Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

u tư pt trong DN- nhóm 13 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.86 KB, 66 trang )

1
Chương I: Lý thuyết chung về ĐTPT trong Dn
I. Đầu tư phát triển
1. Khái niệm
a. Đầu tư:
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành
các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn
hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu
của các công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy
sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Nguồn lực phải hy sinh đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là
sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các
tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện,
trường học…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, quản lý, khoa
học kỹ thuật…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất
lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong những kết quả đã đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của
sự hy sinh các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có
vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi không chỉ đối với người bỏ vốn mà
cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ người đầu tư
mà cả nền kinh tế xã hội được thụ hưởng. Chẳng hạn, một nhà máy được
xây dựng, tài sản vật chất của người đầu tư trực tiếp tăng thêm, đồng thời tài
sản vật chất, tiềm lực sản xuất của nền kinh tế cũng được tăng thêm.
2
Lợi ích trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này đem lại cho người
đầu tư là lợi nhuận, còn cho nền kinh tế là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng (cho
sản xuất và cho sinh hoạt) tăng thêm của nền kinh tế, đóng góp cho ngân
sách, giải quyết việc làm cho người lao động…
Trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của người lao động tăng thêm
không chỉ có lợi cho chính họ (để có thu nhập cao, địa vị cao trong xã hội)
mà còn bổ sung nguồn lực có kỹ thuật cho nền kinh tế để có thể tiếp nhận


công nghệ ngày càng hiện đại, góp phần nâng cao dần trình độ công nghệ và
kỹ thuật cho nền sản xuất quốc gia.
Loại đầu tư đem lại kết quả không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế
xã hội được thụ hưởng trên đây, không chỉ trực tiếp làm tăng tài sản của
người chủ đầu tư mà của cả nền kinh tế chính là đầu tư phát triển. Còn các
loại đầu tư chỉ trực tiếp làm tăng tài sản chính của người đầu tư, tác động gián
tiếp đến làm tăng tài sản của nền kinh tế thông qua sự đóng góp tài chính tích
luỹ của các hoạt động đầu tư này cho đầu tư phát triển, cung cấp vốn cho hoạt
động đầu tư phát triển và thúc đẩy quá trình lưu thông phân phối các sản
phẩm do các kết quả của đầu tư phát triển tạo ra, đó là đầu tư tài chính và đầu
tư thương mại.
b. Phân loại đầu tư:
Căn cứ vào các kết quả của hoạt động đầu tư, bản chất và lợi ích do
đầu tư đem lai chúng ta có thể chia đầu tư ra làm 3 loại : đầu tư tài chính,
đầu tư thương mại và đầu tư phát triển.
 Đầu tư tài chính:
3
Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay
hoặc mua các giấy tờ có giá để hưởng lãi suất định trước, hay lãi suất tuỳ
thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ quan phát hành.
Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (Nếu không xét
đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài
chính của các tổ chức, cá nhân. Với sự hoạt động của hình thức đầu tư này,
vốn được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra nhanh chóng. Đây thực
sự là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
 Đầu tư thương mại:
Đầu tư thương mại là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền
ra mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh
lệch do giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho
nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài

chính của nhà đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở
hữu hàng hoá giữa người bán với nhà đầu tư và giữa nhà đầu tư với khách
hàng của họ. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình
lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra. Từ đó thúc đẩy đầu tư
phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất
kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.
 Đầu tư phát triển :
Đầu tư phát triển là những hoạt động đầu tư tạo ra tài sản mới cho
nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội
khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người
dân trong xã hội. Nói cách khác đầu tư phát triển là việc bỏ tiền ra để xây
4
dựng, sửa chữa nhà cửa, kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt
chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí
thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm
lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế
xã hội.
Ba loại đầu tư trên luôn tồn tại và có mối quan hệ tương hỗ với nhau,
trong đó đầu tư phát triển là cơ bản nhất, tạo tiền đề đề tăng tích lũy, phát
triển hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Đầu tư phát triển là
điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở
sản xuất kinh doanh dịch vụ. Bên cạnh đó, đầu tư tài chính và đầu tư thương
mại hỗ trợ và tạo điều kiện để tăng cường đầu tư phát triển. Tuy nhiên trong
khuân khổ của đề tài này chúng ta chỉ đi sâu, tiềm hiểu, xem xét các vấn đề
kinh tế của đầu tư phát triển- loại đầu tư quyết định trực tiếp sự phát triển
của nền sản xuất xã hội, là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp
tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
c. Khái niệm Đầu tư phát triển
Là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc sử dụng vốn trong hiện tại vào
các hoạt động nào đó, là việc đánh đổi lợi ích trước mắt lấy lợi ích lâu dài

