khuyến khích các sáng chế phát minh của người lao động. Chú trọng tới công tác tuyển dụng
nhân sự, lựa chọn những người có chun mơn phù hợp, tay nghề tốt để xây dựng một lực
lượng lao động có chất lượng trong doanh nghiệp. Đẩy mạnh xây dựng văn hóa doanh nghiệp,
tạo mơi trường văn hóa lành mạnh, tích cực, chuyên nghiệp sẽ là động lực thúc đẩy sức sáng
tạo và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ths Nguyễn Đức Dương 2016 Xuất khẩu hàng dệt may sang các nước thành viên
TPP thực trạng và giải pháp, Tạp chí Nghiên cứu Thương mại số 22&23 ( 8+10/2016).
2. TS Nguyễn Thanh Bình, TS Nguyễn Thị Việt Hà, 2017 Thực trạng các FTA và
những vấn đề đặt ra đối với xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu
Thương mại số 28 ( 8/2017).
3. TS Trần Thị Thu Hiền ,2019 Phát triển xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam khi
tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái bình dương (TPP), Luận án tiến sỹ kinh tế 2019.
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
KHI K KẾT HIỆP ĐỊNH EVFTA
TS. Trần Thế Tn
Trƣờng Đại học Cơng nghệ GTVT
Tóm tắt: Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) là một FTA thế hệ mới
giữa Việt Nam và 27 nước thành viên EU. EVFTA à hiệp định có phạm vi cam kết rộng và
mức độ cam kết cao nhất của Việt Nam từ trước tới nay. Điều này sẽ có tác động khơng nhỏ
đến nền kinh tế Việt Nam đặc biệt là các ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn sang EU trong đó
có ngành dệt may. Bài viết này sẽ phân tích tình hình xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang
thị trường EU, những cơ hội và thách thức tới ngành dệt may Việt Nam khi EVFTA được ký
kết để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm th c đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang
thị trường EU.
Từ khóa: Hiệp định thương mại tự do, EVFTA, ngành dệt may, cơ hội, thách thức.
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế quốc tế, Việt Nam đã tham gia một số hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới (FTA thế hệ mới) quan trọng như Hiệp định Đối tác Toàn diện
và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CTTPP) và gần đây nhất là Hiệp định thương mại tự do
Việt Nam- EU (EVFTA) được ký kết vào ngày 30/6/2019. Hiệp định này đã mang lại nhiều
cơ hội và thách thức cho các ngành kinh tế của Việt Nam. Trong đó, ngành dệt may là một
440
trong những ngành được hưởng lợi nhiều nhất bởi vì EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai
của ngành này và đây lại là ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam. Khi hiệp
định EVFTA có hiệu lực, EU cam kết xóa bỏ các dịng thuế đối với sản phẩm dệt may Việt
Nam. Do vậy, ngành dệt may Việt Nam có cơ hội tạo ra lợi thế cạnh tranh, tăng tỷ suất lợi
nhuận, tiếp cận và mở rộng thị trường, từ đó tạo động lực thúc đẩy q trình sản xuất kinh
doanh của tồn ngành. Bên cạnh việc mang lại nhiều cơ hội to lớn, ngành dệt may cũng đứng
trước những thách thức đáng kể như hạn chế trong việc truy xuất nguồn gốc sản phẩm, chịu
mức thuế cao trong ngắn hạn do khơng cịn được hưởng ưu đãi thuế từ Hệ thống ưu đãi thuế
quan phổ cập (GSP). Để nghiên cứu về những vấn đề trên, bài viết sẽ khái quát về Hiệp định
EVFTA, sau đó, bài viết tập trung phân tích nội dung của Hiệp định kết hợp với đánh giá thực
trạng ngành dệt may để xác định những cơ hội và thách thức của ngành này. Trên cơ sở đó,
bài viết đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển ngành dệt may.
