cùng
một lúc vừa làm tư sản cách mạng, vừa làm dân tộc cách mạng và làm giai
11



cấp cách mạng. Đây là đặc điểm lớn nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cũng là một đặc điểm của sứ mệnh
lịch sử của Đảng đối với giai cấp và dân tộc Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu rõ trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm
tắt và Lời kêu gọi của Đảng khi Đảng mới thành lập, đó là: "Chủ trương làm
tư sản dân quyền cách mạng (révolution démocratique bourgeoise) và thổ địa
cách mạng (révolution agratire) để đi tới xã hội cộng sản";..." Đánh đổ đế
quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến";... Làm cho nước Việt Nam được
độc lập;... Giải phóng cơng nhân và nơng dân thốt khỏi ách tư bản; Mở mang
công nghiệp và nông nghiệp;... Đem lại mọi quyền lợi tự do cho nhân dân".
Trải qua gần 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
từng bước thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. 15 năm sau khi
thành lập, Đảng ta đã lãnh đạo Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công,
đánh đuổi đế quốc, thực dân, lật đổ chế độ phong kiến, lập ra nhà nước công
nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử
dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Khi thực
dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, cả dân tộc Việt Nam đã nghe theo lời
kêu gọi của Đảng, của Bác Hồ, lên đường kháng chiến và cuối cùng đã giành
được thắng lợi to lớn, đánh thắng đế quốc xâm lược và lập lại hồ bình ở
miền Bắc Việt Nam. Trong hồn cảnh đất nước tạm bị chia làm hai miền,
Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng:
Cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở
miền Nam. Khi Mỹ đưa quân vào xâm lược ở miền Nam, tiến hành chiến
tranh cục bộ đánh phá các căn cứ cách mạng ở miền Nam và mở rộng chiến
tranh xâm lược ra miền Bắc (1964), Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo
nhân dân hai miền "đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào", giải phóng hồn
tồn miền Nam, thống nhất Tổ quốc (1975), đưa cả nước đi lên CNXH.


12


Với thắng lợi vĩ đại của các cuộc cách mạng: Tháng Tám năm 1945,
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946 - 1954) và cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975) do Đảng Cộng sản Việt Nam,
đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh vĩ đại lãnh đạo, dân tộc Việt Nam trở thành
một trong những dân tộc đầu tiên làm cách mạng giải phóng dân tộc thành
công ở một nước thuộc địa và lệ thuộc; một trong những dân tộc đầu tiên
đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới, mở đầu phong
trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ-La tinh.
Sau thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân năm 1975, đất
nước Việt Nam thống nhất, Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách
mạng XHCN, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước tình hình đất nước gặp
nhiều khó khăn về kinh tế, đời sống nhân dân còn thiếu thốn, Đảng ta đã chủ
động khởi xướng và lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới đất nước (1986).
Những thành tựu to lớn trong 30 năm đổi mới trên các lĩnh vực: Kinh tế,
chính trị, văn hố, xã hội, quốc phịng - an ninh, quan hệ quốc tế... đã khẳng
định tính đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ một đất
nước bị tàn phá nặng nề bởi nhiều cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa
đế quốc, bị các thế lực thù địch điên cuồng chống phá, bị bao vây, cấm vận
kinh tế, lại phải chịu nhiều tổn thất do thiên tai khắc nghiệt gây ra, Việt Nam
đã nhanh chóng khơi phục và phát triển kinh tế - xã hội; đời sống của các tầng
lớp nhân dân lao động không ngừng được cải thiện; chính trị ổn định; lịng tin
của quần chúng nhân dân đối với Đảng được củng cố; vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế được nâng cao.
Với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam
trở thành một trong những nước đầu tiên tiến hành đổi mới thắng lợi theo
định hướng XHCN. Nhân dân, dân tộc Việt Nam có quyền tự hào về Đảng

Cộng sản Việt Nam - người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Từ thắng lợi của cơng cuộc đổi mới đất nước, chúng ta có thể khẳng định một
cách có cơ sở rằng, được trang bị bằng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
13