nhằm tạo ra những tài sản mới, năng lực sản xuất mới, tạo thêm việc làm và
vì mục tiêu phát triển.
Đầu tư phát triển đòi hỏi rất lớn nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp,
nguồn lực sử dụng cho đầu tư phát triển là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn
lực đầu tư bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc, thiết bị, tài
nguyên. Như vậy, khi xem xét lựa chọn dự án đầu tư hay đánh giá hiệu quả
hoạt động đầu tư phát triển cần tính đúng tính đủ các nguồn lực tham gia.
5
Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư
bỏ vốn thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Trên quan điểm
phân công lao động xã hội, có hai nhóm đối tượng đầu tư chính là đầu tư
theo ngành và đầu tư theo lãnh thổ. Trên góc độ tính chất và mục đích đầu
tư, đối tượng đầu tư chia làm hai nhóm chính: công trình vì mục tiêu lợi
nhuận và công trình phi lợi nhuận. Trên góc độ xem xét mức độ quan trọng,
đối tượng đầu tư chia thành: loại được khuyến khích đầu tư, loại không được
khuyến khích đầu tư và loại cấm đầu tư. Từ góc độ tài sản, đối tượng đầu tư
chia thành: những tài sản vật chất (tài sản thực) và tài sản vô hình. Tài sản
vật chất, ở đây, là những tài sản cố định được sử dụng cho sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp và nền kinh tế và tài sản lưu động. Tài sản vô hình
như phát minh sáng chế, uy tín, thương hiệu…
Kết quả của đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất (nhà
xưởng, thiết bị… ), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học, kỹ
thuật…) và tài sản vô hình (những phát minh sáng chế, bản quyền…). Các kết
quả đạt được của đầu tư góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất của xã hội.
Hiệu quả của đầu tư phát triển phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế
xã hội thu được với chi phí chi ra để đạt kết quả đó. Kết quả và hiệu quả đầu
tư phát triển cần được xem xét cả trên phương diện chủ đầu tư và xã hội, đảm
bảo kết hợp hài hoà giữa các loại lợi ích, phát huy vai trò chủ động sáng tạo
của chủ đầu tư, vai trò quản lý, kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý Nhà
nước các cấp. Thực tế, có những khoản đầu tư tuy không trực tiếp tạo ra tài

sản cố định và tài sản lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đầu tư
cho y tế, giáo dục, xoá đói giảm nghèo… nhưng lại rất quan trọng để nâng
cao chất lượng cuộc sống và vì mục tiêu phát triển, do đó, cũng được xem là
đầu tư phát triển.
6
Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích
quốc gia, cộng đồng và nhà đầu tư. Trong đó, đầu tư Nhà nước nhằm thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập quốc dân, góp phần giải quyết việc
làm và nâng cao đời sống cho các thành viên trong xã hội. Đầu tư của doanh
nghiệp nhằm tối thiểu chi phí, tối đa lợi nhuận, nâng cao năng lực cạnh tranh
và chất lượng nguồn nhân lực…
Đầu tư phát triển thường được thực hiện bởi một chủ đầu tư nhất định.
Xác định rõ chủ đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong quá trình quản lý đầu tư
nói chung và vốn đầu tư nói riêng. Chủ đầu tư là người sở hữu vốn hoặc
được giao quản lý, sử dụng vốn đầu tư (luật đầu tư 2005). Theo nghĩa đầy
đủ, chủ đầu tư là người sở hữu vốn, ra quyết định đầu tư, quản lý quá trình
thực hiện và vận hành kết quả đầu tư và là người hưởng lợi từ thành quả đầu
tư đó. Chủ đầu tư chịu trách nhiệm kiểm tra giám sát đầu tư, chịu trách
nhiệm toàn diện về những sai phạm và hậu quả do ảnh hưởng của đầu tư đến
môi trường môi sinh và do đó, có ảnh hưởng quan trọng đến việc nâng cao
hiệu quả hoạt động đầu tư. Thực tế quản lý còn có những nhận thức không
đầy đủ về chủ đầu tư.
Hoạt động đầu tư phát triển là một quá trình, diễn ra trong thời kỳ dài
và tồn tại vấn đề “độ trễ thời gian”. Độ trễ thời gian là sự không trùng hợp
giữa thời gian đầu tư với thời gian vận hành các kết quả đầu tư. Đầu tư ở
hiện tại nhưng kết quả đầu tư thường thu được trong tương lai. Đặc điểm này
của đầu tư cần được quán triệt khi đánh giá kết quả, chi phí và hiệu quả hoạt
động đầu tư phát triển.
Nội dung đầu tư phát triển ở phạm vi doanh nghiệp và phạm vi nền
kinh tế có thể khác nhau. Trên góc độ nền kinh tế, đầu tư phát triển phải làm

7
gia tăng tài sản cho nền kinh tế chứ không phải là hiện tượng chu chuyển tài
sản giữa các đơn vị. Ví dụ, việc mua bán tài sản cố định giữa các đơn vị, vẫn
được xem là hoạt động đầu tư của đơn vị này, nhưng trên phương diện nền
kinh tế, không có đầu tư tăng thêm mà chỉ chuyển quyền sở hữu từ đơn vị
này sang đơn vị khác.
2. Đặc điểm Đầu tư phát triển
+ Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư
thường rất lớn. Vốn đầu tư nằm khê đọng lâu trong suốt quá trình thực hiện
đầu tư. Quy mô vốn đầu tư lớn đòi hỏi phải có giải pháp tạo vốn và huy
động vốn hợp lý, xây dựng các chính sách, quy hoạch, kế hoạch đầu tư đúng
đắn, quản lý chặt chẽ tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến độ đầu tư, thực
hiện đầu tư trọng tâm trọng điểm.
Lao động cần sử dụng cho các dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự án
trọng điểm quốc gia. Do đó, công tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng và đãi
ngộ cần tuân thủ một kế hoạch định trước, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu
từng loại nhân lực theo tiến độ đầu tư, đồng thời, hạn chế đến mức thấp nhất
những ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự án” tạo ra như việc bố trí lao
động, giải quyết lao động dôi dư…
+ Thời kỳ đầu tư kéo dài: Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện
dự án đén khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu
tư phát triển có thời gian đầu tư kéo dài hàng chục năm. Do vốn nằm khê
đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư nên để nâng cao hiệu quả vốn đầu
tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn
8
thành dứt điểm từng hạng mục công trình, quản lý chặt chẽ tiến độ kế hoạch
đầu tư, khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
+ Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài: Thời gian này tính từ
khi dưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn hoạt động và đào
thải công trình. Nhiều thành quả đầu tư phát huy kết quả lâu dài, có thể tồn

