Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

c điểm ĐTPT - nhóm 1 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (317.29 KB, 54 trang )

1
ĐỀ TÀI: ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
VÀ SỰ QUÁN TRIỆT CÁC ĐẶC ĐIỂM NÀY TRONG
CÔNG TÁC CHUẨN BỊ, THỰC HIỆN VÀ VẬN HÀNH
KẾT QUẢ ĐẦU TƯ
Giảng viên hướng dẫn TS: Từ Quang Phương
Lớp KTĐT 50C
Nhóm 1
Sinh Viên
Phạm Hồng Dương
Trịnh Hoàng Vũ
Nguyễn Minh Khiêm
Trần Văn Hưng
Nguyễn Xuân Đông
LỜI MỞ ĐẦU
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
2
Từ khi thực hiện theo cơ chế thị trường đến nay, kinh tế Việt Nam đã
dần hòa nhập với nền kinh tế thế giới, với những bước phát triển và thành tựu
vượt bậc như: Tốc độ tăng trưởng nhanh, đời sống nhân dân ngày càng được
cải thiện, đất nước đã thoát khỏi tình trạng nghèo đói, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa từng bước được đẩy mạnh. Và đặc biệt sau những nỗ lực không biết
mệt mỏi sự kiện Việt Nam gia nhập WTO chính là minh chứng cho thấy hình
ảnh nền kinh tế Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế đang thay đổi, đó là hình
ảnh một nền kinh tế năng động, trẻ trung, thân thiện và tiềm năng . Những lý
luận về kinh tế cũng như thực tiễn của 25 năm đổi mới đều chỉ ra rằng đầu tư
phát triển chính là yếu tố hạt nhân trong chiến lược phát triển nền kinh tế
quốc dân. Chính vì vai trò vô cùng to lớn của đầu tư phát triển nên vấn đề đặt
ra là phải nghiên cứu kĩ lượng những đặc điểm của nó và từ đó hoạch định
những phương hướng, quán triệt từng đặc điểm trong công tác quản lý đầu tư
cho phù hợp .


Đề tài “Đặc điểm của đầu tư phát triển và sự quán triệt các đặc điểm
đó vào công tác quản lý đầu tư” tập trung làm rõ các đặc điểm của đầu tư
phát triển và làm rõ yêu cầu đối với việc quán triệt các đặc điểm này trong
công tác chuẩn bị, thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư . Qua đó liên hệ
với thực tiễn Việt Nam đánh giá tình hình quán triệt các đặc điểm của đầu tư
phát triển trong công tác hoạt động đầu tư giai đoạn từ năm 2000 đến nay .
Nhóm xin chân thành cảm ơn thầy PGS. TS Từ Quang Phương đã tận
tình hướng dẫn , uốn nắn giúp chúng em hoàn thành đề tài này.
Trong quá trình thực hiện mặc dù cả tập thể nhóm đã cố gắng làm việc
chăm chỉ và nghiêm túc, tuy nhiên do khả năng kiến thức cũng như năng lực
còn hạn chế chắc chắn trong bài viết vẫn còn tồn tại những khuyết điểm sai
sót . Vì vậy rất mong ý kiến đóng góp bổ sung của bạn đọc để đề tài ngày
càng được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
1. Khái niệm, phân loại đầu tư
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
3
1.1. Khái niệm đầu tư :
Đầu tư là một khái niệm trừu tượng, bởi xét theo từng phương diện khác
nhau và góc độ tiếp cận khác nhau của người nghiên cứu lại có những quan
điểm khác nhau về đầu tư , ta có thể xem xét như :
- Đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào hoạt động nào đó nhằm thu
về mục đích và mục tiêu cho chủ đầu tư trong tương lai.
- Trên phương diện tài chính: Đầu tư là một chuỗi hoạt động chi tiêu để chủ đầu
tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời.
- Trên góc độ tiêu dùng, đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng hiện tại để thu về
mức tiêu dùng cao hơn trong tương lai.
- Theo quan điểm kế toán: Khái niệm đầu tư gắn liền với việc phân bổ các khoản
vốn đã bỏ ra vào các mục chi cố định, trong một thời gian nhất định, phục
vụ cho công tác quản lý các kết quả đầu tư. Thực chất đây là sự ghi chép,

hạch toán kết quả đầu tư.
Các quan điểm trên xét theo mỗi phương diện riêng đều không sai và
phù hợp với góc độ tiếp cận của người nghiên cứu . Tuy nhiên Đầu tư là
một khái niệm hết sức quan trọng đối với công tác nghiên cứu kinh tế nên
đòi hỏi phải có một cái nhìn bao quát hơn, toàn diện hơn . Đầu tư nói chung
là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó
nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã
bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của các công cuộc đầu
tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà
người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Nguồn lực phải hy sinh đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là
sức lao động và trí tuệ.
Những kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền
vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện, trường học,nhà
cửa…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, quản lý, khoa học kỹ
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
4
thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động
cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Tóm lại : đầu tư là việc chi dùng vốn và các nguồn lực khác trong hiện
tại nhằm thu về một kết quả lớn hơn nguồn lực đã chi ra để đạt kết quả đó,
duy trì và tạo thêm những tài sản mới, năng lực mới cho nền kinh tế và cho
chủ đầu tư trong tương lai.
1.2. Phân loại đầu tư
Phần trên, ta đã thấy có rất nhiều cách tiếp cận với hoạt động đầu tư. Vì
thế, cũng có rất nhiều cách để phân loại hoạt động đầu tư. Trên quan điểm
mục đích và tính chất của hoạt động đầu tư, ta có:
- Đầu tư tài chính : . Đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư
trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá
trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn để hưởng lãi xuất định trước (gửi tiết

kiệm, mua trái phiếu chính phủ) hoặc lợi nhuận tuỳ thuộc vào kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty phát hànhn (mua cổ phiếu…). Đầu tư
tài sản tài chính là loại đầu tư không trực tiếp là tăng tài sản thực (tài sản vật
chất) cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực
này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính cho chủ đầu tư. Mua cổ phiếu
(đầu tư cổ phiếu) gắn với việc chuyển quyền sở hữu và hoạt động cho vay
dẫn đến chuyển quyền sử dụng, do vậy, hai loại đầu tư này đều thuộc hoạt
động đầu tư dịch chuyển. Đầu tư tài chính thường được thực hiện gián tiếp
thông qua các trung gian tài chính như ngân hàng, công ty chứng khoán.
Đầu tư tài chính còn có đặc điểm là: Chủ đầu tư thường có kỳ vọng thu
được lợi nhuận cao khi đầu tư nhưng thực tế lợi nhuận thu được có thể tăng
giảm không theo ý muốn. Tuy nhiên, trong đầu tư tài chính vốn đầu tư bỏ ra
được lưu chuyển dễ dàng và khi cần thiết vẫn có thể rút ra nhanh chóng cho
nên rất thu hút được các nhà đầu tư vì vậy đầu tư tài chính là kênh huy động
vốn rất quan trọng cho hoạt động đầu tư phát triển và là một trong những
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
5
loại hình đầu tư lựa chọn để tối đa hoá lợi ích, giảm thiểu rủi ro cho các chủ
đầu tư .
- Đầu tư thương mại Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền
bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi
nhuận do chênh lệch giá khi mua và gía khi bán. Cũng giống như đầu tư tài
chính, đầu tư thương mại cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế
(nếu không xét đến ngoại thương ) , mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của
người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng
hoá giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của
họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông,
phân phối hàng hoá do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát
triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất kinh
doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.