2. Tổng quan về Hiệp định EVFTA
2.1. Khái qt về Hiệp định EVFTA
Theo Phịng Thương mại và cơng nghiệp Việt Nam, tính đến tháng 02 năm 2020, Việt
Nam đã kí kết 13 hiệp định FTA với nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới, trong đó chỉ có
hai hiệp định được coi là FTA thế hệ mới bao gồm Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTTP) và Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam – EU
(EVFTA). Theo Vũ Văn Diện (2019) thì FTA thế hệ mới là những FTA có những cam kết sâu
rộng và tồn diện hơn so với các FTA truyền thống. Đặc điểm của các FTA thế hệ mới khơng
chỉ là tự do hóa thương mại mà còn là việc mức cam kết sâu hơn so với các FTA truyền thống
(hầu hết các loại thế được cắt giảm về 0% theo lộ trình cụ thể). Ngồi ra, các Hiệp định này
còn ảnh hưởng đến cả những lĩnh vực như lao động, mơi trường, minh bạch hóa, giải quyết
tranh chấp trong đầu tư…Như vậy, có thể thấy rằng các hiệp định FTA thế hệ mới sẽ có
những vai trò và nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế Việt Nam trong tương lai.
Hiệp định EVFTA được ký kết và ngày 30 tháng 6 năm 2019 và dự kiến có hiệu lực
vào tháng 7 năm 2020. Hiệp định EVFTA được coi là một trong những FTA lớn nhất mà Việt
Nam từng tham gia kể cả về phạm vi liên kết của Hiệp định và mức độ mà Hiệp định này có
thể ảnh hưởng đến kinh tế xã hội. EVFTA được Việt Nam ký kết với thị trường EU là thị
trường lớn nhất thế giới hiện nay với dân số 513 triệu người. Đây là một cơ hội lớn để hàng
hóa Việt Nam có thể thuận lợi tiến vào thị trường châu Âu –một thị trường đầy tiềm năng
nhưng cũng có rất nhiều thách thức đối với hàng hóa của Việt Nam từ trước đến nay. Có 16
nội dung chính được ký kết trong Hiệp định EVFTA như thương mại hàng hóa, quy tắc xuất
xứ, phịng vệ thương mại, các rào cản kỹ thuật thương mại, sở hữu trí tuệ…. Trong đó, điều
khoản về thương mại hàng hóa cam kết xóa bỏ gần như 100% thuế nhập khẩu với lộ trình tối
đa là 7 năm đối với EU và 10 năm đối với Việt Nam. Hiệp định này cũng đưa ra cam kết
không áp dụng trợ cấp xuất khẩu nông sản đối với các mặt hàng nông sản xuất khẩu từ phía
này sang phía kia nếu nơng sản đó đã được nước nhập khẩu xóa bỏ thuế quan.Vấn đề sở hữu
trí tuệ cũng được các bên quan tâm với việc Việt Nam cam kết bảo hộ 169 chỉ dẫn địa lý của
441
EU (chủ yếu là rượu và pho mát) và EU bảo hộ 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam (bao gồm chủ
yếu là hàng rau quả, sản phẩm cây công nghiệp – chế biến, thủy sản và chế biến từ thủy sản).
Theo ơng Trần Tồn Thắng -Trưởng ban dự báo Kinh tế ngành và doanh nghiệp – Bộ Kế
hoạch đầu tư phát biểu trên Thời báo Tài chính Việt Nam, Hiệp định EVFTA được dự báo sẽ
có tác động rất tích cực đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Trong đó, GDP sẽ tăng thêm lũy
tiến 2,5 %; 4,6% và 4,3% tương ứng các năm 2020, 2025 và 2030 (giả định Hiệp định có hiệu
lực từ năm 2020) so với trường hợp khơng có EVFTA.
2.2. Nội dung Hiệp định EVFTA đối với ngành dệt may
Về thuế quan
EU cam kết dành ưu đãi thuế nhập khẩu cho hàng dệt may Việt Nam như sau: i) Xóa
bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực cho các loại ngun phụ liệu dệt
may; ii) Xóa bỏ hồn tồn thuế nhập khẩu cho các sản phẩm dệt may của Việt Nam trong
vòng 7 năm kể từ khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực. Trong đó, 42,5% số dịng thuế đang có
thuế suất cơ sở từ 8-12% cho một số ít loại trong các nhóm sản phẩm may mặc như bộ đồ vest
hoàn chỉnh, đồ ngủ nữ, áo len tr em, đồ bơi, chăn, rèm cửa, túi xách hoặc túi đựng bằng
vải…sẽ được xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực. Các mặt hàng cịn lại
sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu dần trong thời hạn từ 3 đến 7 năm kể từ ngày EVFTA có hiệu lực.
