Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Chính sách cung cấp ODA của Nhật Bản đối với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.37 KB, 46 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
ODA là một kênh vốn đầu tư phát triển quan trọng đối với tất cả các
quốc gia đang phát triển. Nói đến ODA tại Việt Nam, cần nhấn mạnh đến
vai trò chủ chốt của Nhật Bản. Nhật Bản là nhà tài trợ số một thế giới về
ODA với phần lớn số tài trợ dành cho các nước Châu Á. Vai trò quan
trọng ODA của Nhật Bản trong việc phát triển của các nước đang phát
triển ở Châu Á có thể thấy rõ qua việc ODA Nhật Bản thúc đẩy được cơ sở
hạ tầng kinh tế,và khu vực sản xuất của các nước nhận viện trợ.
Trong quá trình hội nhập nền kinh tế với khu vực và thế giới, để
tạo được một nền móng vững chắc, thực hiện được chiến lược lâu dài của
Việt Nam đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại thì việc huy động vốn đầu tư nước ngoài luôn là một trong những
vấn đề cốt yếu có tính chất quan trọng
Trong hơn 10 năm qua Nhật Bản là nhà cung cấp lớn nhất ODA cho
Việt Nam trong hơn 20 nước và tổ chức cung cấp ODA cho Việt Nam.
Nguồn vốn ODA từ Nhật Bản nói riêng đã đóng vai trò quan trọng, góp
phần giúp Việt Nam tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo và cải thiện
đời sống nhân dân. ODA cũng là một “vũ khí” của Nhật Bản nhằm tăng
ảnh hưởng chính trị và làm tiền đề cho FDI Nhật Bản theo sau. Nghiên
cứu về ODA Nhật Bản cũng giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cơ chế cung cấp
nguồn vốn này. Nhật Bản đã chọn những ngành nào để đưa ODA vào và
nguyên nhân Nhật Bản có sự lựa chọn đó.
Trước thực tế trên, đề tài “Chính sách cung cấp ODA của Nhật Bản
đối với Việt Nam” được chọn để nghiên cứu
2. Mục đích nghiên cứu:
Thông qua việc nghiên cứu chính sách cung cấp ODA của Nhật Bản
dành cho Việt Nam và một số quốc gia, đề tài đề xuất những giải pháp để
thu hút và sử dụng có hiệu quá vốn nguồn vốn ODA này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu


Chính sách ODA Nhật Bản nói chung và ODA của Nhật Bản đối với
Việt Nam nói riêng .
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Chính sách ODA của Nhật Bản giai đoạn 2001 - 2010
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề án đã sử dụng 1 số phương pháp nghiên cứu như mô hình hóa,
thống kê, phân tích, tổng hợp để giải quyết vấn đề đặt ra
5. Kết cấu đề tài:Ngoài các phần Lời mở đầu, Kết luận, Mục lục…đề tài
được trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Khái quát chung về ODA và Chính sách cung cấp ODA
của Nhật Bản
Chương 2. Tình hình cung cấp ODA của Nhật Bản đối với Việt Nam
Chương 3: Giải pháp đẩy mạnh thu hút và quản lí vốn ODA của Nhật
Bản tại Việt Nam
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ODA
1.1. Khái niệm: ODA là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc
chính phủ một nước với chính phủ nước ngoài, các tổ chức liên chính phủ
hoặc liên quốc gia.
1.2. Các hình thức ODA:
ODA không hoàn lại: bên nước ngoài cung cấp viện trợ (mà bên nhận
không phải hoàn lại) để bên nhận thực hiện các chương trình, dự án theo sự
thoả thuận giữa các bên
ODA cho vay ưu đãi: nhà tài trợ cho nước cần vốn vay một khoản
tiền( tuỳ theo quy mô và mục đích đầu tư) với mức lãi suất ưu đãi và thời
gian trả nợ thích hợp
ODA hỗn hợp: là các khoản ODA kết hợp một phần ODA không
hoàn lại và một phần tín dụng thương mại theo các điều kiện của Tổ chức
Hợp tác Kinh tế và Phát triển, thậm chí có loại ODA vốn vay kết hợp tới 3
loại hình gồm một phần ODA không hoàn lại, một phần ưu đãi và một phần

tín dụng thương mại.
* Các phương thức cung cấp ODA:
Hỗ trợ cán cân thanh toán: là các khoản ODA cung cấp để hỗ trợ ngân
sách của Chính phủ, thường được thực hiện thông qua các dạng: chuyển giao
tiền tệ trực tiếp cho nước nhận ODA và Hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng
hoá); Tín dụng thương nghiệp: tương tự như viện trợ hàng hoá nhưng có kèm
theo các điều kiện ràng buộc. Chẳng hạn nước cung cấp ODA yêu cầu nước
nhận phải dùng phần lớn hoặc hầu hết vốn viện trợ để mua hàng ở nước
cung cấp
Hỗ trợ chương trình: là nước viện trợ và nước nhận viện trợ ký hiệp
định cho một mục đích tổng quát mà không cần xác định
chính xác khoản
viện trợ sẽ được sử dụng như thế nào
Hỗ trợ dự án: chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn thực hiện ODA.
Điều kiện để được nhận viện trợ dự án là" phải có dự án cụ thể, chi tiết về
các hạng mục sẽ sử dụng ODA
* Phân loại theo nguồn cung cấp:
ODA song phương: là các khoản viện trợ trực tiếp từ nước này đến
nước kia ( nước phát triển viện trợ cho nước đang và kém phát triển) thông
qua hiệp định được ký kết giã hai chính phủ
ODA đa phương: là viện trợ phát triển chính thức của một tổ chức
quốc tế, hay tổ chức khu vực hoặc của chính một nước dành cho Chính
phủ một nước nào đó, nhưng có thể được thực hiện thông qua các tổ chức đa
phương như UNDP ( Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc)…có thể
các khoản viện trợ của các tổ chức tài chính quốc tế được chuyển trực tiếp
cho bên nhận viện trợ.
* Các lĩnh vực ưu tiên sử dụng ODA:
Đối với nguồn vốn ODA không hoàn lại: Vốn ODA không hoàn lại
được ưu tiên đầu tư cho các lĩnh vực sau: Y tế, dân số và kế hoạch hoá gia
đình, giáo dục và đào tạo, văn hoá, xã hội, nghiên cứu các chương trình, dự án