- Đầu tư phát triển : là loại hình đầu tư quan trọng nhất của nền kinh tế. Về
cơ bản, nó chính là nguồn đem lại tài sản cho nền kinh tế. Chính vì tầm
quan trọng của nó nên chúng ta sẽ xem xét một cách kỹ càng hơn vấn đề
đầu tư phát triển trong các mục tiếp theo đây.
2. Đầu tư phát triển
2.1. Khái niệm đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn
hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra những tài
sản vật chất (nhà xưởng, máy móc thiết bị ) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ
năng), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm vì mục tiêu phát triển .
Đầu tư phát triển hoàn toàn khác về mặt bản chất so với đầu tư tài chính
và đầu tư thương mại.Loại đầu tư đem lại kết quả không chỉ người đầu tư
mà cả nền kinh tế xã hội được thụ hưởng trên đây, không chỉ trực tiếp làm
tăng tài sản của người chủ đầu tư mà của cả nền kinh tế chính là đầu tư phát
triển . Còn các loại đầu tư chỉ trực tiếp làm tăng tài sản chính của người đầu
tư, tác động gián tiếp đến làm tăng tài sản của nền kinh tế thông qua sự đóng
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
6
góp tài chính tích luỹ của các hoạt động đầu tư này cho đầu tư phát triển,
cung cấp vốn cho hoạt động đầu tư phát triển và thúc đẩy quá trình lưu thong
phân phối các sản phẩm do các kết quả của đầu tư phát triển tạo ra, đó là đầu
tư tài chính và đầu tư thương mại.
Đầu tư phát triển, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại là ba loại đầu tư
luôn tồn tại và có quan hệ tương hỗ với nhau. Đầu tư phát triển tạo tiền đề
tăng tích luỹ, phát triển hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư thương mại.
Ngược lại, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại hỗ trợ và tạo điều kiện để
tăng cường đầu tư phát triển.
Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ
vốn thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Trên quan điểm
phân công lao động xã hội, có hai nhóm đối tượng đầu tư chính là đầu tư

theo ngành và đầu tư theo lãnh thổ. Trên góc độ tính chất và mục đích đầu
tư, đối tượng đầu tư chia làm hai nhóm chính: công trình vì mục tiêu lợi
nhuận và công trình phi lợi nhuận. Trên góc độ xem xét mức độ quan trọng,
đối tượng đầu tư chia thành: loại được khuyến khích đầu tư, loại không
được khuyến khích đầu tư và loại cấm đầu tư. Từ góc độ tài sản, đối tượng
đầu tư chia thành: những tài sản vật chất (tài sản thực) và tài sản vô hình.
Tài sản vật chất, ở đây, là những tài sản cố định được sử dụng cho sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế và tài sản lưu động. Tài sản vô
hình như phát minh sáng chế, uy tín, thương hiệu…
Đầu tư phát triển đòi hỏi rất nhiều nguồn lực lớn. Hiểu theo nghĩa hẹp,
nguồn lực của nó là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nó là sự phối hợp các nguồn
lực: tiền vốn, lao động tài nguyên, công nghệ Việc đánh giá một dự án
đầu tư nhất thiết phải tính đến các yếu tố trên.
Các hoạt động của đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư xây dựng sửa chữa
kết cấu hạ tầng cơ sở (cầu đường, nhà cửa ); đầu tư để đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực (đầu tư cho giáo dục các cấp, đầu tư cho khoa học công
nghệ, mở các trường học dạy nghề) nâng cao trình độ hiểu biết cho nhân
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
7
dân, trình độ tay nghề cho công nhân; xây dựng các nhà máy sản xuất tạo
thêm công ăn việc làm
Kết quả của hoạt động đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật
chất (nhà xưởng, thiết bị ), sự gia tăng về tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa,
chuyên môn, khoa học kỹ thuật ). Về mặt bản chất, nó chính là sự gia tăng
năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
Hiệu quả của đầu tư phát triển được thể hiện trong mối quan hệ giữa kết
quả kinh tế - xã hội và chi phí bỏ ra của dự án. Hiệu quả này cần xem xét
trên phương diện lợi ích của chủ đầu tư và lợi ích mang lại cho xã hội. Một
phương án đầu tư thành công, nó phải đảm bảo được tính sáng tạo của chủ
đầu tư (tư nhân, Nhà nước ), đem lại lợi nhuận cho chủ đầu tư và về mặt

xã hội phải góp phần năng cao chất lượng cuộc sống (môi trường, y tế, giáo
dục ).
Đầu tư phát triển thường được thực hiện bởi một chủ đầu tư nhất định.
Xác định rõ chủ đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong quá trình quản lý đầu tư
nói chung và vốn đầu tư nói riêng. Chủ đầu tư là người sở hữu vốn hoặc
được giao quản lý, sử dụng vốn đầu tư .
Ví dụ về đầu tư phát triển : Một nhà máy sản xuất công nghiệp được xây
dựng thì tài sản vật chất của người đầu tư trực tiếp tăng thêm, đồng thời tài
sản vật chất, tiềm lực sản xuất của nền kinh tế cũng được tăng thêm. Lợi ích
trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này đem lại cho người đầu tư là lợi
nhuận, còn cho nền kinh tế là thoả mãn nhu cầu tiêu dung (cho sản xuất và
cho sinh hoạt) tăng thêm của nền kinh tế, đóng góp cho ngân sách, giải
quyết việc làm cho người lao động . Qua đó trình độ nghề nghiệp, chuyên
môn của người lao động tăng thêm không chỉ có lợi cho chính họ (để có thu
nhập cao, địa vị cao trong xã hội) mà còn bổ sung nguồn lực có kỹ thuật cho
nền kinh tế để có thể tiếp nhận công nghệ ngày càng hiện đại, góp phần
nâng cao dần trình độ công nghệ và kỹ thuật cho nền sản xuất quốc gia.
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
8
Mục đích của đầu tư phát triển phải vì sự phát triển của một quốc gia, vì
lợi ích của cộng đồng và cũng vì chủ đầu tư. Đó là tăng trưởng kinh tế, nâng
cao chất lượng cuộc sống, tối thiểu hóa chi phí và tối đa hóa lợi nhuận đối
với doanh nghiệp.
2.2. Vai trò của đầu tư phát triển
- ĐTPT vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu.
• ĐTPT tác động đến tổng cầu : Đầu tư là một yếu tố chiếm tỉ trọng lớn
trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng Thế
giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24_28%trong cơ cấu tổng cầu của tất
cả các nước trên thế giới. Sự tăng lên của đầu tư kéo theo tổng cầu tăng
lên.