Về phía Việt Nam, mức cam kết thuế quan dành cho sản phẩm dệt may từ EU nhập
khẩu như sau: 37% số dịng thuế sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu ngay khi Hiệp định EVFTA
có hiệu lực (phần lớn là các nguyên phụ liệu dệt may và một số ít các sản phẩm may mặc mà
Việt Nam ít sản xuất). Số cịn lại sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu theo lộ trình từ 3 đến 7 năm.
Về các điều kiện quy tắc xuất xứ mà hàng hóa phải tuân thủ để được hưởng ưu đãi
thuế quan
Hiệp định EVFTA yêu cầu sản phẩm dệt may của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường
EU phải đáp ứng yêu cầu hai công đoạn hay còn gọi là ―từ vải trở đi‖ mới được hưởng ưu đãi
thuế. Cụ thể, trong một sản phẩm dệt may xuất khẩu vào thị trường này không chỉ vải có xuất
xứ từ Việt Nam mà cắt may cũng phải thực hiện từ Việt Nam mới được coi là sản phẩm có
xuất xứ từ Việt Nam.
Tuy vậy, trong Hiệp định EVFTA cũng cho ph p các doanh nghiệp áp dụng nguyên
tắc cộng gộp mở rộng. Theo đó, các nguyên liệu từ các nước đã k FTA với EU và Việt Nam
cũng sẽ được chấp nhận để hưởng ưu đãi thuế. Hiện nay, mới chỉ có Hàn Quốc đáp ứng được
yêu cầu này. Các doanh nghiệp phải tận dụng được nguyên tắc này để giảm bớt áp lực về
nguồn cung thiếu hụt. Hàng dệt may phải sử dụng vải sản xuất tại Việt Nam hoặc sử dụng vải
sản xuất tại Hàn Quốc mới hưởng ưu đãi.
3. Tổng quan về ngành dệt may của Việt Nam
3.1. Vị thế của ngành dệt ma Việt Nam trong nền kinh tế
Ngành dệt may là ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ 2 cả nước
Dệt may là ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam, kim ngạch xuất
khẩu của ngành đóng góp từ 10%-15% GDP hàng năm. Ngành dệt may Việt Nam nằm trong
442
tốp 3 nước xuất khẩu cao nhất thế giới, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ. Về thị trường xuất
khẩu, Mỹ vẫn là thị trường lớn nhất của Việt Nam; tiếp đó là thị trường EU. Theo số liệu của
Tổng cục thống kê, tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may trong giai đoạn 2011-2018 đạt khoảng
140 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng bình quân cho cả giai đoạn đạt 12%. Kim ngạch xuất khẩu dệt
may liên tục tăng qua các năm, nếu năm 2013 kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt mức 18 tỷ USD thì
đến 6 tháng đầu năm 2019 con số này đã lên đến hơn 35 tỷ USD. Tuy nhiên, nếu xét về tốc độ
tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu thì lại có sự biến động rất lớn trong giai đoạn này, giai đoạn
2013-2016 tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu liên tục giảm từ 16,5% ở năm 2013 xuống
mức thấp nhất khoảng 3,5% ở năm 2016, sau đó tốc độ này được cải thiện đáng kể ở giai đoạn
2016-2018, đạt khoảng 20% ở cuối năm 2018. Đặc biệt, năm 2018, ngành dệt may Việt Nam
đánh dấu mốc quan trọng khi kim ngạch xuất khẩu đạt trên 36 tỷ USD, tăng 16,1% so với
năm 2017. Trong đó, xuất khẩu hàng dệt, may đạt 30,49 tỷ USD, tăng 16,7% so với 2017,
xuất khẩu xơ, sợi đạt 4,02 tỷ USD tăng 12%, nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày đạt 1,2 tỷ
USD tăng 14,2% và vải mành, vải kỹ thuật khác đạt 530 triệu USD tăng 15,7% (MOIT,
2019). Theo Báo cáo của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, 6 tháng đầu năm 2019, kinh tế thế giới
có xu hướng tăng chậm lại do những biến động và xung đột chính trị, thương mại, đặc biệt
chính sách bảo hộ, chiến tranh thương mại gia tăng ngày càng phức tạp, khó lường, nhưng
ngành dệt may đạt tổng kim ngạch xuất khẩu gần 18 tỷ USD, tăng 8,61% so với cùng k năm
2018; trong đó, hàng may mặc đạt 14,02 tỷ USD, tăng 8,71%. Mặt hàng vải đạt 1,02 tỷ USD,
tăng 29,9%; các mặt hàng xơ, sợi đạt 2,01 tỷ USD, tăng 1,1%; vải địa kỹ thuật tăng 16,9%;
phụ liệu dệt may giảm 0,29%.