phát triển và tăng cường năng lực thể chế, bảo vệ môi trường, môi sinh, quản
lý đô thị, hỗ trợ nghiên cứu khoa học công nghệ, hỗ trợ ngân sách, …
Đối với nguồn vốn ODA hoàn lại hoặc ODA hồn hợp: Các lĩnh vực
được ưu tiên của hình thức này gồm có: năng lượng, giao thông vận tải, nông
nghiệp, thuỷ lợi, thông tin liên lạc, xã hội
1.3. Chính sách cung cấp ODA của Nhật Bản:
1.3.1. Quan điểm của NB về ODA:
Quốc hội Nhật Bản thông qua Hiến Chương ODA tháng 6 năm
1992. Hiến Chương ODA nhằm tăng cường sự hiểu biết và thu hút sự hỗ trợ
rộng rãi trong nước và quốc tế đối với các chương trình ODA. Hiến
chương ODA là một sự đánh giá tổng hợp về chính sách viện trợ của Nhật
Bản dựa trên các kết quả đã đạt được, các kinh nghiệm và các bài học rút
ra từ các chương trình. Hiến chương nhấn mạnh vào các điểm: nhân đạo,
bảo vệ môi trường, hỗ trợ các nỗ lực phát triển kinh tế của các nước đang
phát triển.
Theo Hiến chương này, ODA của Nhật được thực hiện dựa trên
việc đánh giá tổng hợp yêu cầu của nước muốn nhận ODA, tình hình kinh tế
của nước này cũng như quan hệ song phương của Nhật và nước này, tuân
theo các nguyên tắc sau:
- Theo đuổi việc phát triển và bảo vệ môi trường
- Tránh sử dụng ODA cho các mục đích quân sự
- Xem xét đến vấn đề chi phí quân sự, phát triển và sản xuất vũ khí
huỷ diệt và tên lửa của nước nhận viện trợ
- Xem xét các nỗ lực phát huy dân chủ và chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trường và các tình trạng liên quan đến các nhu cầu tối thiểu của con
người và nhân quyền tại quốc gia nhận viện trợ
1.3.2.
Lịch sử cung cấp ODA của Nhật Bản
Có thể phân chia lịch sử cung cấp ODA của Nhật Bản làm 04 giai đoạn
như

sau:
Giai đoạn 1: (Từ 1954 đến 1963) Viện trợ mang ý nghĩa bồi thường
chiến tranh.
Giai đoạn này Nhật Bản cung cấp viện trợ chủ yếu cho một số quốc
gia Đông Nam Á như Miến Điện, Philippine, Indonesia, Lào, Việt Nam.
Giai đoạn 2: (Từ 1964 đến 1988) Tăng cường và đa dạng hoá viện trợ.
Giai đoạn này nền kinh tế Nhật phát triển mạnh. Bên cạnh đó, Chính phủ
Nhật Bản muốn mở rộng quan hệ và gây ảnh hưởng với nhiều nước đang và
chậm phát triển. Giai đoạn này, ngoài khu vực Đông Nam Á, Nhật đã mở
rộng viện trợ ODA cho các khu vực khác như Đông Á, Phi Châu và Nam
Mỹ.
Giai đoạn 3: (Từ 1989 đến 1995) Vươn lên là cường quốc số 1 thế
giới về viện trợ song phương.
Nền kinh tế Nhật rất hùng mạnh trong giai đoạn này. Lần đầu tiên
Nhật vượt qua Mỹ, trở thành quốc gia cung cấp viện trợ song phương lớn nhất
trên thế giới vào năm 1989 (đạt 8,4 tỷ USD trong khi viện trợ của Mỹ là 8,1 tỷ
USD).
Đối tượng nước nhận viện trợ cũng được mở rộng đến hầu hết các khu
vực trên thế giới.
Giai đoạn 4: (từ 1996 đến nay) Cắt giảm viện trợ và thay đổi mục tiêu
đầu tư. Do suy thoái kinh tế trong nước dẫn đến thâm hụt ngân sách buộc
Chính phủ Nhật Bản phải cắt giảm khối lượng viện trợ kể từ năm 1996.
Đồng thời với quá trình cắt giảm viện trợ, mục tiêu viện trợ cũng có
những thay đổi đáng chú ý.
* ODA được cho là sát thủ kinh tế của Nhật Bản:
1.3.3. Thực hiện ODA của Nhật Bản:
Nhật Bản là nhà tài trợ ODA lớn nhất trên thế giới, với ngân sách tài
trợ mỗi năm khoảng 10 tỷ USD.
Nhật Bản đã cung cấp ODA cho hơn 150 nước và là nước viện trợ
ODA song phương lớn nhất tại 47 nước trong tổng số 150 nước nhận viện trợ

trên. Từ năm đầu thập niên 1990 đến năm 2000, trong khi viện trợ
ODA của các nước của Uỷ Ban hỗ trợ phát triển (DAC) thuộc OECD
giảm nhẹ thì ODA Nhật Bản tăng gần 50%.
Để trở thành nhà cung cấp tài trợ lớn nhất trên thế giới hiện nay, Nhật
Bản đã phải trải qua một quá trình phát triển kinh tế xã hội lâu dài và bền
bỉ. Mới chỉ cách đây hơn 50 năm, Nhật Bản còn là một trong những nước
nhận viện trợ của nước ngoài. Sau Đại chiến Thế giới lần thứ II (1945), nền
kinh tế Nhật Bản bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Để ổn định và phát triển
đất nước, Nhật Bản đã tự nỗ lực rất cao, đồng thời tiếp nhận nhiều nguồn viện
trợ song phương và đa phương.
Nhật Bản thường dành trên 60% tổng số vốn ODA của mình để ưu
tiên cho 3 lĩnh vực: (1) Cơ sở hạ tầng hành chính và xã hội, (2) Cơ sở hạ
tầng kinh tế, (3) Hỗ trợ sản xuất.
1.3.4. Các loại hình ODA Nhật Bản
Hình thức cung cấp ODA của Nhật Bản rất đa dạng, bao gồm:
 Viện trợ không hoàn lại
 Hỗ trợ kỹ thuật,
 Cho vay với các điều kiện ưu đãi
 Hỗ trợ khẩn cấp quốc tế
Đóng góp cho các tổ chức đa phương
Trong các hình thức này, đáng chú ý là ba loại ODA song phương sau:
Viện trợ không hoàn lại là viện trợ dành cho các nước đang phát triển
mà không yêu cầu nước nhận viện trợ phải hoàn lại nguồn vốn viện trợ.
Mục tiêu chính của viện trợ không hoàn lại là nhằm phục vụ cho các nhu
cầu thiết yếu của con người, phát triển nguồn nhân lực, và xây dựng cơ sở hạ
tầng. Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản – JICA chịu trách nhiệm thực hiện
các dự án viện trợ không hoàn lại của Nhật Bản.
Hợp tác kỹ thuật nhằm mục đích tăng cường nguồn nhân lực và xây
dựng thể chế thông qua chuyển giao kỹ thuật và kiến thức thích hợp cho các
nước nhận viện trợ. JICA chịu trách nhiệm thực hiện hợp tác kỹ thuật và cố