• ĐTPT tác động đến tổng cung : khi thành quả của đầu tư phát huy tác
dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng
cung dài hạn tăng lên , kéo theo sản lượng tiềm năng tăng . Sản lượng
tăng dẫn đến giá cả giảm xuống, như vậy lại dẫn đến kích thích tiêu
dùng tăng .Tiêu dùng tăng chính là động lực cho sản xuất vì vậy tổng
cung tăng.
- ĐTPT làm chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế :
• ĐTPT tác động đến sự chuyển dịch nền kinh tế của mỗi quốc gia để đạt
tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế .
• Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về
phát triển giữa các vùng lãng thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát
khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài
nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị…của những vùng có khả năng phát
triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
- ĐTPT tác động làm tăng năng lực khoa học nền kinh tế đất nước : công
nghệ là nhân tố trung tâm của sự nghiệp công nghiệp hóa ,hiện đại hóa đất
nước , và ĐTPT chính là điều kiện tiên quyết để phát triển và tăng cường
công nghệ ở nước ta. Có 2 con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
9
cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là sự
nghiên cứu hay nhập nó thì cũng cần phải có vốn đầu tư . Mọi phương án
đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án
không khả thi.Tuy nhiên theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ thì
công nghệ ở Việt Nam còn rất lạc hậu thua xa công nghệ của thế giới,
nguyên nhân phần lớn là do chúng ta không có đủ nguồn lực để phát triển
về công nghệ, điều này chỉ có thể khắc phục từng bước trong từng lĩnh vực
công nghệ như đầu tư chuyển giao công nghệ tiên tiến của các nước , đồng
thời nêu cao tinh thần học hỏi sáng tạo, chú trọng đào tạo đội ngũ khoa học
công nghệ để dần bắt kịp với thế giới .

- ĐTPT tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế : Muốn giữ tốc
độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt từ15- 20% so với
GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước: Ở các nước phát triển, ICOR
thường lớn từ 5- 7. ở các nước chậm phát triển ICOR thấp từ2- 3. Đối với
các nước đang phát triển, phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo
các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỉ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân
dự kiến. Có sự khác nhau trên là vì chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ
cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành các vùng lãnh thổ cũng như
phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường
ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn
chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực. Do đó ở các nước phát
triển, tỷ lệ đầu tư thấp thường đãn đến tốc độ tăng trưởng thấp.
2.3. Đặc điểm của đầu tư phát triển
- Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển
thường rất lớn :
• Vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền toàn bộ những chi phí đã chi ra
để tạo năng lực sản xuất (tăng thêm tài sản cố định và tài sản lưu động) và
các hoạt động đầu tư khác. Vốn đầu tư nằm khê đọng lâu trong suốt quá
trình thực hiện đầu tư. Quy mô vốn đầu tư lớn đòi hỏi phải có giải pháp tạo
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
10
vốn và huy động vốn hợp lý, xây dựng các chính sách, quy hoạch, kế hoạch
đầu tư đúng đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến độ
đầu tư, thực hiện đầu tư trọng tâm trọng điểm .
• Vật tư và lao động là những nguồn lực cần thiết và quan trọng nhất quyết
định sự thành công hay thất bại của hoạt động đầu tư . Lao động cần sử
dụng cho các dự án ĐTPT rất lớn, đặc biệt đối với các dự án trọng điểm
quốc gia. Do đó, công tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng và đãi ngộ cần tuân
thủ một kế hoạch định trước, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng loại
nhân lực theo tiến độ đầu tư, đồng thời, hạn chế đến mức thấp nhất những

ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự án” tạo ra như việc bố trí lao động,
giải quyết lao động đang thiếu việc làm .
- Thời kì đầu tư thường kéo dài : Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực
hiện dự án cho đến khi hoàn thành và thực hiện dự án. Trong đặc điểm trên,
ta thấy rằng những dự án đầu tư phát triển thường có quy mô rất lớn. Nhiều
dự án đầu tư phát triển có thể kéo dài đến hàng chục năm do vốn nằm khê
đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư nên để nâng cao hiệu quả vốn
đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung
hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý chặt chẽ tiến độ kế
hoạch đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng
cơ bản. Quá trình chuẩn bị, thực hiện đầu tư cần có một khoản thời gian
nhất định .
- Thời gian vận hành các kết quả đầu tư thường kéo dài : Thời gian vận hành
các kết quả đầu tư được tính từ khi công trình đưa vào hoạt động cho đến
khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình. Đây là một đặc điểm rất
riêng của đầu tư phát triển. Thứ nhất, những sản phẩm của đầu tư phát triển
đều là bộ phận của nền sản xuất. Nó tạo ra của cải vật chất cho xã hội, tạo
đà tăng trưởng cho nền kinh tế, nên thời gian sử dụng dài. Thứ hai, quy mô
của các công trình rất lớn, nên cần có một khoảng thời gian tương đối để thu
hồi vốn và có lợi nhuận .
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
11
- Các thành quả của hoạt động ĐTPT là các công trình xây dựng thường phát
huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do đó, quá trình thực
hiện ĐT cũng như thời kỳ vận hành các kết quả ĐT chịu ảnh hưởng lớn của
các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng.
- Đầu tư là một loại hình hoạt động kinh tế gắn liền với các yếu tố rủi ro :
Đầu tư nói chung và đầu tư phát triển nói riêng mang một đặc điểm quan
trọng: độ rủi ro cao. Nguồn lực cần cho đầu tư phát triển là rất lớn , thời
gian đầu tư lại kéo dài khiến rủi ro càng tăng cao.