tại vĩnh viễn như các Kim tự tháp Ai Cập, Nhà thờ La Mã ở Rôm, Vạn Lý
Trường Thành ở Trung Quốc, ĂngCoVát ở Cam-pu-chia… Trong suốt quá
trình vận hành, các thành quả đầu tư chịu sự tác động hai mặt, cả tích cực và
tiêu cực của nhiều yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội…
+ Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình
xây dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do
đó, quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận hành các kết quả đầu tư
chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế xã hội vùng.
+ Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ
đầu tư kéo dài và thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài… nên
mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao. Rủi ro đầu tư do
nhiều nguyên nhân, trong đó, có nguyên nhân chủ quan từ phía các nhà đầu
tư như quản lý kém, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu… có nguyên
nhân khách quan như giá nguyên liệu tăng, giá bán sản phẩm giảm, công
suất sản xuất không đạt công suất thiết kế…
3. Vai trò của hoạt động đầu tư phát triển:
a. Đối với nền kinh tế
 Đầu tư vừa tác động đến tổng cung vừa tác động đến tổng cầu của
nền kinh tế:
9
-Về mặt cầu: đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu toàn bộ
nền kinh tế( từ 24-28%). Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư làm cho tổng
cầu tăng kéo theo sản lượng cân bằng tăng và dẫn đến giá, các yếu tố đầu
vào của đầu tư cũng tăng theo.
-Về mặt cung: khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực
mới đivào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên,
kéo theo sản lượng tiềm năng tăng và do đó giá cả sản phẩm giảm. Sản
lượng tăng, giá cả giảm cho phép tiêu dùng tăng. Tăng tiêu dùng đến lượt
mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn
gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho người lao

động, nâng cao đời sống cho mọi thành viên trong xã hội.
 Đầu tư tác động tăng trưởng và phát triển kinh tế:
- Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng
trưởng ở mức bình thường thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15-25% so với
GDP tuỳ thuộc vào hệ số ICOR. Ở Việt Nam tính bình quân giai đoạn 1995-
1999 thì tỷ lệ vốn đầu tư xã hội so với GDP đạt 28,2%, tốc độ tăng GDP so
với giá hiện hành là 7,5% và hệ số ICOR là 3,8 lần.
- Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định của nền kinh tế:
Với việc tăng đầu tư sẽ tăng công ăn việc làm dẫn đến giảm thất nghiệp,
nâng cao đời sống nhân dân, do đó góp phần giảm tệ nạn xã hội,…Nhưng
bên cạnh đó do tăng chi đầu tư dẫn đến lạm phát ảnh hưởng tiêu cực đến nền
kinh tế.
10
Giảm đầu tư thì hạn chế được lạm phát, đời sống nhân dân ổn định nhưng
ngược lại cũng giảm công ăn việc làm, tình trạng thất nghiệp tăng, làm ảnh
hưởng đến tiêu cực xã hội.
 Đầu tư ảnh hưởng đến việc chuyển dịch cơ cấu:
Đầu tư có tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua những
chính sách tác động đến cơ cấu đầu tư. Trong điều hành chính sách đầu tư,
Nhà nước có thể can thiệp trực tiếp như thưc hiện chính sách phân bổ vốn,
kế hoạch hoá, xây dựng cơ chế quản lý đầu tư hoặc điều tiết gián tiếp qua
các công cụ chính sách như thuế, tín dụng, lãi suất để xác lập và định hướng
một cơ cấu đầu tư dẫn dắt sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngày càng hợp lý
hơn.
Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy nếu có chính sách đầu tư hợp lý sẽ
tạo đà cho sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tỷ trọng phân bổ
vốn cho các ngành khác nhau sẽ mang lại kết quả và hiệu quả khác nhau.
Vốn đầu tư cũng như tỷ trọng vốn đầu tư cho các ngành và các vùng kinh tế
có ảnh hưởng trực tiếp đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh
tế vùng và cũng đồng thời ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng chung của cả

nền kinh tế.
Không những thế, giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế cũng như dịch
chuyển cơ cấu kinh tế có mối quan hệ khăng khít với nhau. Việc đầu tư vốn
nhằm mục đích mang lại hiệu quả kinh tế cao, tăng trưởng nhanh trên phạm
vi toàn bộ nền kinh tế cũng sẽ dẫn đến hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý.
Ngược lại tăng trưởng kinh tế cao kết hợp với việc chuyển dịch cơ cấu đầu
tư hợp lý sẽ tạo nguồn vốn đầu tư dồi dào, định hướng đầu tư vào các ngành
hiệu quả hơn.
11
 Đầu tư tăng cường khả năng công nghệ và khoa học đất nước.
Đầu tư và đặc biệt là đầu tư phát triển trực tiếp tạo mới và cải tạo chất
lượng và năng lực sản xuất, phục vụ của nền kinh tế và các đơn vị cơ sở.
Chính vì vậy, đầu tư cũng là điều kiện tiên quyết cho quá trình đổi mới và
nâng cao năng lực công nghệ của quốc gia.
Quá trình đổi mới nâng cao năng lực khoa học công nghệ của một đất
nước có thể đi theo hai con đường, một là, đầu tư cho hoạt động Nghiên cứu
và phát triển để cho ra đời những phát minh mới, hai là, các hoạt động
chuyển giao công nghệ từ nước ngoài thông qua mua quyền sở hữu, mua
license, thu hút đầu tư nước ngoài… Cả hai con đường này đòi hỏi nguồn
vốn đầu tư phát triển cho các hoạt động nghiên cứu ứng dụng và cơ bản, cho
mua công nghệ hay cho vốn đầu tư mồi (xây dựng cơ sở hạ tầng cứng và
mềm) để thu hút đầu tư…
Đặc điểm quan trọng, cơ bản mang tính quyết định nhất của công nghiệp
hóa – hiện đại hóa là sự thay thế lao động thủ công sang lao động mang tính
kỹ thuật, máy móc đẩy mạnh sự phân công lao động xã hội. Bởi vậy đầu tư
phát triển cho khoa học công nghệ là chìa khóa cho sự chuyển cơ cấu kinh tế
đúng hướng, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
b. Đối với Doanh nghiệp:
Với các doanh nghiệp đầu tư phát triển có những biểu hiện cụ thể. Doanh
nghiệp khi thành lập cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua

sắm, lắp đặt máy móc thiết bị, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản khác.
Trong mỗi chu kì hoạt động, khi cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở này
hao mòn hư hỏng cần phải tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới hay doanh
12
nghiệp cần đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát
triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội.
Từ những hoạt động thực tế đó của đầu tư phát triển chúng ta có thể rút
ra nhận xét về các vai trò của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp.
 Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tồn tại trong nền kinh tế thị trường phải chấp nhận sự cạnh
tranh và coi đó là động lực để phát triển, hoàn thiện doanh nghiệp mình. Để
có được khả năng cạnh tranh cao, doanh nghiệp phải tìm ra các lợi thế của
mình, đồng thời giảm thiểu các hạn chế so với các doanh nghiệp khác.
Lợi thế của doanh nghiệp có thể là công nghệ sản xuất tiên tiến hơn, chất
lượng sản phẩm tốt hơn, hoạt động điều tra nghiên cứu thị trường hoàn thiện
hơn, các dịch vụ bán hàng và hậu mãi thuận lợi cho khách hàng… Nói
chung doanh nghiệp muốn nâng cao các lợi thế này đều cần có vai trò của
đầu tư phát triển.
Đối với các DNNN có nhiều lợi thế về nguồn vốn, quy mô, thị phần lớn
và có uy tín, thương hiệu trong ngành nên có thể nhiều người cho rằng khối
các DNNN sẽ luôn có vị thế vững chắc trên thị trường. Nhưng khi nền kinh
tế tiền dần tới cạnh tranh hoàn hảo, nếu các doanh nghiệp này không đầu tư
cho chiến lược đổi mới, nâng cao sức cạnh tranh thì chính ngay những lợi
thế cũng sẽ dần mất đi và doanh nghiệp sẽ sớm bị loại khỏi cuộc chơi.
 Tạo điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố như công nghệ hiện đại,
nguyên liệu đầu vào, nhân công tay nghề cao… Trong nền kinh tế thị trường
tiến dần tới sự cạnh tranh hoàn hảo và nền kinh tế ngày một phát triển thì
13
yếu tố giá cả không còn là lợi thế cạnh tranh tuyệt đối. Chất lượng hàng hoá

của doanh nghiêp tốt sẽ xây dựng uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp
trên thị trường cơ sở cho sự hoạt động và phát triển lâu dài của doanh
nghiệp. Chất lượng hàng hóa tốt cũng giúp doanh nghiệp thực hiện các chính
sách hậu mãi như bảo hành, bảo dưỡng tốn kém ít chi phí hơn.
Do vậy có thể thấy được vai trò của đầu tư phát triển trong đầu tư cho
công nghệ, nhân công, nguyên liệu đầu vào và cho các nghiên cứu phát triển
sản phẩm mới… tác động tới quá trình nâng cao chất lượng sản phẩm.
 Giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận.
Khi mà giá bán sản phẩm là do thị trường quyết định và đồng đều với các
sản phẩm giống nhau thì để đạt lợi nhuận cao doanh nghiệp phải giảm các
chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp như chi phí cho nguyên liệu, cho
lương lao động… có thể giảm khi doanh nghiệp đầu tư cho các quá trình tiết
kiệm trong các khâu sản xuất, kinh doanh như giảm hao phí nguyên vật liệu,
tăng năng suất lao động, giảm chi phí cho sửa chữa bảo hành Để có thể đạt
được những mục tiêu này doanh nghiệp cần bỏ ra một số vốn đầu tư nhất
định cho các kế hoạch tiết kiệm chi phí. Mặt khác doanh nghiệp đầu tư vào
dây chuyền công nghệ mới, vào nâng cao tay nghề lao động, về nghiên cứu
các vùng nguyên liệu mới hay tạo ra các loại vật liệu mới cũng với mục tiêu
về lâu dài nhằm giảm chi phí và nâng cao lợi nhuận. Bởi vậy có thể nói vì
với một doanh nghiệp về mục tiêu lợi nhuận là quan trọng nhất, do đó các
hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp đích đến cuối cùng là tạo ra
lợi nhuận. Đầu tư mà không có lợi nhuận không thể gọi là đầu tư có hiệu quả
được.
14
 Góp phần đổi mới công nghệ.
Trong thời đại hiện nay các công nghệ luôn luôn thay đổi nhanh chóng,
đổi mới công nghệ thường xuyên giúp cho xã hội ngày càng phát triển và
đặc biệt làm cho việc sản xuất kinh doanh ngày càng đạt năng suất cao và
hàng hoá trở nên chất lượng hơn. Nhưng với các doanh nghiệp đây vừa cơ