gắng tìm kiếm sự hỗ trợ hài hoà cho các nước nhận viện trợ
Cho vay song phương (vốn vay bằng đồng yên) là cho chính phủ các
nước nhận viện trợ vay ưu đãi. Vốn vay chủ yếu được sử dụng để nâng cấp
cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội như đường sá, cầu cống, hệ thống bưu chính
viễn thông và phát triển nông nghiệp. Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản
(JBIC) chiu trách nhiệm thực hiện các dự án cho vay song.
1.3.5. Hiện trạng ODA Nhật Bản tại một số nước:
1.3.5.1. ODA Nhật Bản tại Trung Quốc:
 Viện trợ ODA của Nhật cho Trung Quốc bao gồm ba lĩnh vực: viện
trợ có hoàn lại, viện trợ không hoàn lại và hợp tác kỹ thuật. Trong ba khoản
viện trợ này thì viện trợ có hoàn lại thường chiếm tỉ lệ cao.
 Kim ngạch viện trợ song phương của Nhật Bản đối với Trung Quốc
thường chiếm trên 50% tổng kim ngạch viện trợ hàng năm của các nước
trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh Tế (OECD) dành cho Trung Quốc.
a. Các lĩnh vực NB ưu tiên đầu tư vào TQ:
- Môi trường: Nhật Bản vận dụng các công nghệ và kinh nghiệm của
mình để hỗ trợ Trung Quốc dựa trên các nhu cầu của nước này. Chuyển
giao công nghệ trong các lĩnh vực như tái chế rác thải, cac biện pháp
chống ô nhiễm môi trường.
- Nông nghiệp: Tăng năng suất nông nghiệp để đảm bảo cung cấp
lương thực ổn định của Trung Quốc. Nhật Bản hỗ trợ trong việc cải tạo cơ
sở hạ tầng nông nghiệp như thuỷ lợi và các hệ thống xử lý nước thải, cung
cấp các trang thiết bị để xây dựng, cung cấp phân bón và các trang thiết bị
nông nghiệp, thúc đẩy việc vận dụng các máy móc và công nghệ mới đến các
khu vực nông thôn
- Cơ sở hạ tầng : Trong lĩnh vực này, Nhật Bản hỗ trợ Trung Quốc cải
thiện các cơ sở hạ tầng lạc hậu gây trở ngại trong quá trình phát triển kinh
tế như giao thông, liên lạc, phát điện qua việc (1) trong giao thông vận tải,
Nhật Bản giúp xây dựng các cơ sở hạ tầng và cải thiện các công nghệ
quản lý và bảo dưỡng nhằm tăng tính hiệu quả của giao thông; (2) trong năng

lượng, Nhật Bản hỗ trợ xây các nhà máy điện và các đường dây truyền tải
điên nhằm giảm sự mất cân bằng giữa các vùng đồng thời cũng chú trọng
đến việc chống ô nhiễm môi trường, (3) trong liên lạc, Nhật Bản hợp tác
để cải thiện cơ sở hạ tầng viễn thông liên lạc của Trung Quốc và giúp phát
triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực này.
- Y tế: Trung Quốc cần tiếp tục cải thiện các dịch vụ y tế tại các khu vực
nông thôn. Để giảm sự mất cân đối về vùng, Nhật Bản hỗ trợ cải thiện các
dịch vụ y tế khu vực, chú trọng đến việc tăng cường y tế dự phòng và chăm
sóc sức khoẻ ban đầu trong các khu vực nông thôn
- Nguồn nhân lực: Nhật Bản hỗ trợ trong việc cải thiện giáo dục cơ bản,
cung cấp các tư liệu giáo dục và xây dựng các trường học. Nhật Bản hỗ trợ
phát triển nguồn nhân lực về kỹ sư bậc trung và quản lý qua việc cử chuyên
gia Nhật và gửi đối tác đi đào tạo tại Nhật.
b. Thực hiện ODA Nhật Bản tại Trung Quốc:
Năm 1979, khi đương nhiệm thủ tướng Nhật Bản Masayoshi Ohira
trong chuyến thăm Trung Quốc đã tuyên bố đợt viện trợ vốn vay yên Nhật đầu
tiên dành cho Mỹ với tổng giá trị là 330,9 tỷ yên Nhật; thực hiện lần vay vốn
yên Nhật đợt 2 trong giai đoạn 1984-1989, vốn cam kết phía Nhật là 470 tỷ
yên; sau đó, do tỷ giá đồng Yên tăng mạnh nên tăng thêm 70 tỷ yên, dùng
trong kế hoạch phát triển cơ sở hàng hóa xuất nhập khẩu của Trung Quốc,
tổng vốn tăng lên là 540 tỷ yên; đợt vốn vay yên Nhật lần 3,4 có giá trị lần
lượt là 810 tỷ yên và 970 tỷ yên. Kể từ sau năm 2001, Nhật Bản bắt đầu cắt
giảm khoản vay yên Nhật dành cho Trung Quốc, khi đó cắt giảm 25%, tức là
161,366 tỷ yên, năm 2002 cắt giảm khoảng 121,214 tỷ yên. Năm 2007, Nhật
Bản cuối cùng dừng vốn vay yên Nhật dành cho Trung Quốc.
Tổng số ODA Nhật Bản cho Trung Quốc mà chủ yếu dưới hình thức
vốn vay ODA đã góp phần vào việc giảm bớt những khó khăn về cơ sở hạ
tầng tại các vùng duyên hải của Trung Quốc và làm ổn định kinh tế vĩ mô
của nước này.
Thêm vào đó, các khoản viện trợ không hoàn lại và hợp tác kỹ thuật đã