3. Sự quán triệt các đặc điểm của đầu tư phát triển trong công tác chuẩn
bị, thực hiện và vận hành kết quả đầu tư.
3.1. Sự quán triệt do đặc điểm quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho
hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn
- Sự quán triệt xuất phát từ đặc điểm vốn cho ĐTPT thường lớn :
• Cần phải huy động vốn hiệu quả :Sử dụng đa dạng và tân dụng tối đa
việc tạo vốn từ các kênh huy động vốn khác nhau như việc phát hành trái
phiếu, cổ phiếu của DN các thành phần kinh tế, nhất là các DNNN cổ
phần hóa với việc phát triển thị trường chứng khoán, đồng thời phải chú
trọng tính hiệu quả an toàn và tác động tích cực của thị trường đến các
chỉ tiêu kinh tế vĩ mô. Và luôn luôn phải thực hiện theo phương châm “
vốn trong nước là quyết định , vốn nước ngoài là quan trọng “
 Đối với vốn trong nước ta tạo điều kiện huy động vốn hợp lý bằng cơ
chế lãi suất và những chính sách khuyến khích cổ phần hóa làm tăng
nguồn vốn cho đầu tư phát triển, thực hiện đầu tư có trọng điểm,quản
lý vốn đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả của nguổn vốn sử dụng.
 Đối với những nguồn vốn nước ngoài ta nên thực hiện chủ trương
mở cửa,giảm các thủ tục rườm rà,tạo môi trường đầu tư hấp dẫn cho
các nhà đầu tư. điều chỉnh quy hoạch ngành, nhằm dỡ bỏ các hạn chế
đối với nhà đầu tư nước ngoài, phù hợp với các cam kết quốc tế song
phương và đa phương; ban hành các quy hoạch ngành còn thiếu như
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
12
quy hoạch mạng lưới các trường đại học, dạy nghề cùng các điều
kiện, tiêu chuẩn cấp phép cho các dự án thuộc lĩnh vực này; đồng
thời tăng cường đầu tư nâng cấp các công trình cơ sở hạ tầng, rà soát
các dự án đã được cấp phép .
• Sử dụng vốn hiệu quả : Để đảm bảo tiến độ thực hiện đầu tư của dự án
,vừa để tránh ứ đọng vốn nên các nguồn tài trợ không chỉ xem xét về mặt
số lượng mà về cả thời điểm nhận được tài trợ. Các nguồn vốn dự kiến

này phải đảm bảo chắc chắn. Sự đảm bảo này thể hiện ở tính pháp lí và
cơ sở thực tế của các nguồn vốn huy động. Những nguồn vốn sau khi dc
huy động ta phải quản lý chặt chẽ,tránh thất thoát nguồn vốn cũng như
sử dụng nguồn vốn không hiệu quả . Cần thiết tiết kiệm vốn, hạn chế
tiêu cực tham nhũng, bòn rút ruột công trình , chống lãng phí thất thoát.
Chính phủ, bộ, ngành các cấp đã có văn bản quy định cụ thể đặc biệt chi
tiết quy chế đấu thầu trong các khâu : tư vấn, mua sắm tài sản thiết bị
xây dựng lắp đặt.
- Sự quán triệt xuất phát từ đặc điểm lao động và vật tư cho ĐTPT thường
lớn : Với quy mô của các dự án lớn nên ĐTPT rất cần số lượng lớn về lao
động đặc biệt là công nhân kĩ thuật ,những lao động có kiến thức về kĩ
năng quản lí ,những sinh viên tốt nghiệp đại học,cao đẳng. Xuất phát từ
thực tế đó đòi hỏi phải có kế hoạch sử dụng lao động phù hợp với năng lực
của họ , đồng thời nhà quản lý phải có chính sách đào tạo cũng như tuyển
dụng ,sử dụng và đãi ngộ lao động hợp lý . Hiện nay nhu cầu về những lao
động này của tất cả các nước trên thế giới nói chung và nước ta nói riêng là
rất lớn nhưng khả năng đáp ứng là chưa đủ,lượng lao động trong nước chủ
yếu là nông dân và lao động trình độ thấp. Hiện tượng “thiếu về lượng,yếu
về chất” đang là thực tế ở nước ta.Vấn đề trước mắt là đào tạo nguồn nhân
lực,giải quyết tình trạng “thừa thầy thiếu thợ”.Đối với trường ĐH, cần củng
cố chất lượng đào tạo, đội ngũ giảng viên; trường có chương trình đào tạo
chất lượng cao theo nhu cầu doanh nghiệp đã được ký kết có thể đề xuất
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
13
ngay mức học phí mới. Đối với doanh nghiệp, cần có thông tin về nhu cầu
nhân lực của mình, hỗ trợ tài chính và tham gia vào quá trình đào tạo, xây
dựng chương trình, cho sinh viên thực tập.Bên cạnh đó cần phải chú trọng
hơn trong việc sử dụng nguồn nhân lực,nhiều sinh viên ra trường không có
việc làm ngay,những công nhân sau dự án thường nhàn rỗi.Việc đãi ngộ
công nhân viên chức cũng như đội ngũ giáo viên cũng là một việc hết sức

quan trọng để cho việc đào tạo diễn ra một cách hiệu quả. Đồng thời phải
nghiên cứu tìm hiểu kĩ lưỡng thị trường vật tư để có những phương án kịp
thời ,thích ứng với tình hình thay đổi của thị trường .
3.2. Sự quán triệt do đặc điểm thời kì đầu tư thường kéo dài : Cần phân kì đầu
tư , tập trung vốn và nguồn lực để hoàn thành dứt điểm từng hạng mục
công trình theo đúng tiến độ.
Quá trình thực hiện đầu tư gồm: hoàn tất thủ tục để triển khai thực
hiện đầu tư, thiết kế và lập dự toán thi công xây lắp công trình, thi
công xây lắp công trình, chạy thử và nghiệm thu sử dụng.Trong giai
đoạn thực hiện đầu tư vấn đề thời gian là quan trọng hơn cả, 90 – 98%
tổng vốn đầu tư được chia ra và huy động trong suốt những năm thực
hiện đầu tư. Đây là những năm vốn không sinh lời, thời gian thực hiện
đầu tư cũng kéo dài, vốn khê động càng nhiều tổn thất càng lớn, hơn
nữa, nó còn ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bởi dự án quy mô lớn không thể tiến hành trong thời gian ngắn
, cũng
như gián đoạn không tránh khỏi với một số nguyện nhân về vốn, thời tiết,
nhân lực, thủ tục giấy tờ, giải phóng mặt bằng …Cũng như sự thay đổi giá
cả kéo theo ảnh hưởng đến vận tải, giá cả hàng hóa khác,nguyên liệu đầu
vào…Hàng loạt dự án bị ngưng trệ chỉ vì giá nhựa đường tăng, giá sắt thép
lên cao, cả nhà thầu và chủ đầu tư đều phải chờ hướng xử lý. Bên cạnh đó,
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
14
do yếu tố kinh tế, xã hội, thời tiết thường xuyên thay đổi nên nhiều công
trình tụt hậu lỗi thời, do kéo dài nhiều năm triển khai khi sử dụng vật liệu
hư hỏng như : sắt thép bị gỉ, mục nát, quá hạn sử dụng …
Thời gian thực hiện đầu tư phụ thuộc nhiều vào công tác chuẩn bị
đầu tư và quản lý quá trình thực hiện những hoạt động khác có liên
quan trực tiếp đến các kết quả của quá trình thực hiện đầu tư đã được
xem xét trong dự án đầu tư. Như vậy yêu cầu quán triệt đặc điểm này