Nguồn: Tổng c c thống kê
Hình 1. Tổng kim ngạch xuất khẩu ngành diệt may Việt Nam (2013-2019)
Ngành dệt may là ngành có số ượng doanh nghiệp lớn và mức độ sử d ng ao động cao
Theo số liệu của Hiệp hội dệt may Việt Nam, tính đến năm 2017, tổng số doanh nghiệp
dệt may cả nước đạt 6.000 doanh nghiệp, trong đó số lượng doanh nghiệp gia cơng hàng may mặc
443
là 5.101 doanh nghiệp (chiếm 85%); Số lượng doanh nghiệp sản xuất vải, nhuộm là 780 doanh
nghiệp (chiếm 13%); Số lượng sản xuất chế biến xơ, sợi là 119 doanh nghiệp (chiếm 2%).
Lực lượng lao động trong ngành có khoảng 1,6 triệu người, chiếm hơn 12 % lao động
khu vực công nghiệp và gần 5% tổng lực lượng lao động cả nước. Tuy nhiên, thu nhập người
lao động trong lĩnh vực dệt may chưa cao, thấp hơn mức trung bình của các ngành kinh tế
(thấp hơn khoảng 1,3 đến 1,8 triệu đồng/người/tháng). Tuy nhiên, nguồn nhân lực cho chuyên
ngành thiết kế thời trang, thiết kế mẫu sản phẩm, thiết kế dây chuyền sản xuất là những công
đoạn mang lại giá trị gia tăng cao cho các sản phẩm Dệt may chưa thật được chú trọng
Ngành dệt may là ngành thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn và chủ yếu kim
ngạch xuất khẩu là từ các doanh nghiệp FDI
Các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực sản xuất hàng dệt may tuy chỉ chiếm khoảng
25% về lượng nhưng đóng góp tới hơn 60% kim ngạch xuất khẩu. Nguyên nhân là do các
doanh nghiệp FDI khơng chỉ có lợi thế về máy móc, cơng nghệ mà cịn có đơn hàng ổn định
từ công ty mẹ chuyển về.
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng xơ sợi của các doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI
liên tục tăng trong khi về lượng xuất khẩu hàng xơ sợi từ các doanh nghiệp Việt Nam gần như
không đổi. Điều này cho thấy tăng trưởng về kim ngạch xuất khẩu hàng xơ sợi đến từ các
doanh nghiệp FDI chứ không phải từ các doanh nghiệp Việt Nam. Ngược lại tỷ trọng kim
ngạch xuất khẩu hàng may mặc từ các doanh nghiệp FDI ln duy trì ở mức 60%. Như vậy,
sau gần 10 năm đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc, kim ngạch xuất khẩu từ các doanh
nghiệp Việt Nam vẫn khơng có nhiều chuyển biến rõ rệt.