góp phần vào các lĩnh vực y tế, sức khoẻ, bảo vệ môi trường và phát triển
nguồn nhân lực.
ODA Nhật Bản do đó đã hỗ trợ Chính sách Mở cửa và Cải cách của
Trung Quốc và có vai trò quan trọng vào sự phát triển vượt bậc của Trung
Quốc.
c. Xu hướng của ODA Nhật Bản trong thời gian tới:
ODA Nhật Bản có đóng góp quan trọng trong việc phát triển kinh tế
của Trung Quốc. Tuy nhiên, tình hình kể từ khi Nhật bắt đầu các khoản ODA
cuả mình cho Trung Quốc so với tình hình hiện tại đã có những thay đổi to
lớn do đó việc thực hiện ODA của Nhật Bản cũng phải phản ánh được đầy
đủ các thay đổi đó. Các thay đổi chính có thể kể ra đây là:
Nhật Bản đang gặp phải các khó khăn về kinh tế và tài chính. Trong lúc
đó, Trung Quốc đã có sự phát triển về mặt kinh tế và quân sự, và hiện đang
nổi lên với tư cách là một đối thủ kinh doanh cạnh tranh. Có sự hoài nghi tại
Nhật về việc tăng ODA cho Trung Quốc, việc Trung Quốc hiện đại hoá khả
năng quân sự của mình.
Trung Quốc đã có khả năng phát triển quỹ dành cho khu vực tư nhân từ
các thị trường trong và ngoài nước và thực tế thì. Việc này dẫn đến những
thay đổi về nhu cầu và kỳ vọng của Trung Quốc đối với ODA Nhật Bản.
Các phương châm cơ bản để thực hiện ODA Nhật đối với Trung
Quốc trong tương lai bao gồm:
Nhật Bản xem xét chi tiết các đề nghị dự án và việc thực hiện viện trợ
một cách có hiệu quả dựa trên các khu vực ưu tiên cũng như các vấn đề liên
quan đến các nhu cầu phát triển cho các lợi ích quốc gia của Trung Quốc và
Nhật Bản có sự hiểu biết và hỗ trợ từ người dân Nhật Bản.
Trung Quốc phải tự thực hiện các chương trình mà khả năng nước
này có thể đảm đương được.
Nỗ lực thực hiện các mục tiêu của hợp tác Nhật Bản và Trung Quốc
bằng cách điều phối ODA bằng cả nguồn vốn nhà nước và tư nhân.
Nhật Bản nên thực hiện ODA theo đường lối có thể khuyến khích

các nỗ lực của Trung Quốc nhằm theo đuổi kinh tế thị trường.
Cần chú ý để đảm bảo thực hiện ODA Nhật Bản đối với Trung Quốc
không dẫn đến việc tăng cường khả năng quân sự của Trung Quốc và theo
đúng các nguyên tắc của Hiến Chương ODA.
Nhật Bản chú trọng tập trung ODA vào các lĩnh vực như bảo tồn môi
trường và hệ sinh thái, ô nhiễm và thoái hoá môi trường, cải thiện tiêu chuẩn
sống và phát triển xã hội tại các khu vực đất liền, phát triển nguồn nhân lực,
xây dựng thể chế, và chuyển giao công nghệ.
1.3.5.2. ODA Nhật Bản tại Indonesia:
Indonesia là một trong những quốc gia nhận viện trợ ODA lớn nhất
từ Nhật Bản. Kể từ thập niên 1960, Indonesia cùng với Đài Loan và Hàn
Quốc trở thành những nước ưu tiên đối với ODA Nhật Bản. Vào đầu thập
niên 70, Chính phủ Nhật Bản đã cam kết những khoản viện trợ kinh tế lớn
cho Indonesia và đã gia nhập Nhóm liên Chính phủ cho Indonesia
(Intergovernmental Group for Indonesia - IGGI), một hiệp hội những nhà tài
trợ. ODA của Nhật đã đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế và xã hội
của Indonesia.
a. Các lĩnh vực ưu tiên hỗ trợ:
- Đạt được sự bình đẳng:Nhấn mạnh vào các lĩnh vực: (1) giảm
nghèo bằng cách nâng cao mức sống cho người nghèo; (2) hỗ trợ cho các
nhu cầu tối thiểu của con người (BHN) qua việc cải thiện điều kiện sống và
y tế; (3) kế hoạch hoá gia đình, chống AIDS; (4) Phát triển miền Đông
Indonesia để giảm thiểu sự khác biệt giữa các vùng.
- Giáo dục và Phát triển nhân lực: Nhấn mạnh đến các vấn đề sau: (1)
cỉa thiện giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; (2) cải thiện trình độ giáo viên;
(3) cải thiện giáo dục kỹ sư và kỹ thuật viên.
- Bảo vệ môi trường: nhấn mạnh các lĩnh vực sau: (1) bảo tồn và đảm
bảo tính bền vững của rừng và các tài nguyên thiên nhiên khác, bảo vệ môi
trường tự nhiên và sự đa dạng sinh học; (2) hợp tác để cải thiện điều kiện
sống và kiểm soát ô nhiễm tại các khu vực đô thị; (3) xây dựng các tổ chức