của đầu tư phát triển là : phân kì đầu tư ,tập trung nguồn vốn nguồn
lực để hoàn thành dứt điểm từng hạng mục công trình theo đúng tiến
độ. Thực hiện đúng điều này làm rút ngắn thời gian đầu tư .Thời gian
hoàn thành dự án càng ngắn thì chi phí và rủi ro càng ít. Hoạt động
đầu tư luôn luôn gắn liền với yếu tố rủi ro, điều quan trọng là nhận
biết và khắc phục được chúng trong quá trình thực hiện đầu tư. Kéo
dài thời gian thực hiện là kéo thêm một khoản chi phí ( chi phí vốn,
chi phí nguyên vật liệu, chi phí trả lương công nhân, chi phí tăng do
lạm phát ), tăng thêm những rủi ro, bất trắc, mất đi cơ hội cạnh
tranh trên thị trường, hiệu quả đầu tư vì thế cũng giảm sút.Bên cạnh
đó cần quản lý chặt chẽ việc sử dụng nguyên vật liệu, tránh lãng phí,
nâng cao hiệu suất sử dụng. Mặt khác cũng cần có sự đầu tư về mặt
công nghệ, lắp đặt các dây chuyền thiết bị hiện đại, phù hợp với trình
độ quản lý và sử dụng giúp cho chủ đầu tư nâng cao được chất lượng
sản phẩm, mặt khác lại tiết kiệm được đáng kể chi phí về vận hành, về
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
15
nhân công, nguyên vật liệu và năng lượng, góp phần nâng cao hiệu
quả trong thực hiện đầu tư .
3.3. Sự quán triệt do đặc điểm thời gian vận hành các kết quả đầu tư thường
kéo dài : Đây là giai đoạn quyết định tới việc dự án có thực hiện được các
mục tiêu đề ra hay không,là quá trình thu hồi vốn,hiệu quả việc khai thác
các nguồn lực được biểu hiện rõ nhất.Giai đoạn này kéo dài thường là vài
năm,thậm chí vài chục năm hoặc lâu hơn do dó chịu tác động của rất nhiều
yếu tố chủ quan lẫn khách quan.Vì vậy yêu cầu đặt ra đó là:
- Xây dựng phương pháp khoa học để dự đoán sự thay đổi của thị trường và
tác động của nó lên các công trình đầu tư qua từng năm và trong suốt vòng
đời của dự án . Đối với mọi dự án thì điểm mấu chốt đó là sản phẩm của dự
án phải được chấp nhận trên thị trường,sản phẩm có tiêu thụ được thì dự án
mới có thể thu hồi vốn và sinh lời.vì vậy công tác dự báo là vô cùng quan

trọng,công việc này phải được thực hiện nghiêm túc và tỉ mỉ ngay từ khi lập
báo cáo nghiên cứu khả thi, đồng thời cũng phải được thực hiện thường
xuyên trong quá trình vận hành dự án vì nhu cầu của thị trường thường
xuyên có sự thay đổi.Sau khi tiến hành dự báo cầu về sản phẩm,phải tiến
hành dự báo tới khả năng cung ứng của dự án từ đó mới có các quyết định
thu hẹp hay mở rộng sản xuất cho phù hợp.Việc phân tích ,đánh giá tiềm
năng và quy mô của dự án cần dựa trên cơ sở phân tích các tác động của
môi trường vĩ mô như pháp luật,chính sách,kinh tế,văn hóa xã hội… ảnh
hưởng tới triển vọng ra đời của dự án và quá trình vận hành kết quả đầu
tư.Do đó dự báo nhu cầu thị trường về sản phẩm của dự án và khả năng
cung ứng của dự án cần dựa trên các dự báo vĩ mô về nền kinh tế như tốc độ
tăng trưởng, tỉ lệ lạm phát,lãi suất…
- Quản lý tốt quá trình vận hành các kết quả đầu tư nhăm thu hồi được vốn
nhanh chóng nhất , giảm thấp nhất hao mòn vô hình .Quản lý công tác đầu
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
16
tư lại phục thuộc vào công tác quản trị của dự án ,muốn quản lý tốt thì công
tác quản trị phải đạt được những yêu cầu sau :
• Đề ra mục tiêu phù hợp và có kế hoạch hợp lý để thực hiện đươc mục tiêu
đã đề ra .
• Có sự thống nhất cao từ lãnh đạo đến nhân viên , làm việc trên nguyên tắc
quyền hạn đi đôi với trách nhiệm ,hợp tác nhằm thực hiện mục tiêu chung .
• Cần tiến hành bảo hành công trình, người cung cấp vật liệu xây dựng phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật về chất lượng sản phẩm, tiến hành tu sửa
ngay khi có sự cố . Có nhiều công trình đầu tư phát triển mà thời gian vận
hành có thể lên đến hàng chục hoặc hàng trăm năm, các yếu tố thời gian
cùng điều kiện tự nhiên có thể gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng công trình
, đặc biệt là những công trình có ảnh hưởng lớn đến tài sản tính mạng của
nhân dân vì vậy cần phải thường xuyên tiến hành theo dõi và bảo trì hư hại
theo định kỳ, đảm bảo dự án luôn vận hành tốt trong suốt vòng đời của nó .

3.4. Sự quán triệt do đặc điểm các thành quả của hoạt động ĐTPT là các công
trình xây dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng
nên, do đó, quá trình thực hiện ĐT cũng như thời kỳ vận hành các kết quả
ĐT chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng :
phải nghiên cứu kĩ và khoa học về không gian , các yếu tố địa lý để lựa
chọn địa điểm đầu tư phù hợp. Mỗi dự án ĐTPT có tính chất và quy mô
khác nhau, do đó đặc điểm của các dự án là khác nhau. Việc lựa chọn địa
điểm cho dự án đầu tư là yếu tố hết sức quan trọng , có thể quyết định đến
thành công của dự án . Việc lựa chọn địa điểm đầu tư phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố, có ảnh hưởng lớn đến quá trình sản xuất sau này, khi mà dự
án đi vào vận hành. Để lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lý cần chú ý các điểm
sau:
- Địa điểm đặt dự án phải thuận lợi cho việc hợp tác với các cơ sở sản xuất
trong vùng (như giao thông vận tải), đồng thời đảm bảo được lợi thế cạnh
tranh với các doanh nghiệp khác.
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
17
- Phải có tầm nhìn vĩ mô xem xét trong suốt vòng đời của dự án trong tương
lai địa điểm định đặt dự án có nằm trong diện mở rộng hay quy hoạch
chung của cả vùng miền hay không .
- Xem xét các yếu tố về điều kiện tự nhiên, thời tiết khi hậu, môi trường hay
các yếu tố xã hội như con người văn hóa ,kinh tế , chính trị ,bộ máy chính
quyền của khu vực đặt dự án để xác định , và khai thác được tối đa lợi thế
vùng và có những biện pháp phòng ngừa những tác động xấu một cách kịp
thời, tạo điều kiện cho các công trình phát huy được hiệu quả sử dụng tối
đa. Các điều kiện khí hậu, môi trường tự nhiên có ảnh hưởng đến tuổi thọ
và sự hoạt động liên tục của công trình. Một công trình được xây dựng tại
nơi có khí hậu không thuận lợi, thường xuyên gặp thiên tai thì chi phí tu sửa
là rất tốn kém, hay những địa điểm có nhiệt độ không ổn định, biến động
lớn thì các công trình cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Điều kiện địa