hội vừa là thách thức lớn. Nếu doanh nghiệp nắm bắt được xu hướng công
nghệ mới thì sẽ có lợi thế cạnh tranh và lợi nhuận cao, còn nếu doanh nghiệp
chậm nắm bắt, đổi mới công nghệ thì sẽ bị loại ra khỏi thị trường.
Để có thể đổi mới công nghệ doanh nghiệp có thể tự đầu tư cho các hoạt
động nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, các hoạt động thử nghiệm
hoặc tiến hành chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp khác. Các hoạt động
này đòi hỏi doanh nghiệp đầu tư một lượng vốn đầu tư lớn, nhưng kết quả
thu nhận được chưa rõ ràng. Bởi vậy những người quản lý phải có một tầm
nhìn nhất định về vai trò đầu tư phát triển vào công nghệ trong việc nâng cao
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát
triển của doanh nghiệp. Nếu như đầu tư vào tài sản cố định là điều kiện cần
để tiến hành hoạt động kinh doanh thì đầu tư vào phát triển nguồn nhân lực
là điều kiện đủ để việc kinh doanh được thắng lợi
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực doanh nghiệp cần tiến hành các
hoạt động từ tuyển dụng, đào tạo nâng cao sức khỏe, trí tuệ, kĩ năng cho cán
bộ công nhân viên. Ngoài ra doanh nghiệp phải tìm các điều kiện để đảm
bảo, hỗ trợ, khuyến khích đội ngũ nhân lực làm việc hết mình, nâng cao
năng suất, phát huy sáng kiến như chăm sóc y tế, cải thiện môi trường làm
15
việc, quỹ phúc lợi, chế độ khen thưởng, khuyến khích… Tất cả những hoạt
động này đòi hỏi một lượng vốn đầu tư thích hợp.
Ngoài ra trong quá trình tiến hành đầu tư phát triển cho các lĩnh vự khác
của doanh nghiệp như công nghệ mới, cho nghiên cứu thị trường… thì đầu
tư phát triển cũng mang lại tác động gián tiếp tích cực lên nguồn nhân lực.
II. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
1. Đặc điểm của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp:
Đầu tư của doanh nghiệp là một bộ phận của đầu tư phát triển, là hoạt
động chi dùng vốn cùng với các nguồn lực khác trong hiện tài nhằm duy trì

sự hoạt động và làm tăng thêm tài sản của doanh nghiệp, tạo thêm nhiều việc
làm và nâng cao đời sống cho các thành viên trong doanh nghiệp.Do đó hoạt
động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp cũng mang những đặc điểm
chung của đầu tư phát triển như là quy mô tiền vốn,vật tư,lao động cần thiết
cho hoạt động đầu tư thường rất lớn;thời kì đầu tư kéo dài ;thời gian vận
hành các kết quả đầu tư kéo dài; có độ rủi ro cao…
2. Nội dung của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp:
2.1 Đầu tư xây dựng cơ bản:
Đầu tư xây dựng cơ bản chính là đầu tư nhằm tái tạo tài sản cố định
của doanh nghiệp. Đó là những tài sản của doanh nghiệp có giá trị lớn, có
thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi trên 1 năm hoặc trên 1 chu kỳ kinh
doanh (nếu chu kỳ kinh doanh lớn hơn hoặc bằng 1 năm) .
Trên thực tế, tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm những tài sản
đang sử dụng, chưa được sử dụng hoặc không còn được sử dụng trong quá
16
trình sản xuất kinh doanh do chúng đang trong quá trình hoàn thành (máy
móc thiết bị đã mua nhưng chưa hoặc đang lắp đặt, nhà xưởng đang xây
dựng chưa hoàn thành ) hoặc do chúng chưa hết giá trị sử dụng nhưng
không được sử dụng. Những tài sản thuê tài chính mà doanh nghiệp sẽ sở
hữu cũng thuộc về TSCĐ.
Đặc điểm của TSCĐ là tuổi thọ có thời gian sử dụng trên 1 năm, tức là
TSCĐ sẽ tham gia vào nhiều niên độ kinh doanh và giá trị của nó được
chuyển dần vào gíá trị sản phẩm làm ra thông qua khoản chi phí khấu hao.
Điều này làm giá trị của TSCĐ giảm dần hàng năm. Tuy nhiên, không phải
mọi tài sản có thời gian sử dụng trên một năm đều được gọi là TSCĐ, thực
tế có những tài sản có tuổi thọ trên một năm nhưng vì giá trị nhỏ nên chúng
không được coi là TSCĐ mà được xếp vào tài sản lưu động. Theo quy định
hiện hành của Bộ Tài chính, một tài sản được gọi là TSCĐ khi có đặc điểm
như đã nêu đồng thời phải có giá trị trên 10 triệu đồng.
Tài sản cố định của doanh nghiệp bao gồm:

 Đầu tư nhà xưởng
Nhà cửa, vật kiến trúc là tài sản cố định của doanh nghiệp hình thành sau
quá trình thi công xây dựng như: trụ sở làm việc, nhà xưởng, nhà kho, hàng
rào, bể, tháp nước, sân bãi, các công trình cơ sở hạ tầng như đường xá, cầu
cống, đường sắt, cầu tàu, cầu cảng…
Đầu tư xây dựng hệ thống nhà xưởng là yếu tố căn bản ban đầu để có thể
tiến hành sản xuất kinh doanh. Nhà xưởng, vật kiến trúc (các văn phòng làm
việc, trụ sở, cơ quan, phòng nghỉ ngơi) là những công trình lớn và quan
trọng nhất của bất kỳ doanh nghiệp nào. Nhà xưởng, vật kiến trúc không chỉ
là những nơi bảo vệ của cải, trang thiết bị máy móc được lắp đặt trong đó,
17
mà nó còn là nơi để thực hiện sản xuất sản phẩm (nhà xưởng) hay tái sản
xuất lại sức lao động (vật kiến trúc). Vì vậy, đầu tư vào nhà xưởng, vật kiến
trúc là hoạt động thực sự quan trọng, được tiến hành và hoàn thành sớm nhất
trong một dự án đầu tư.
Đầu tư vào nhà xưởng, vật kiến trúc được các nhà đầu tư tiến hành thiết
kế, lập tổng dự toán nghiên cứu khả thi, được tính toán tỷ mỷ về quy mô, địa
hình, vị trí và phân bố sắp xếp giữa các hạng mục nhà xưởng, các văn phòng
làm việc… Sau này khi dự án đi vào hoạt động, nếu phát hiện thấy sai sót
hoặc thấy không hợp lý thì lượng vốn bỏ ra cho hạng mục công trình này
cũng tương đối lớn cho dù quy mô sản xuất của doanh nghiệp là lớn hay
nhỏ, vì vậy trong quá trình thi công xây dựng cần tính toán kĩ lưỡng, giám
sát chặt chẽ để đảm bảo an toàn, ổn định cho hết chu kỳ của dự án.
Tóm lại, đầu tư cho việc xây dựng nhà xưởng,vật kiến trúc là đầu tư bắt
buộc ban đầu, bất kì một doanh nghiệp nào cũng cần bỏ vốn để xây dựng cơ
sở vật chất ban đầu.Khi doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất thì cũng
phải đầu tư cho nhà xưởng,công trình.
 Đầu tư máy móc thiết bị
Máy móc thiết bị bao gồm các loại máy móc thiết bị dùng trong sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp như: máy móc chuyên dụng, thiết bị công tác,

dây chuyền công nghệ, những máy móc đơn lẻ…
Máy móc thiết bị là phần không thể thiếu của một doanh nghiệp sản
xuất,là điều kiện cơ bản của sản xuất. Đầu tư vào máy móc thiết bị là phần
quan trọng nhất của hoạt động đầu tư. Có máy móc thiết bị đầy đủ và chất
lượng thì dự án mới đi vào thực hiện được. Máy móc thiết bị phải phù hợp
với tính chất của dây chuyền sản xuất, phải phù hợp với đặc điểm của sản
18
phẩm. Máy móc thiết bị trực tiếp quyết định công suất của nhà máy và chất
lượng mẫu mã của sản phẩm tạo ra. Máy móc thiết bị sử dụng không phù
hợp thì sẽ ảnh hưởng đến đặc tính của sản phẩm tạo ra, chất lượng của sản
phẩm không đảm bảo, sản phẩm có thể không bán được trên thị trường và có
thể doanh nghiệp bị thất bại trên thị trường. Do hậu quả nghiêm trọng như
vậy và do lượng vốn bỏ ra đối với hoạt động này chiếm tỷ trọng lớn nhất
trong tổng vốn đầu tư mà việc lựa chọn máy móc thiết bị được sử dụng trong
các doanh nghiệp là vấn đề tiên quyết, là xương sống của một dự án đầu tư,
là mối quan tâm hàng đầu của các chủ doanh nghiệp. Doanh nghiệp khi đầu
tư đổi mới máy móc thiết bị cần quan tâm đến các vấn đề về vòng đời của
máy móc thiết bị, công nghệ; xem xét điều kiện cơ sở hạ tầng hiện có để bổ
sung máy móc thiết bị thích hợp…
 Đầu tư phương tiện vận tải, truyền dẫn
Phương tiện vận tải thiết bị truyền dẫn là các phương tiện vận tải gồm
phương tiện vận tải đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường không, đường
ống và các thiết bị truyền dẫn như hệ thống thông tin, hệ thống điện, điện
thoại, đường ống nước, băng tải…
Phương tiện vận tải,truyền dẫn đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt
động sản xuất của doanh nghiệp, là trung gian cầu nối giữa nơi cung cấp
nguyên, nhiên vật liệu; cung cấp đầu vào cho sản xuất tới nơi sản xuất sản
phẩm và cầu nối giữa nơi sản xuất sản phẩm và nơi tiêu thụ sản phẩm. Ngoài
ra còn dùng để chuyên chở cán bộ công nhân viên … Vì vậy mà việc đầu tư
vào phương tiện vận tải, truyền dẫn là hết sức cần thiết. Đặc biệt là trong

thời đại bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay, thì phương tiện vận tải,
truyền dẫn lại càng quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc tiêu thụ sản
19
phẩm, hàng hóa, quyết định đến doanh số bán hàng, khả năng đáp ứng nhu
cầu của thị trường.
Lượng vốn dành cho hoạt động đầu tư phương tiện vận tải, truyền dẫn
mặc dù không chiếm tỷ trọng lớn nhưng tuỳ theo quy mô và đặc tính của sản
xuất của từng doanh nghiệp mà cũng cần phải đầu tư đúng mức, hợp lý để
tránh tình trạng thất thoát, lãng phí nguồn vốn và đạt hiệu quả kinh tế cao.
2.2 Hàng tồn trữ:
Hàng tồn trữ trong doanh nghiệp là toàn bộ nguyên vật liệu, bán
thành phẩm và sản phẩm hoàn thành được tồn trữ trong doanh nghiệp.Tùy
theo loại hình doanh nghiệp, quy mô và cơ cấu các mặt hàng tồn trữ cũng
khác nhau. Tỷ trọng hàng tồn trữ trong tổng vốn đầu tư phát triển của doanh
nghiệp thương mại thường cao hơn các loại hình doanh nghiệp khác.Do
vậy,xác định quy mô đầu tư hàng tồn trữ tối ưu cho doanh nghiệp là rất cần
thiết.
 Hệ số quay vòng hàng tồn trữ
Hệ số vòng quay hàng tồn kho thể hiện khả năng quản trị hàng tồn kho.
Vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hóa tồn kho bình quân luân
chuyển trong kỳ. Hệ số vòng quay hàng tồn kho được xác định bằng giá vốn
hàng bán chia cho bình quân hàng tồn kho.
Trong đó
20
Hệ số vòng quay hàng tồn kho cũng được tính cho 4 quý gần nhất theo công
thức sau:
Trong đó
Hệ số vòng quay hàng tồn kho thường được so sánh qua các năm để đánh
giá năng lực quản trị hàng tồn kho là tốt hay xấu qua từng năm. Hệ số này
lớn cho thấy tốc độ quay vòng của hàng hóa trong kho là nhanh và ngược