Chí Minh, được các tầng lớp nhân dân ủng hộ, tin và đi theo, Đảng Cộng sản
Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, khả năng lãnh đạo nhân dân Việt Nam không
chỉ thắng lợi trong đấu tranh giành và giữ chính quyền trong chiến tranh giải
phóng và chiến tranh giữ nước, mà cả trong xây dựng phát triển kinh tế, xây
dựng đất nước theo mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh".
Gần 90 năm thực hiện sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam,
quãng thời gian chưa dài nhưng những gì mà giai cấp, dân tộc đã thực hiện
được quả là phi thường. Nếu khơng phải là một đảng Mác xít-Lêninnít chân
chính như Đảng Cộng sản Việt Nam, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa
Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành với lợi ích của giai cấp cơng
nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc thì chưa hẳn đạt được nhiều kỳ tích
đến như vậy.
Với tất cả sự khiêm tốn của người Cộng sản, có thể nói, Đảng Cộng sản
Việt Nam thật vĩ đại! Đảng Cộng sản Việt Nam xứng đáng là lãnh tụ của giai
cấp, của dân tộc, xứng đáng là chính đảng cách mạng duy nhất được giai cấp,
dân tộc trao cho sứ mệnh lịch sử.
Điều 4 Hiến pháp năm 2013 chế định rõ:
- Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam,
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
- Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám

sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của
mình.
- Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật”.

14


Việc quy định Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ là tư tưởng
xuyên suốt, nhất quán để khẳng định vị trí, vai trị độc tơn lãnh đạo của Đảng,
mà còn là một nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù hợp
với thể chế chính trị-xã hội mà Việt Nam đã lựa chọn.
Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là vấn đề
chiến lược có tính ngun tắc, bởi vậy, cần kế thừa và phát triển những bài
học kinh nghiệm trong lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giải phóng dân tộc và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trong q trình lãnh đạo, Đảng tiếp tục
tích cực tổng kết thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý luận để nhận thức ngày
càng sâu sắc hơn về vai trò lãnh đạo của Đảng; khơng ngừng bổ sung, hồn
thiện và nâng cao hiệu lực, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã
hội nói chung và các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam nói riêng trong
thời kỳ mới.
-

Cơng tác Quốc Phịng An Ninh:

+ Quốc phịng tồn dân là nền quốc phịng mang tính chất “vì dân, do
dân, của dân”, phát triển theo phương hướng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự
chủ, tự lực, tự cường và ngày càng hiện đại, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc
phòng và an ninh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí, điều hành của Nhà
nước, do nhân dân làm chủ, nhằm giữ vững hồ bình, ổn định của đất nước,

sẵn sàng đánh bại mọi hành động xâm lược và bạo loạn lật đổ của các thế lực
đế quốc, phản động; bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”
+ “Nền quốc phịng tồn dân là sức mạnh quốc phòng của đất nước
được xây dựng trên nền tảng nhân lực, vật lực, tinh thần mang tính chất toàn
dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường”
+ An ninh nhân dân:
“Là sự nghiệp của toàn dân, do nhân dân tiến hành, lực lượng an ninh
nhân dân làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí của Nhà
nước. Kết hợp phong trào tồn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với các biện pháp
nghiệp vụ của lực lượng chuyên trách, nhằm đập tan mọi âm mưu và hành
15


động xâm phạm an ninh quốc gia và trật tự an tồn xã hội, cùng với quốc
phịng tồn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân của ta có những đặc trưng:
- Nền quốc phịng tồn dân, ANND chỉ có mục đích duy nhất là tự vệ
chính đáng
Đặc trưng thể hiện sự khác nhau về bản chất trong xây dựng nền quốc
phòng, an ninh của những quốc gia có độc lập chủ quyền đi theo con đường
xã hội chủ nghĩa với các nước khác. Chúng ta xây dựng nền quốc phòng, an
ninh nhân dân vững mạnh là để tự vệ, chống lại thù trong, giặc ngoài, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa và cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
- Đó là nền quốc phịng, an ninh vì dân, của dân và do toàn thể nhân
dân tiến hành
Đặc trưng vì dân, của dân, do dân của nền quốc phịng, an ninh nước ta
là thể hiện truyền thống, kinh nghiệm của dân tộc ta trong lịch sử dựng nước
và giữ nước. Đặc trưng vì dân, của dân, do dân và mục đích tự vệ của nền
quốc phịng, an ninh cho phét huy động mọi người, mọi tổ chức, mọi lực

lượng đều thực hiện xây dựng nền quốc phòng, an ninh và đấu tranh quốc
phòng, an ninh. Đồng thời, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
quốc phòng, an ninh phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng của
nhân dân.
- Đó là nền quốc phịng, an ninh có sức mạnh tổng hợp do nhiều yếu tố
tạo thành
Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng, an ninh nước ta tạo thành bởi
rất nhiều yếu tố như chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, khoa học, quân sự,
an ninh,... cả ở trong nước, ngoài nước, của dân tộc và của thời đại, trong đó
những yếu tố bên trong của dân tộc bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Sức
mạnh tổng hợp của nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân là cơ sở, tiền
đề và là biện pháp để nhân dân đánh thắng kẻ thù xâm lược.
16


- Nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân được xây dựng toàn diện
và từng bước hiện đại
Việc tạo ra sức mạnh quốc phịng, an ninh khơng chỉ ở sức mạnh quân
sự, an ninh mà phải huy động được sức mạnh của tồn dân về mọi mặt chính
trị, qn sự, an ninh, kinh tế, văn hoá, khoa học. Phải kết hợp hữu cơ giữa
quốc phòng, an ninh với các mặt hoạt động xây dựng đất nước, kết hợp chặt
chẽ giữa quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại.
Xây dựng nền quốc phịng, an ninh tồn diện phải đi đơi với xây dựng
nền quốc phịng, an ninh hiện đại là một tất yếu khách quan. Xây dựng quân
đội nhân dân, công an nhân dân từng bước hiện đại. Kết hợp giữa xây dựng
con người có giác ngộ chính trị, có tri thức với vũ khí trang bị kĩ thuật hiện
đại. Phát triển cơng nghiệp quốc phịng, từng bước trang bị hiện đại cho các
lực lượng vũ trang nhân dân. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế xã hội với
tăng cường quốc phịng, an ninh.
- Nền quốc phịng tồn dân gắn chặt với nền an ninh nhân dân

Nền quốc phòng và nền an ninh nhân dân của chúng ta đều được xây
dựng nhằm mục đích tự vệ, đều phải chống thù trong, giặc ngoài để bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Giữa nền quốc phịng tồn dân với nền an
ninh nhân dân chỉ khác nhau về phương thức tổ chức lực lượng, hoạt động cụ
thể, theo mục tiêu cụ thể được phân công mà thôi. Kết hợp chặt chẽ giữa quốc
phòng và an ninh phải thường xuyên và tiến hành đồng bộ, thống nhất từ
trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch xây dựng, hoạt động của cả nước cũng
như từng vùng, miền, địa phương, mọi ngành, mọi cấp.
2.2.Quan điểm của Đảng, chính sách PL của NN về vai trò lãnh đạo
đối với nền an ninh quốc phịng
Quốc phịng là cơng cuộc giữ nước của một quốc gia, gồm tổng thể các
hoạt động đối nội và đối ngoại về qn sự, chính trị, kinh tế, văn hố, khoa
học của Nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước tạo nên sức mạnh toàn
diện, cân đối, trong đó sức mạnh qn sự nịng cốt, nhằm giữ vững hồ bình,
17


đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng
chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức, mọi quy mơ.
Cịn an ninh quốc gia được hiểu là sự ổn định trong quan hệ chính trị
giữa các giai cấp, khẳng định vị trí lãnh đạo của giai cấp cầm quyền đối với
các giai cấp khác và vị trí độc lập, tự chủ của chính quyền nhà nước đối với
các Nhà nước khác trên thế giới. An ninh quốc gia bao gồm sự ổn định của
hai mặt, hai nội dung đối nội, đối ngoại và mối quan hệ giữa đối nội và đối
ngoại; nó phản ánh quan hệ chính trị trong phạm vi một quốc gia và quan hệ
chính trị quốc tế.
Sinh thời, khi nói về chủ nghĩa xã hội Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng,
thuộc tính dân giàu, nước mạnh địi hỏi chủ nghĩa xã hội phải có một nền
quốc phịng, an ninh vững mạnh đủ sức bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa trong mọi hồn cảnh, tình huống. Người thường xuyên nhắc nhở: “Dù

nhân dân đã nắm chính quyền, nhưng giai cấp đấu tranh trong nước và mưu
mô đế quốc xâm lược vẫn còn”
Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
là một quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung và cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta nói riêng. Quan điểm này thể hiện một cách sinh
động quy luật dựng nước phải gắn liền với giữ nước của dân tộc ta trong tiến
trình cách mạng, trong điều kiện lịch sử mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Từ khi ra đời cho tới nay, Đảng ta ln coi trọng lĩnh vực quốc phịng,
an ninh và coi đó là một nội dung lãnh đạo của Đảng, một nhiệm vụ quan
trọng của cách mạng Việt Nam. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta
ln căn cứ vào nhiệm vụ của cách mạng trong từng thời kỳ để từ đó xác định
đúng đắn nhiệm vụ quốc phòng, an ninh cho phù hợp.
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới và khu vực đang diễn biến
nhanh chóng, phức tạp, tiềm ẩn những yếu tố khó lường. Các thế lực thù địch
vẫn ráo riết chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, chủ yếu và
18



×