chất : bao gồm đặc điểm địa hình, địa mạo, cấu trúc địa chất, đặc điểm kiến
tạo, đặc điểm địa chất thủy văn, khí tượng thủy văn, các tính chất cơ-lý của
đất, đá có yếu tố quyết định đến kiểu dáng, hình dạng, cơ cấu của công trình
. Khi xem xét lựa chọn địa điểm đặt công trình phải hết sức chú ý các yếu tố
tự nhiên này, bởi vì đây là những yếu tố khách quan tác động trực tiếp đến
công trình.
- Ngoài ra, địa điểm phải gần nguồn cung cấp nguyên liệu hay thị trường tiêu
thụ của dự án, hoặc gần nguồn cung cấp nguồn lao động để giải quyết được
vấn đề chi phí nguyên, nhiên, vật liệu, chi phí và khả năng giải tỏa mặt bằng
của chính quyền địa phương ,nhân lưc cũng như thị trường tiêu thụ. Khi đặt
công trình xây dựng ở một địa điểm còn phải tính đến các cơ sở hạ tầng sao
cho thuận lợi nhất như về điện, nước, giao thông vận tải, thông tin liên
lạc…
3.5. Sự quán triệt do đặc điểm đầu tư là một loại hình hoạt động kinh tế gắn
liền với các yếu tố rủi ro :
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
18
- Mục tiêu cuối cùng của hoạt động đầu tư là lợi nhuận, lợi nhuận càng lớn
thì mức độ rủi ro càng cao. Đặc biệt là đối với các dự án của hoạt động đầu
tư phát triển, đều có quy mô lớn, thời gian kéo dài, lợi nhuận kỳ vọng cao
nên mức độ rủi ro càng lớn hơn. Nhận thức rõ tác động của yếu tố rủi ro nên
trong công tác đầu tư cần phải:
• Chú trọng đến công tác dự báo, phân tích tình hình kinh tế xã hội để đưa
ra nhận định một cách chuẩn xác về rủi ro.Việc nhận diện sai rủi ro có
ảnh hưởng việc xác định hướng đi cho dự án bị sai, điều đó ảnh hưởng
nghiêm trọng đến hiệu quả đầu tư sau này. Nếu không lường trước được
các rủi ro thì đến khi dự án thực hiện, gặp phải rủi ro thì lúc ấy đã không
còn kịp thời, làm thay đổi toàn bộ hướng đi tiếp theo của dự án, tạo ra
hiệu ứng dây chuyền(hiệu ứng domino) kéo theo nhiều rủi ro khác xảy
ra, dẫn đến chi phí cho việc thay đổi sẽ lớn hơn rất nhiều,gây lãng phí,

hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra là dự án phải dừng lại. Việc nhận
diện rủi ro này là không hề đơn giản, không phải chỉ có một người hay
một nhóm ba, bốn người có thể làm được mà cần phải có một tập thể
người có sự phối hợp với các chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực, cần phải
xem xét vấn đề trên nhiều phương diện, nhiều khía cạnh khác nhau. Có
như vậy việc nhận định mới có thể lường hết được các khả năng có thể
xảy ra
• Khi nhận định được rủi ro có thể xảy ra thì việc đánh giá rủi ro cũng vô
cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí kinh tế cho dự án. Khi
đánh giá được đúng mức độ rủi ro, dẫn đến hành động hợp lý, giải pháp
sát thực tế sẽ giảm thiểu được chi phí phát sinh.Có thể một dự án sẽ có
nhiều rủi ro xảy ra, tuy nhiên cần phải xác định được các mức độ của các
loại rủi ro đó ra sao, rủi ro nào là nghiêm trọng, có khả năng gây tổn thất
nặng nhất. Hơn nữa xác suất xảy ra mỗi rủi ro nhiều hay ít. Dự án có
mức độ rủi ro cao cần tập trung giải quyết, dự án có mức độ rủi ro thấp
thì chi phí để xử lý cũng không lớn.
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
19
• Cần phải có những phương pháp, mô hình định lượng để đánh giá mức
độ rủi ro, nghiên cứu tại các dự án có tính chất tương tự để có thể áp
dụng vào trường hợp riêng của mình.Từ hai công việc trên: nhận định
rủi ro và đánh giá rủi ro sẽ đưa ra biện pháp phòng chống cho phù hợp.
Trong công tác phòng chống cần đề cao quản lý, giám sát việc xử lý rủi
ro không để tình trạng sau khi xử lý rủi ro lại để tái phát trở lại, hoặc làm
phát sinh những rủi ro khác.
- Việc xử lý rủi ro phải được xem như là một yếu tố cơ bản trong hướng quản
lý dự án. Việc đối phó, xử lý rủi ro phải có hướng chủ động, ví dụ như là
các biến cố bất lợi có khả năng xảy ra được chuẩn bị trước thì tốt hơn là
việc đối phó với các biến cố bất lợi sau khi mà chúng xảy ra. Hướng chủ
động này tạo ra thời gian cho các nhà quản lý tìm ra được các hướng khác