lại, nếu hệ số này nhỏ thì tốc độ quay vòng hàng tồn kho thấp. Cần lưu ý,
hàng tồn kho mang đậm tính chất ngành nghề kinh doanh nên không phải cứ
mức tồn kho thấp là tốt, mức tồn kho cao là xấu.
Hệ số vòng quay hàng tồn kho càng cao càng cho thấy doanh nghiệp bán
hàng nhanh và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều. Có nghĩa là doanh
nghiệp sẽ ít rủi ro hơn nếu khoản mục hàng tồn kho trong báo cáo tài chính
có giá trị giảm qua các năm.
Tuy nhiên, hệ số này quá cao cũng không tốt, vì như vậy có nghĩa là
lượng hàng dự trữ trong kho không nhiều, nếu nhu cầu thị trường tăng đột
ngột thì rất có khả năng doanh nghiệp bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh
tranh giành thị phần. Hơn nữa, dự trữ nguyên liệu vật liệu đầu vào cho các
khâu sản xuất không đủ có thể khiến dây chuyền sản xuất bị ngưng trệ. Vì
21
vậy, hệ số vòng quay hàng tồn kho cần phải đủ lớn để đảm bảo mức độ sản
xuất và đáp ứng được nhu cầu khách hàng.
 Đặc điểm của đầu tư hàng tồn trữ:
- Dự trữ chuyển hóa thành các dạng khác nhau trong quá trình sản xuất
sản phẩm.
- Quy mô đầu tư dự trữ phụ thuộc vào nhiều nhân tố như dự đoán nhu
cầu tiêu dùng trong tương lai.
- Phụ thuộc vào yêu cầu của khách hàng.
- Phụ thuộc vào tham vọng chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp.
 Vai trò cùa đầu tư hàng tồn trữ
- Đảm bảo sự gắn bó, liên kết chặt chẽ giữa các khâu ,các giai đoạn
trong quá trình sản xuất. Nhờ duy trì dự trữ mà quá trình sản xuất sẽ
được tiến hành liên tục, không bị đứt quãng.
- Đảm bảo kịp thời sản xuất trong bất cứ tình huống nào,giúp doanh
nghiệp giữ khách hàng,đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
Có những hàng hóa mà thời gian sản xuất và tiêu dùng không cùng một
lúc,do đó việc dự trữ là hoàn toàn cần thiết.

 Các hoạt động của đầu tư bổ sung hàng tồn trữ:
Đầu tư vào nguyên vật liệu, đầu tư vào bán thành phẩm và sản phẩm
hoàn thành nhập kho.
• Đầu tư vào nguyên vật liệu
Nguyên vật liệu là một bộ phận hàng tồn trữ không thể thiếu của
doanh nghiệp sản xuất nhưng lại không có trong doanh nghiệp thương mại
dịch vụ. Nguyên vật liệu có tính chất không ổn định về số lượng hay chất
lượng ở mỗi thời kì hoặc mùa vụ do đó đầu tư bổ sung nguyên vật liệu đem
tồn trữ là cần thiết. Doanh nghiệp dự trữ các nguyên vật liệu cần thiết để duy
22
trì hoạt động sản xuất. Ta có thể tính toán để xác định chi phí đầu tư vào dự
trữ nguyên vật liệu để từ đó xác định được quy mô đầu tư hợp lí :
Giá tồn kho nguyên vật liệu( hàng phải mua) =giá mua trên hóa đơn +
chi phí mua hàng (chi phí vận chuyển,bảo quản,bốc dỡ,lưu kho, bảo hiểm,
hao hụt, công tác phí, phí dịch vụ…)+ thuế -chiết khấu thương mại, giảm
giá.
• Đầu tư bổ sung bán thành phẩm:
Bán thành phẩm là sản phẩm chỉ mới trải qua một nửa chu trình sản
xuất, cần phải trải qua một số công đoạn để thành một sản phẩm hoàn chỉnh
để có thể được đme ra tiêu thụ thị trường.
Đầu tư dự trữ bán thành phẩm làm giảm bớt rủi ro đối với hàng hóa,
sẵn sàng đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường.
• Đầu tư dự trữ thành phẩm:
Thành phẩm là sản phẩm đã hoàn thành có thể xuất để bán ra thị
trường.Các sản phẩm này được doanh nghiệp tồn trữ bảo quản một phần.
Sản phẩm hoàn thành được tồn trữ sẽ đem ra sử dụng khi khách hàng
đột ngột yêu cầu cung cấp một lượng hàng tăng vọt hoặc là khi doanh
nghiệp gặp rủi ro đối với hàng hóa đó.
2.3 Nguồn nhân lực :
Nguồn nhân lực có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế và doanh