để giải quyết các vấn đề môi trường: tăng cường năng lực thực hiện các
chính sách môi trường
- Hỗ trợ tái cơ cấu công nghiệp: chú trọng đến các vấn đề sau: (1) hỗ
trợ kinh tế vĩ mô; (2) thúc đẩy các ngành công nghiệp hỗ trợ; (3) phát triển
nông nghiệp: đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp, tăng các sản phẩm có
giá trị gia tăng cao.
- Cơ sở hạ tầng công nghiệp và kinh tế: Các lĩnh vực chú trọng là: (1)
điện; (2) phát triển nguồn nước; (3) giao thông; (4) liên lạc.
b. Thực hiện ODA Nhật tại Indonesia
Phần lớn (75%) ODA Nhật cho Indonesia là dưới hình thức các khoản
vay ODA. Phần lớn các khoản vay này nhằm vào việc cung cấp, mua sắm
các các thiết bị đắt tiền, các máy móc công-nông nghiệp, nguyên liệu
thô. phân bón và thuốc trừ sâu, các công trình dân dụng, các dịch vụ tư
vấn và các nhu cầu khác.
c. Xu hướng mới về các vấn đề ưu tiên của ODA Nhật Bản với
Indonesia trong những năm gần đây
Các khu vực ưu tiên của ODA Nhật Bản gồm bốn vấn đề sau:
- Quản lý và phi tập trung hoá: Indonesia đang trong giai đoạn bắt đầu
tiến hành cải cách thể chế và cần sự hỗ trợ trong việc xây dựng các cơ cấu và
quy tắc phát triển mới. Viện trợ từ Nhật Bản tập trung sự hỗ trợ vào việc tăng
cường các chức năng của nhà nước và phát huy dân chủ
Đối với phi tập trung hoá đòi hỏi cải tổ hệ thống kinh tế chính trị và xã
hội tại Indonesia thông qua việc tái phân bổ các nguồn lực và phân quyền đến
cấp địa phương. Nhật Bản hỗ trợ trong việc xây dựng năng lượng địa phương
qua việc phát triển nguồn nhân lực địa phương và hệ thống thông tin giữa các
vùng
- Phục hồi kinh tế: Indonesia là nước chịu ảnh hưởng nặng nhất từ cuộc
khủng hoảng tiền tệ Châu Á. Trước tình trên, Indonesia cần có sự hỗ trợ về
tài chính và hợp tác kỹ thuật trong khu vực tài chính .
Nhật Bản cũng sẽ hỗ trợ thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm

củng cố nền tảng cho phát triển kinh tế. Nhật Bản chú trọng đến mối liên hệ
giữa tư vấn kỹ thuật/quản lý và hỗ trợ tài chính.
- Phát triển xã hội và giảm nghèo: Hỗ trợ của Nhật sẽ tập trung vào năm
lĩnh vực là Tác động cuả cuộc khủng hoảng kinh tế và Mạng lưới An sinh xã
hội, Lương thực, Giáo dục và Dịch vụ y tế và sức khoẻ, và Việc làm.
- Các vấn đề môi trường: Trong năm 1997-1998, các vụ cháy rừng
ở Indonesia đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái rừng.
Đồng thời, việc khai thác rừng bừa bãi và các nguồn tài nguyên rừng xuống
cấp ngày càng gia tăng ở nước này. Nhật Bản hỗ trợ Indonesia trong vấn đề
Bảo tồn rừng và phòng chống cháy rừng.
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH CUNG CẤP ODA CỦA NHẬT BẢN VỚI
VIỆT NAM
Ngay sau khi nối lại viện trợ cho Việt Nam vào năm 1981, Nhật Bản đã
liên tục dẫn đầu danh sách các quốc gia viện trợ ODA cho Việt Nam, chiếm
30% tổng khối lượng ODA mà các nước cam kết dành cho Việt Nam.
Kinh tế Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong nhiều năm trở lại đây, bên
cạnh nỗ lực không ngừng của Chính phủ, doanh nghiệp , còn phải kể đến các
nguồn vốn từ nước ngoài, trong đó có sự hỗ trợ về nguồn vốn vay ưu đãi của
Nhật Bản dành cho Việt Nam.
Điểm qua các công trình xây dựng trọng điểm trên cả nước đã và đang
thực hiện, khá nhiều công trình có sự hỗ trợ tài chính của Chính phủ Nhật:
như cầu Bãi Cháy, nhà ga hành khách quốc tế mới sân bay Tân Sơn Nhất,
đường cao tốc Đông Tây Sài Gòn, đường hầm Hải Vân, nhà máy nhiệt điện
Phả Lại, nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ, dự án cải thiện môi trường nước ở Hà
Nội và TP.HCM
2.1. Xu hướng ODA Nhật Bản vào Việt Nam:
Chính Phủ Nhật Bản công bố chính sách hỗ trợ cho Việt Nam lần đầu
tiên vào năm 1994, và tính tới những phát triển kinh tế xã hội gần đây cùng
với những thách thức mới để hình thành nên "Chương trình hỗ trợ cho Việt
Nam" vào tháng 6 năm 2000.

Trong "Chương trình hỗ trợ cho Việt Nam", ODA của Nhật Bản cho
Việt Nam đặt ưu tiên cao vào đạt mức phát triển kinh tế cân bằng với 2
mục tiêu cụ thể: (1) tạo điều kiện căn bản cho phát triển bền vững; (2) hỗ trợ
cho những nỗ lực xoá đói giảm nghèo
Để theo đuổi những mục tiêu có liên quan chặt chẽ đến nhau này, Nhật
Bản hoạch định năm lĩnh vực ưu tiên hỗ trợ sau đây cho Việt Nam:
a. Phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế, đặc biệt hỗ trợ cho
quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế định hướng thị trường.
b. Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực điện lực và giao
thông vận tải
c. Phát triển nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là xây dựng cơ sở hạ
tầng nông nghiệp và chuyển giao kỹ thuật nông nghiệp.
d. Y tế và giáo dục.
e. Bảo vệ môi trường (rừng, môi trường đô thị, phòng chống ô nhiễm
công nghiệp).
2.2. Đặc điểm chính của ODA Nhật Bản đối với Việt Nam
2.2.1. Phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế:
Một trong những điểm đáng chú ý của ODA Nhật Bản cho Việt Nam
là việc hợp tác toàn diện và có chiều sâu trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân
lực và xây dựng thể chế. Ba loại hình hỗ trợ tri thức của Nhật Bản là:
- Tư vấn chính sách về định hướng phát triển
- Phát triển hệ thống luật pháp chính sách thể chế
- Phát triển nguồn nhân lực.
Các dự án lớn trong lĩnh vực này là:
a. Nghiên cứu chính sách phát triển kinh tế cho quá trình chuyển đổi sang
kinh tế thị trường ở Việt Nam - Dự án Ishikawa:
Dự án được Chính Phủ Việt Nam và Chính Phủ Nhật Bản thống nhất
trong chuyến đi thăm Tokyo của cựu tổng bí thư Đỗ Mười vào tháng 4
năm 1995. Dự án nhằm hỗ trợ Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền
kinh tế theo định hướng thị trường. Cơ Quan Hợp Tác Quốc Tế Nhật Bản