Lợi nhuận mà doanh nghiệp Việt Nam được hưởng từ công nghiệp dệt may chưa ớn
Ngành dệt may Việt Nam chủ yếu là thực hiện gia công sản phẩm (CMT, FOB cấp 1)
nên mặc dù giá trị xuất khẩu rất lớn nhưng lợi nhuận mang lại thấp, bởi vì lợi nhuận biên của
hoạt động gia công thấp. Ngành sản xuất hàng may mặc Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị
tồn cầu ở cơng đoạn sản xuất, chủ yếu theo phương thức CMT (65%) và FOB (30%) và
ODM (5%). Đối với phương thức sản xuất CMT, đơn vị sản xuất chỉ thực hiện cắt may, dựng
và hoàn tất, với nguyên vật liệu và thu mua hàng hóa sau sản xuất do bên đặt hàng thực hiện,
do đó, giá trị gia tăng rất thấp. Thông thường đơn giá gia công CMT là 25% giá trị xuất khẩu
và lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp gia công chỉ đạt 1 - 3% đơn giá gia công. Đối với
đơn hàng FOB, các doanh nghiệp chịu trách nhiệm nhập khẩu nguyên vật liệu và sản xuất đơn
hàng, doanh nghiệp được hưởng khoảng 30% giá trị xuất khẩu và lợi nhuận sau thuế đạt
khoảng 3 - 5% doanh thu thuần. Đối với đơn hàng ODM, các doanh nghiệp chịu trách nhiệm
thêm khâu thiết kế so với FOB, lợi nhuận sau thuế đạt khoảng 5 - 7%. Như vậy, xét về quy
mô xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may là rất lớn, nhưng thực chất các doanh
nghiệp Việt Nam chỉ được hưởng lợi rất thấp. Nếu các doanh nghiệp trong ngành có thể thay
đổi phương thức sản xuất theo hướng nâng cao tỷ lệ giá trị gia tăng và được hỗ trợ tích cực
hơn từ phía nhà nước, ngành dệt may Việt Nam sẽ có thể bứt phá và trở thành cường quốc
trong lĩnh vực này.
444
3.2. T nh h nh xuất nhập khẩu dệt ma sang thị trường EU
Tình hình xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang EU
Theo báo cáo của VCCI (2019), dệt may là một trong những ngành xuất khẩu mũi
nhọn của Việt Nam. Riêng năm 2018, kim ngạch xuất khẩu nhóm các sản phẩm dệt may của
Việt Nam đã tăng 13,85% so với năm 2017, lên tới 36,2 tỷ USD, đứng vị trí thứ ba trên thế
giới, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ. Thị trường xuất khẩu chính của dệt may Việt Nam là Hoa
K , EU, Nhật Bản và Hàn Quốc với các sản phẩm may mặc chủ yếu như sản phẩm từ bông và
sợi tổng hợp cho phân khúc thị trường cấp trung và thấp. EU là thị trường xuất khẩu dệt may
lớn thứ 2 của Việt Nam, chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may (sau Hoa K - 47% và
lớn hơn Nhật Bản - 14%) (VCCI, 2017). Xuất khẩu sang thị trường EU đạt 4,1 tỷ USD, tăng
9,9% so với năm 2017, chiếm tỷ trọng 13,44% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc của
cả nước. Hình 2 cho thấy kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may sang thị trường EU liên tục
tăng qua các năm, từ 2,73 tỷ USD năm 2013 lên 4,1 tỷ USD năm 2018, và ở 9 tháng đầu năm
2019 đạt 3,22 tỷ USD. Tổng kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may trong giai đoạn này đạt 24,1
tỷ USD, tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 10%/năm.
Đơn vị: Tỷ USD
14
12
10
8
6
4
2
0
2013
2014
2015
2016
EU
2017
2018
2019
Hoa K
Nguồn: Tổng c c Hải quan
Hình 2. Kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may cho thị trường Hoa Kỳ và EU (2013-2019)
Đặc biệt, trong ngành dệt may thì EU là thị trường xuất khẩu giày dép quan trọng của
Việt Nam: Trong nhiều năm, EU luôn là thị trường xuất khẩu giày dép lớn nhất của Việt Nam
(chiếm khoảng 38% tổng kim ngạch xuất khẩu); năm 2016, với mức tăng trưởng thấp
(3,51%), EU thành thị trường đứng thứ 2, sau Hoa K . Việt Nam liên tục xuất siêu vào EU,
với kim ngạch xuất khẩu tăng liên tục.