nhau và các kế hoạch hành động rồi từ đó lựa chọn cách giải quyết thích
hợp mà nó đúng với mục tiêu của dự án nhất.
- Cần có phương pháp tránh rủi ro, quá trình cần thiết để làm giảm bớt đi khả
năng xuất hiện đối với mỗi rủi ro đã lựa chọn để giải quyết. mỗi một phạm
vi chuyên môn xác định được những hành động nào nên được tiến hành để
tránh hoặc để giàm khả năng xuất hiện rủi ro được lựa chọn giải quyết.
ngoài ra cũng phải xét hiệu quả sinh lợi cho hướng tránh rủi ro sắp tới .
- Việc quan trọng nhất trong quản trị rủi ro là phải xây dựng được quy trình
quản lý rủi ro. Thông thường, quản lý rủi ro được chia thành 5 bước:
Bước 1: Nhận dạng rủi ro
Bước 2: Ước tính, định lượng rủi ro
Bưóc3: Đánh giá tác động của rủi ro
Bước 4: Đánh giá năng lực của người thực hiện chương trình bảo hiểm rủi ro.
Bước 5: Lựa chọn công cụ và quản lý rủi ro thích hợp
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
20
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG ĐTPT VÀ SỰ QUÁN TRIỆT CÁC ĐẶC
ĐIỂM CỦA ĐTPT TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ ĐẦU TƯ Ở
VIỆT NAM
1. Thực trạng ĐTPT ở Việt Nam
- Thực trạng huy động vốn đầu tư Kinh tế phục hồi là một nguyên nhân quan
trọng trong việc thúc đẩy đầu tư phát triển. Nguồn vốn đầu tư toàn xã hội
năm 2010 đã đạt được những kết quả tích cực. Ước tính huy động nguồn vốn
đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2010 vào khoảng 800 nghìn tỷ đồng, bằng
41,5% GDP và tăng 12% so với ước thực hiện năm 2009.
Cụ thể, nguồn vốn đầu tư của tư nhân và của dân cư dẫn đầu bằng
31,2% vốn đầu tư toàn xã hội, nguồn vốn đầu tư nhà nước (gồm đầu tư từ
ngân sách nhà nước, nguồn trái phiếu Chính phủ, nguồn tín dụng đầu tư theo
kế hoạch nhà nước và nguồn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước) bằng
22,5%, tăng 4,7% so với năm 2009. Những kết quả này cho thấy các nguồn

lực trong nước được huy động tích cực hơn. Về vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI), tính đến hết tháng 11, cả nước thu hút được 833 dự án mới với
tổng số vốn đăng ký đạt 13,3 tỷ USD, bằng 60% so với cùng kỳ năm 2009,
trong đó vốn thực hiện ước đạt 10 tỷ USD, tăng 9,9%. Mặc dù vốn FDI đăng
ký có thấp hơn nhiều so với năm 2009 nhưng tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn
đăng ký lại cao hơn nhiều. Đây có thể được coi là điểm sáng trong thu hút
FDI năm 2010. Điều này cũng cho thấy sự cam kết lâu dài các nhà đầu tư
nước ngoài ở thị trường Việt Nam.
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
21
Tương ứng, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ước khoảng 55
nghìn tỷ đồng, chiếm 6,9% và tăng 10%; vốn từ khu vực doanh nghiệp nhà
nước khoảng 66 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 8,2% và tăng 10%; vốn đầu tư
của khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và dân cư khoảng 281,5 nghìn tỷ
đồng, chiếm 35,1% và tăng 27,7%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài dự kiến
khoảng 182 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 22,7% và tăng 21,3%. Các nguồn
vốn khác dự kiến khoảng 25 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,1% tổng nguồn vốn đầu
tư phát triển.
Tốc độ tăng vốn đầu tư cao và nhanh một mặt thể hiện quan hệ tích lũy -
tiêu dùng đã có sự chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, nhưng mặt khác
lại cho thấy những hạn chế trong hiệu quả đầu tư. Nếu như năm 1997, chúng
ta đạt được tốc độ tăng trưởng 8,2% với vốn đầu tư chỉ chiếm 28,7% GDP thì
cũng với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ như vậy năm 2007 (8,5%) chúng ta phải
đầu tư tới 43,1% GDP. Đến năm 2010, trong khi tổng mức đầu tư toàn xã hội
lên tới 41% GDP, thì tốc độ tăng trưởng lại chỉ đạt 6,7%. Chỉ số ICOR đã
tăng tới mức quá cao, trên 8 so với 6,6 của năm 2008. Hệ số ICOR của doanh
nghiệp và đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân chỉ có 3-4, trong khi đó ICOR
của khu vực kinh tế nhà nước và từ đầu tư của nhà nước tới 9-10
1
. Bên cạnh

đó còn xảy ra tình trạng chậm trễ trong giải ngân nguồn vốn đầu tư từ ngân
sách nhà nước và nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, lãng phí, thất thoát vốn
đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án đầu tư. Những đặc điểm
này là đáng báo động về cả trước mắt cũng như lâu dài.
Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhìn chung việc phân bổ vốn
đầu tư phát triển thuộc nguồn ngân sách nhà nước trong những tháng đầu
năm nay của các bộ, ngành và địa phương được thực hiện theo đúng quyết
định của Thủ tướng Chính phủ nhưng vẫn còn tình trạng bố trí vốn dàn đều,
thậm chí bố trí cả vốn cho các dự án chưa đủ thủ tục đầu tư và chưa thực sự
tập trung cho các dự án hoàn thành.
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
22
Đối với nguồn trái phiếu chính phủ, một số địa phương còn chưa phân
bổ hết kế hoạch được giao như Thái Nguyên, chưa giao 28 tỷ đồng vốn các
dự án giao thông; Lào Cai chưa giao 7 tỷ đồng vốn các dự án giao thông và
10 tỷ đồng vốn các dự án thủy lợi; Nghệ An chưa giao 7 tỷ đồng cho các dự
án giao thông, thủy lợi
Trong khi đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành và địa
phương phải chủ động điều chuyển vốn cho các dự án giải ngân thấp sang
các dự án hoàn thành có khả năng giải ngân cao.
Nhưng qua kiểm tra, số bộ, ngành, địa phương điều chuyển vốn giữa các
dự án là khá thấp. Chỉ có Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn điều
chuyển 85,4 tỷ đồng vốn ngân sách nhà nước kế hoạch năm 2010 của 30 dự
án do bộ quản lý để tăng vốn tập trung cho 11 dự án và 80 tỷ đồng vốn trái
phiếu chính phủ (cắt giảm vốn của 7 dự án để tăng vốn tập trung cho 7 dự án
khác).
Bên cạnh đó, có 9/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là Lai
Châu, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hải Phòng, Quảng Trị, Bình Thuận, Bình
Phước, Cao Bằng và Thành phố Hồ Chí Minh cắt giảm 92 dự án sử dụng vốn
ngân sách nhà nước, hoãn khởi công mới 1 dự án để bổ sung tăng vốn cho 97