(JICA) và Bộ Kế Hoạch Đầu Tư (trước là Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước) thực
hiện. Dự án được thực hiện trong 6 năm từ năm 1995 đến năm 2001, chia
làm 3 giai đoạn chính. Lĩnh vực của dự án gồm nông nghiệp và phát triển
nông thôn, thương mại và công nghiệp, tài chính và tiền tệ, cải cách doanh
nghiệp quốc doanh và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Dự án tiến hành các chủ để nghiên cứu trên các lĩnh vực đã được lựa
chọn và hỗ trợ quá trình phác thảo Kế hoạch 5 năm lần thứ 6 (1996-2000),
cố vấn kịp thời việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 6 và những vấn đề mới
nổi khác như việc Việt Nam gia nhập AFTA, WTO, đối phó với cuộc khủng
hoảng tài chính Châu Á, hỗ trợ việc hình thành kế hoạch 5 năm lần thứ 7.
Dự án đã đóng góp quan trọng vào 3 lĩnh vực cụ thể: (1) gợi ý về các
lựa chọn chính sách có tính chiến lược cho chương trình phát triển dài hạn.
(2) cho ra đời một số nghiên cứu gồm cả đánh giá phân tích về các vấn đề
phát triển nổi cộm ở Việt Nam. (3) hỗ trợ kỹ thuật cho các nhà hoạch định
chính sách ở Việt Nam về phương pháp nghiên cứu và tiếp cận phát triển
của Nhật Bản thông qua quá trình hợp tác.
b. Khoản vay hỗ trợ cải cách kinh tế (Sáng kiến mới Miyazawa):
Đây là khoản vay điều chỉnh cơ cấu có thời hạn tự do đầu tiên của
Nhật Bản với điều kiện được xây dựng trên thảo luận về chính sách giữa hai
chính phủ Việt Nam và Nhật Bản. Khoản vay này giải ngân nhanh nhằm hỗ
trợ cải thiện cán cân thanh toán và những nỗ lực cải cách kinh tế của Việt
Nam. Công hàm trao đổi và Hiệp định vay vốn được ký vào tháng 9 năm
1999 và khoản vay trị giá 20 tỉ yên được giải ngân toàn bộ trong năm 2000.
Ngân Hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) là cơ quan thực hiện dự án
phía Nhật.
"Sáng kiến mới Miyazawa" hỗ trợ trên 3 lĩnh vực: (1) xây dựng và
công bố một chương trình thúc đẩy phát triển tư nhân; (2) kiểm toán một số
doanh nghiệp Nhà Nước lớn; (3) chuyển đổi hàng rào phi thuế quan sang
thuế quan.
c. Hỗ trợ hệ thống pháp lý:

Để thúc đẩy chuyển dịch thị trường, Việt Nam cần nhanh chóng thiết
lập một khuôn khổ pháp lý hiện đại, phát triển một một đạo luật thương mại
và các quy chế luật pháp khác nhau. Trong dự án của JICA "Hỗ trợ hình
thành Chính sách cơ bản của Chính phut về Hệ thống luật pháp" Giai đoạn I
1996-1999, Nhật Bản đã cử các chuyên gia và hỗ trợ phác thảo và thực hiện
các bước cải cách luật pháp và tư pháp. Trong giai đoạn II (1999-2002),
việc hỗ trợ được mở rộng sang các cơ quan có liên quan khác gồm cả Toà án
Nhân dân Tối cao và Viện kiểm soát Nhân dân Tối cao.
d. Phát triển nguồn nhân lực:
Để tạo điều kiện hoà nhập kinh tế và chuyển đổi sang kinh tế thị
trường một cách thuận lợi, Việt Nam cần nâng cao kiến thức và trình độ của
các doanh nghiệp và đội ngũ kỹ thuật sản xuất. Thông qua JICA, Nhật
Bản đã hỗ trợ thành lập "Trung Tâm Phát Triển Nhân Lực Việt Nam-
Nhật Bản" ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Các trung tâm này có vai
trò là những tổ chức quan trọng cung cấp nguồn nhân lực cần thiết cho kinh
tế thị trường tại Việt nam, phát huy sự hiểu biết lẫn nhau và củng cố mối
quan hệ thân thiện giữa Việt Nam và Nhật Bản. Đồng thời, Nhật Bản cũng hỗ
trợ các khoá đào tạo cho các kỹ sư cơ khí ở Hà Nội
2.2.2. Phát triển cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực giao thông và điện lực:
Phát triển cơ sở hạ tầng chiếm phần lớn nhất trong ODA của Nhật với
Việt Nam về cả khối lượng và số lượng các dự án. Trong các kế hoạch về
ODA của Nhật thì vốn vay đồng yên là công cụ chính để hỗ trợ các lĩnh vực
này. Các dự án vốn vay đồng yên có nhiều ưu điểm như Nghiên cứu khả thi
và Thiết kế chi tiết được chuẩn bị kỹ càng, cử chuyên gia đến các đơn
vị thực thi và đào tạo nhân viên phía đối tác, điều này tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thực hiện dự án được suôn sẻ.
a. Giao thông vận tải:
Trong lĩnh vực này, việc xây dựng mạng lưới đường xá. cầu cống và
cảng trọng điểm được hỗ trợ thông qua vốn vay đồng yên. Các công trình
cơ sở hạ tầng này kết nối các khu vực trung tâm chính của Việt Nam.