445
Tình hình nhập khẩu dệt may của Việt Nam từ EU
Một số mặt hàng Việt Nam nhập khẩu chính từ EU trong đó có mặt hàng liên quan
đến dệt may đó là nhập khẩu nguyên phụ liệu, dệt, may, da, giày. Năm 2019, nguyên phụ liệu,
dệt, may, da, giày Việt nam nhập khẩu chính từ EU năm 2019 là 402,2 triệu USD, giảm
2,58% so với 2018.
Bảng 1. im ngạch nhập khẩu dệt ma Việt Nam từ EU giai đoạn 2017 – 2019
Đơn vị: triệu USD
Nguyên phụ liệu Dệt
may da giày
2017
2018
2019
312,6
412,8
402,2
Nguồn: Tổng C c Hải quan
Việt Nam ít nhập khẩu các sản phẩm dệt may từ EU (trừ một số dòng sản phẩm cao
cấp), vì vậy cơ bản các cam kết loại bỏ thuế đối với sản phẩm này sẽ ít có tác động tới cạnh
tranh của doanh nghiệp trên thị trường nội địa.
4. Cơ hội và thách thức từ Hiệp định EVFTA đối với ngành dệt may Việt Nam
4.1. Cơ hội đối với ngành dệt ma
EU là thị trường đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng dệt may và là thị trường xuất
khẩu lớn thứ hai của dệt may Việt Nam, do đó dựa trên những lợi ích mà EVFTA mang lại, có
thể thấy EVFTA sẽ mở ra những cơ hội lớn cho ngành dệt may của Việt Nam. Cụ thể:
Thứ nhất, ngành dệt may được hưởng ợi nhiều nhất thông qua việc ưu đãi thuế: Thuế
quan với tất cả hàng dệt may sẽ được đưa về 0%, trong đó, 77% các mặt hàng về 0% ngay khi
Hiệp định có hiệu lực và phần cịn lại sẽ giảm về 0% sau 3 - 7 năm. Việc giảm thuế này sẽ
mang đến chất xúc tác lớn cho các DN dệt may xuất khẩu sang thị trường EU. Ưu đãi này
giúp hàng dệt may Việt Nam cạnh tranh hơn với các sản phẩm từ Bangladesh và Campuchia
hiện được hưởng thuế ưu đãi phổ cập (GSP - ưu đãi mà EU đơn phương dành cho cho các sản
phẩm chưa có năng lực cạnh tranh tốt từ các nước đang/k m phát triển nhất định theo các tiêu
chí mà EU quyết định) 0%. Trong ngắn hạn, khả năng cạnh tranh của dệt may Việt Nam tại
thị trường EU có thể được cải thiện nhờ những yếu tố ngồi hiệp định. Ví dụ như Campuchia
bị đưa ra khỏi diện hưởng thuế ưu đãi GSP do không đảm bảo được các vấn đề nhân quyền và
lợi ích của lao động, và lương ở Bangladesh tăng mạnh.
Thứ hai, cơ hội mở rộng, nắm bắt thị trường, đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hóa sang
thị trường EU: Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt từ phía các doanh nghiệp trong nước và
thương hiệu nổi tiếng nước ngoài, hiệp định EVFTA đối với ngành dệt may trong dài hạn sẽ
là một cú hích đối với các doanh nghiệp có tỷ trọng xuất khẩu lớn qua EU. Dệt may là một
trong những nhóm ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang EU trong thời gian vừa
qua. Khi EVFTA được ký kết, thuế nhập khẩu áp dụng cho các hàng hóa này từ Việt Nam vào
EU sẽ giảm, đây chính là những thuận lợi giúp cho hàng hóa Việt Nam tiếp cận được với thị
trường này dễ dàng hơn, tranh thủ vượt qua Trung Quốc – nước xuất khẩu lớn nhất sang thị
trường EU. Các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam có cơ hội bước chân vào thị trường
446