dự án chuyển tiếp với tổng số vốn 401 tỷ đồng.
Đáng lưu ý, một số địa phương còn điều chuyển vốn cho nhiều dự án
hơn số dự án cắt giảm.
Ngoài ra, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư phát triển của các bộ, ngành và địa
phương trong sáu tháng đầu năm tuy khá hơn cùng kỳ năm trước, đạt khoảng
53.040 tỷ đồng, bằng 42,3% kế hoạch; trong đó, Trung ương đạt 27,6% và
địa phương đạt 50% nhưng chủ yếu là số vốn tạm ứng (chưa sử dụng), chiếm
45% tổng số giải ngân và thanh toán các khối lượng hoàn thành các dự án
chuyển tiếp năm trước, còn khối lượng hoàn thành của các dự án, đặc biệt
các dự án mới vẫn ở mức rất thấp.
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
23
Nhìn nhận những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chậm tiến độ, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư cho rằng việc triển khai Nghị định số 69/2009/NĐ-CP liên
quan đến giá đền bù giải phóng mặt bằng gây rất nhiều lúng túng cho các chủ
đầu tư do giá đền bù giải phóng mặt bằng vượt khá xa so với dự toán ban
đầu.
Ngoài nguyên nhân muôn thủơ là năng lực tài chính cộng với kinh nghiệm,
thiết bị và nhân lực của một số nhà thầu thi công, tư vấn còn hạn chế, ảnh
hưởng lớn tới công tác chuẩn bị đầu tư và tiến độ thực hiện dự án còn do sự
phối hợp giữa chủ đầu tư và chính quyền địa phương còn chưa thật sự chặt
chẽ; năng lực quản lý của một số chủ đầu tư, ban quản lý dự án còn thiếu
chuyên nghiệp. Mặt khác, do công tác đấu thầu phân cấp mạnh cho chủ đầu
tư nên việc nắm bắt tiến độ triển khai của cơ quan nhà nước còn gặp nhiều
khó khăn.
- Đánh giá hoạt động DTPT với tăng trưởng nền kinh tế : Tỷ lệ đóng góp
của vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này luôn ở trong
khoảng từ 47 - 50 % .
Nước ta đang ở trong giai đoạn đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội,trình độ phát triển còn lạc hậu, chính vì vậy chúng ta đang đẩy mạnh đầu

tư theo chiều rộng .Vốn đầu tư luôn chiếm tỉ lệ lớn so với GDP.
Bảng 1 : Tổng vốn đầu tư toàn xã hội thời kì 2000 - 2010
Năm
Thu nhập
bình quân
đầu người
(USD)
Tổng vốn đầu
tư toàn xã hội
(tỷ đồng)
Tỷ lệ tổng vốn
đầu tư/GDP
(%)
Tốc độ tăng
trưởng kinh tế
(%)
2000 402 151 183 34.23 6.79
2004 553 290 927 40.67 7.79
2005 639 343 135 40.89 8.44
2006 723 404 712 41.54 8.23
2007 834 532 093 46.52 8.46
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
24
2008 1034 610 876 41.13 6.23
2009 1100 704 200 42.00 5.23
2010 1160 830300 41.90 7*
Nguồn: Niên giám thống kê 2003, 2005, 2008
- Đánh giá chung về thành tựu của hoạt động đầu tư phát triển ở Việt
Nam giai đoạn 2000 – 2010.
Mặc dù đối diện với rất nhiều khó khăn song việc quán triệt các đặc

điểm của đầu tư phát triển ở Việt Nam trong thời gian qua gặt hái được rất
nhiều thành công, cụ thể như sau:
Thứ nhất là, huy động, quản lý và sử dụng các nguồn vốn cho đầu tư phát
triển về cơ bản có nhiều tiến bộ, cơ cấu các nguồn vốn đầu tư phát triển
được đa dạng hoá. Tỉ lệ vốn đầu tư trên GDP không ngừng tăng lên qua các
năm và đạt đuợc ở mức cao so với một số nước trong khu vực. Cơ cấu các
nguồn vốn đã được đa dạng hoá. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước
đã có tác động thu hút các nguồn vốn khác, qui mô vốn đầu tư phát triển
không ngừng lớn mạnh.
Thứ hai là, cơ cấu đầu tư đã có sự dịch chyển theo hướng tích cực, tập trung
cho những mục tiêu phát triển quan trọng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Các nguồn lực được huy động tốt hơn và tập trung đầu tư vào một số công
trình chủ chốt, quan trọng, đầu tư chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất theo
hướng hiệu quả và phát huy lợi thế từng vùng, từng ngành, từng lĩnh vực,
từng sản phẩm, tăng khả năng cạch tranh của nền kinh tế. Vốn đầu tư cho
phát triển nguồn nhân lực đã gia tăng đáng kể. Các chương trình quốc gia
về y tế, xoá đói giảm nghèo cũng được chú trọng hơn.
Thứ ba là, có nhiều đổi mới trong cơ chế đầu tư và xây dựng, trong điều hành
của chính phủ đối với các hoạt động đầu tư phát triển. Cơ chế quản lý đầu
tư được cải tiến một bước quan trọng, theo hướng giảm đáng kể sự can
thiệp trực tiếp của Nhà nước đối với các hoạt động đầu tư, tăng cường vai
trò, trách nhiệm của nhà đầu tư, đồng thời thực hiện phân cấp triệt để cho
các bộ, ngành và địa phương. Trong quản lý đầu tư đã tăng cường vai trò
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C
25
của hội đồng nhân dân, coi trọng sự tham gia giám sát của cộng đồng và tổ
chức xã hội.
Thứ tư là, nước ta khai thác tốt các nguồn đầu tư nước ngoài. Trong giai đoạn
1996 - 2005 huy động vốn đầu tư nước ngoài gia tăng đáng kể. Huy động
vốn đầu tư nước ngoài có dấu hiệu phục hồi sau những sụt giảm do khủng

hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, đã góp phần khắc phục tình trạng
khan hiếm nguồn vốn trong nước, thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn vốn đầu tư trong nước, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế. Đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh còn tạo điều kiện tốt cho việc mở
rộng thị trường trong nước, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước
tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với thị trường thế giới. Điều này
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế nói chung và đặc
biệt với một nước đang cố gắng để chủ động hội nhập như nước ta hiện nay.
Thứ năm là, sự gia tăng không ngừng của các hoạt động đầu tư phát triển
trong giai đoạn 2001-2005 đã làm cho năng lực của các ngành kinh tế xã
hội tăng lên đáng kể, nhiều công trình quan trọng của tất cả các nghành, các
lĩnh vực được hoàn thiện và đưa vào sử dụng, tạo điều kiện cho nền kinh tế
tăng trưởng theo chiều hướng rất khả quan, duy trì tốc độ tăng trưởng cao,
đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt. Đầu tư phát triển đã khẳng định
được vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế nước ta, thực sự trở
thành chìa khoá của sự tăng trưởng phát triển kinh tế.
2. Tình hình quán triệt các đặc điểm của ĐTPT trong hoạt động quản lý
đầu tư ở Việt Nam hiện nay
2.1. Tình hình quán triệt các đặc điểm của ĐTPT đến hoạt động quản lý đầu tư
ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Tình hình quán triệt đặc điểm “ Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động
cần thiết cho hoạt động đầu tư phát triển thường rất lớn ”
- Thực trạng huy động vốn :
• Đối với nguồn vốn trong nước :
Nhóm 1, lớp KTĐT 50C

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×