b. Điện lực:
Trong lĩnh vực này, Nhật Bản tài trợ vốn ODA để xây dựng các nhà
máy điện và hệ thống cung cấp điện, đặc biệt tập trung vào các thiết bị có
quy mô lớn nhằm đáp ứng nhu cầu về điện ngày càng tăng nhanh. Các dự án
thực hiện bằng nguồn vốn ODA của Nhật có ảnh hưởng lớn đối với sự phát
triển chung của Việt Nam.
2.2.3. Hỗ trợ các lĩnh vực ưu tiên khác:
Bên cạnh hai lĩnh vực nêu ở trên, Nhật Bản có những đóng góp quan
trọng cho việc hỗ trợ những nỗ lực của Việt Nam trong việc xoá đói giảm
nghèo và phát triển nông thôn.
a. Phát triển nông thôn
Nhật Bản đã có sự hợp tác về kỹ thuật với các trường đại học nông
nghiệp trong việc nghiên cứu và khuyến nông. Bên cạnh đó, thông qua các
dự án vốn vay đồng yên, Nhật Bản đã hỗ trợ phát triển nông thôn, cơ sở
hạ tầng thiết yếu bao gồm các lĩnh vực về đường xá, điện năng và thuỷ lợi.
b. Giáo dục và sức khoẻ :
Trong lĩnh vực giáo dục, 195 trường tiểu học đã được xây dựng bằng
nguồn vốn hỗ trợ không hoàn lại. Về lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ, Nhật Bản
đã trợ giúp việc nâng cấp dịch vụ và thiết bị y tế thông qua các khoản vay
không hoàn lại và hợp tác kỹ thuật. Nhật Bản đã đóng góp vào việc cải
thiện chất lượng và khả năng tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ
cộng đồng.
c. Môi trường
Các dự án vốn vay đồng yên tập trung vào việc cải thiện việc cung
cấp nước và hệ thống vệ sinh đồng thời nâng cao điều kiện sống tại các khu
vực đô thị dân cư đông đúc.
2.3. Thực hiện ODA của Nhật Bản tại Việt Nam:
2.3.1. Quá trình thực hiện dự án của Nhật:
* Từ năm 2002 - 2006, tổng vốn viện trợ Nhật Bản cho Việt Nam vào
khoảng 479 tỉ Yen, tương đương 4,1 tỉ USD.Không chỉ quan tâm đến việc

nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông, Chính phủ Nhật Bản cũng dành nhiều
khoản vay và hỗ trợ ưu đãi để phát triển các lĩnh vực xã hội như y tế, giáo
dục.Từ năm 2002 - 2006, Chính phủ Nhật tiến hành viện trợ cho 26 dự án
chính liên quan đến xây dựng trường tiểu học và trung học cơ sở, cung cấp
thiết bị y tế, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, đào tạo nghề với tổng vốn 213 triệu
Yen. Trong năm 2007, Chính phủ Nhật cũng đã viện trợ cho 3 dự án, trong đó
có 1 dự án cung cấp máy in chữ nổi cho người mù vừa mới ký cam kết thực
hiện.
* Năm 2007- 2009: trong năm tài khóa 2007, tổng cộng Việt Nam nhận
được khoản viện trợ ODA là 640 triệu USD, trong đó viện trợ không hoàn lại
là 18 triệu USD, viện trợ dưới dạng hợp tác kỹ thuật là 74 triệu USD và viện
trợ vốn vay là 548 triệu USD. Theo tài liệu thống kê 30 nước nhận viện trợ
ODA của Nhật Bản năm 2007 được công bố trong cuốn sách trắng nói trên
thì Việt Nam đang đứng thứ 29 trong các nước về nhận viện trợ không hoàn
lại, đứng thứ 3 về viện trợ hợp tác kỹ thuật và đứng thứ nhất về nhận viện trợ
vốn vay từ Nhật Bản.
Năm 2009, Chính phủ Nhật Bản cung cấp cho Việt Nam 25,822 tỷ yen
ODA vốn vay thuộc đợt 2, tài khóa 2009 (kết thúc vào ngày 31/3/2010).
Trước đó, cam kết ODA vốn vay đợt 1 của Nhật Bản dành cho Việt
Nam trong tài khóa 2009 là 120 tỷ yen, tương đương khoảng 1,2 tỷ USD. Số
vốn này bao gồm 64,891 tỷ yen vốn ODA, 7 tỷ yen hỗ trợ Chương trình tín
dụng giảm nghèo, 47,9 tỷ yen giúp Việt Nam vượt qua khủng hoảng tài chính.
Tổng cộng, tổng cam kết ODA vốn vay mà Chính phủ Nhật Bản dành cho
Việt Nam trong tài khóa 2009 là 145,613 tỷ yen, tương đương khoảng 1,46 tỷ
USD, con số cao nhất từ trước đến nay.
Khoản tài trợ cho đợt 2 lần này được dùng để cung cấp vốn cho 5 dự
án, bao gồm dự án xây dựng nhà ga hành khách - cảng hàng không quốc tế
Nội Bài (12,6 tỷ yen); dự án đường từ cầu Nhật Tân đi Nội Bài (6,5 tỷ yen);
dự án cầu Cần Thơ (4,63 tỷ yen); dự án khôi phục cầu quốc lộ 1 giai đoạn 3
(đoạn Cần Thơ - Cà Mau, 1,04 tỷ yen); dự án hạ tầng khu công nghệ cao Hòa