nghiệp. Cùng với khoa học - công nghệ, vốn đầu tư, chất lượng nguồn nhân
lực đóng vai trò quyết định đến sự thành công của sự nghiệp đổi mới toàn
23
diện kinh tế – xã hội. Chỉ có nguồn nhân lực cao mới đảm bảo giành thắng
lợi trong cạnh tranh. Do vậy, đầu tư nâng cao chất lượng nhân lực là rất cần
thiết. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm:
 Đầu tư cho hoạt động đào tạo nguồn nhân lực:
Kinh tế nước ta có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực và
thế giới, thu hút được mạnh mẽ các nguồn đầu tư, đều phụ thuộc phần lớn
vào chất lượng nguồn nhân lực. Và giáo dục đào tạo có vai trò quyết định
đối với việc hình thành quy mô và chất lượng nguồn nhân lực. Chính vì vậy,
đầu tư nguồn nhân lực cũng là đầu tư vào giáo dục đào tạo của đất nước.Đầu
tư cho hoạt động đào tạo nguồn nhân lực là đầu tư cho chương trình giảng
dạy, đầu tư về đội ngũ cán bộ giảng dạy và phương pháp dạy học, đầu tư về
cơ sở hạ tầng vật chất cho giáo dục.
 Đầu tư cho chăm sóc sức khoẻ, cải thiện môi trường, điều kiện làm
viêc cho người lao động:
Đầu tư xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng khám chữa bệnh, đầu tư sản
xuất, lắp đặt trang thiết bị y tế, đầu tư nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên
y tế, đầu tư cho y tế dự phòng và truyền thông, giáo dục chăm sóc sức khoẻ
cộng đồng góp phần giảm chi phí xã hội một cách hiệu quả.Đẩy mạnh
nghiên cứu các biện pháp phòng chống những bệnh thường gặp, ngăn chặn
ngay từ sớm nguy cơ mắc bệnh, đảm bảo sức khoẻ cho người dân, giảm
thiểu chi phí cho xã hội. Tăng lương, cải thiện môi trường làm việc cho
người lao động.
2.4 Nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học & công nghệ
Phát triển sản phẩm mới và các lĩnh vực hoạt động mới đòi hỏi cần đầu
tư cho các hoạt động nghiên cứu, triển khai, ứng dụng công nghệ.Đầu tư
24
nghiên cứu hoặc mua công nghệ đòi hỏi vốn lớn và độ rủi ro cao.Hiện nay

khả năng đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học và công
nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn khá khiêm tốn. Cùng với đà phát triển
của kinh tế đất nước và doanh nghiệp, trong tương lai tỷ lệ chi cho hoạt động
đầu tư sẽ ngày càng tăng, tương ứng với nhu cầu và khả năng của doanh
nghiệp.
 Các yếu tố ảnh hưởng đến nghiên cứu triển khai
- Quy mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
- Cơ hội về đổi mới kĩ thuật và các cơ hội trong ngành
- Khả năng tài chính của doanh nghiệp
 Các quan điểm đánh giá hiệu quả hoạt động nghiên cứu triển khai
- Hiệu quả đầu tư nghiên cứu triển khai cần được xem xét đánh giá về
tất cả các mặt tài chính kinh tế, xã hội, môi trường.
- Hiệu quả đầu tư nghiên cứu triển khai có thể được hoặc không lượng
hóa được. Do đó kết quả của đầu tư cho nghiên cứu và triển khai có
thể được biểu hiện dưới dạng hiện hoặc ẩn tùy từng dự án, chương
trình nghiên cứu.
2.5 Hoạt động marketing:
Hoạt động marketing là một trong những hoạt động quan trọng của doanh
nghiệp. Đầu tư cho hoạt động marketing cần chiếm một tỷ trọng hợp lí trong
tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp và bao gồm:
 Đầu tư tìm hiểu môi trường kinh doanh của DN
25
Đầu tư tìm hiểu nghiên cứu môi trường kinh doanh của doanh nghiệp
trước hết là nghiên cứu khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, sau đó
nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng. Từ việc nghiên cứu hành vi người
tiêu dùng, các doanh nghiệp sẽ đầu tư một cách thích đáng cho việc nghiên
cứu. Việc nghiên cứu thành công giúp doanh nghiệp có chiến lược sản xuất
kinh doanh đúng hướng, tiêu thụ nhanh sản phẩm quay vòng vốn nhanh thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
 Đầu tư cho hoạt động quảng cáo xây dựng thương hiệu

Thương hiệu là căn cứ để giúp khách hàng và đối tác phân biệt được sản
phẩm của doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác. Thương hiệu gắn với uy
tín của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm, chất lượng dịch vụ. Thương hiệu
sẽ tạo niềm tin cho khách hàng vào chất lượng sản phẩm, mang thuận lợi khi
tìm kiếm một thị trường mới. Một thương hiệu nổi tiếng sẽ giúp thuận lợi
trong việc thu hút vốn đầu tư,thu hút nhân tài…Thương hiệu chính là một
công cụ để cạnh tranh trên thị trường. Do đó đầu tư cho hoạt động quảng cáo
thương hiệu là việc làm cần thiết, có vai trò quan trọng trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp.
Marketing không chỉ là một chức năng trong hoạt động kinh doanh, nó
dẫn dắt toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp trong việc phát hiện ra, đáp ứng
và làm thoả mãn cho nhu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp cần phải biết
làm thế nào để xác định và phân khúc thị trường, xây dựng giải pháp hấp
dẫn để chào cho khách hàng, và xây dựng thương hiệu với định vị mạnh.
Doanh nghiệp phải biết làm thế nào để làm giá cho sản phẩm của mình hấp
dẫn và hợp lý, và làm thế nào để chọn và quản trị kênh phân phối để đưa sản
phẩm của mình đến người tiêu dùng một cách có hiệu quả. Doanh nghiệp

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×