Lạc (1 tỷ yen). Dự án cơ sở hạ tầng khu công nghệ cao Hòa Lạc hiện vẫn ở
giai đoạn bắt đầu. Trong thời gian tới, dự án sẽ được chia làm nhiều phần nhỏ
hơn và được phía Nhật Bản tiếp tục rót vốn.
Với 25,822 tỷ yen tín dụng ưu đãi được ký kết chính thức từ hôm nay,
cam kết ODA (bao gồm viện trợ không hoàn lại và tín dụng ưu đãi) của Nhật
Bản từ 1992 đến nay đạt 1.557 tỷ yen. Con số này chiếm khoảng 30% tổng số
vốn tài trợ của cộng đồng quốc tế, đưa Nhật Bản nhiều năm liền giữ vững vị
trí nhà tài trợ lớn nhất dành cho Việt Nam.
* Trong năm tài khóa 2010 (kết thúc ngày 31-3-2011), vốn vay của Nhật
Bản cam kết cho Việt Nam lên tới hơn 86,5 tỷ Yên, tương đương 1 tỷ 41 triệu
USD dành cho 6 dự án
21/1/2011, Chính phủ Nhật Bản chính thức cung cấp cho Chính phủ
Việt Nam 58,18 tỷ yên (tương đương khoảng 700 triệu USD) ODA vốn vay
thuộc đợt 1 tài khóa 2010 của Chính phủ Nhật Bản (bắt đầu ngày 1/4/2010).
Khoản tài trợ ưu đãi này được cung cấp để giúp Chính phủ Việt Nam ba dự
án lớn. Đó là Dự án Xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn 1 (29,852 tỷ
yên); Dự án Xây dựng cầu Nhật Tân (24,828 tỷ yên) và Chương trình Tín
dụng giảm nghèo 9 (3,5 tỷ yên).
* Năm 2011, Nhật cam kết cho Việt Nam vay hơn 145 tỷ Yên, tương
đương 1,76 tỷ USD. Mức này đã vượt mức cam kết của năm tài khóa 2009 và
là mức cao kỷ lục kể từ năm 1992 khi Nhật Bản bắt đầu hỗ trợ ODA cho Việt
Nam. Ba dự án lớn là dự án xây dựng cầu Nhật Tân với trị giá hơn 24 tỷ Yên
(299 triệu USD), dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện Nghi Sơn II với trị giá
29,8 tỷ Yên (360 triệu USD) và Chương trình tín dụng hỗ trợ xóa đói giảm
nghèo lần thứ 9 với trị giá 3,5 tỷ Yên (42,1 triệu USD).
Cũng trong năm 2011, chính phủ Nhật Bản vừa quyết định cấp vốn viện
trợ phát triển chính thức (ODA) trị giá tới 40 tỷ yên cho Việt Nam để thực
hiện chương trình khám phá vũ trụ.Đây là lần đầu tiên Nhật Bản tài trợ vốn
ODA cho việc phát triển vũ trụ. Gói tín dụng này sẽ được chi cho 3 dự án ở
Việt Nam, gồm xây dựng trung tâm vũ trụ trên mặt đất, đào tạo các kỹ sư và

chế tạo 2 vệ tinh quan sát.
Cơ Quan Hợp Tác Quốc Tế Nhật Bản (JICA), Đại Sứ Quán Nhật và
Ngân Hàng Hợp Tác Quốc Tế Nhật Bản (JBIC) tại Việt Nam là hai cơ quan
chịu trách nhiệm về việc thực hiện các hình thức ODA Nhật tại Việt Nam.
2.3.2. Các dự án cụ thể của Nhật phân theo loại hình hợp tác:
a. Viện trợ không hoàn lại và hợp tác kỹ thuật
Cơ Quan Hợp Tác Quốc Tế Nhật Bản (JICA) chịu trách nhiệm
thực hiện hợp tác kỹ thuật sử dụng ODA song phương của Nhật, nhằm
chuyển giao kỹ thuật và kiến thức cho các nước đang phát triển. Bên
cạnh đó, JICA giúp đỡ xuc tiến thực hiện các dự án Viện trợ chung
không hoàn lại của Nhật Bản. JICA tìm kiếm sự hỗ trợ hài hoà phù hợp với
sự phát triển kinh tế xã hội của các nước nhận viện trợ. Hợp tác kỹ thuật bao
gồm các chương trình sau:
Hợp tác kỹ thuật: chương trình này gồm có các hình thức sau:
- Đào tạo Kỹ thuật
- Cử chuyên gia
- Cung cấp thiết bị
- Hợp tác kỹ thuật kiểu dự án
- Nghiên cứu phát triển
Cử tình nguyện viên JOCV và tình nguyện viên cao cấp Khảo sát và
quản lý chương trình viện trợ không hoàn lại Cứu trợ thiên tai
Các chương trình mới
- Hợp tác cùng phát triển
- Chương trình nâng cao năng lực cộng đồng
b. Những hoạt động và kết quả JICA đã đạt được tại Việt Nam:
*Chương trình đào tạo kỹ thuật
Chương trình này là một trong những hình thức cơ bản nhất trong
khuôn khổ hợp tác kỹ thuật. Đây là chương trình phát triển nguồn nhân
lực cơ bản nhất do JICA thực hiện.
Từ năm tài chính 1991 đến năm 2001, 5434 học viên Việt Nam được

cử đi học tại Nhật Bản theo nhiều khoá học khác nhau. Các học viên này
hiện đang góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng đất nước bằng nhiều cách
khác nhau.
* Chương trình mời thanh niên:
Chương trình Hữu nghị Thanh niên Nhật Bản - ASEAN nhằm tăng
cường mối quan hệ giữa Nhật Bản và các nước thành viên ASEAN. Hàng
năm 100 thanh niên Việt Nam tham gia chương trình này. Kể từ năm 1995,
hơn 700 thanh niên Việt Nam đã đi Nhật trong chương trình này.
* Chương trình cử chuyên gia Nhật Bản
Mục tiêu của chương trình này là chuyển giao và phổ biến các kiến
thức chuyên môn và kỹ thuật trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Tính đến
năm tài chính 2001, 493 lượt chuyên gia Nhật thuộc nhiều lĩnh vực chuyên
môn khác nhau như lâm nghiệp, nông nghiệp, tin học, thuỷ sản, giao
thông, công nghiệp, luật pháp, y tế…đã được cử sang Việt Nam. Trong năm
2000, có 288 chuyên gia Nhật đang làm việc tại Việt Nam.
* Hợp tác kỹ thuật kiểu dự án
Đây là một sự kết hợp 3 dạng hợp tác trong 1 dự án, đó là đào tạo đối
tác Việt Nam, cử chuyên gia và cung cấp thiết bị máy mõoc. Trong năm
2001, có 19 dự án đang hoạt động trên khắp Việt Nam.
Các dự án này thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như y tế, nông nghiệp,
giáo dục… Các dự án đáng chú ý là:
- Dự án Bệnh viện Chợ Rẫy
- Dự án Sức Khoẻ Sinh sản Nghệ An
- Dự án Tăng cường năng lực quản lý và chuyên môn Bệnh viện
Bạch Mai
- Dự án Trung Tâm Nguồn Nhân lực Việt - Nhật
- Dự án Đào tạo Công Nghệ Thông tin Việt Nam
* Nghiên cứu phát triển
Một phần của hỗ trợ kỹ thuật để thực hiện các kế hoạch tổng thể, các
nghiên cứu phát triển cho các dự án thuộc mọi lĩnh vực. Kết quả của các

nghiên cứu này là cơ sở quan trọng cho các loại hình ODA kiểu vốn vay
đồng yên. Đến năm 2001, 47 nghiên cứu đã được thực hiện trong nhiều lĩnh
vực khác nhau như:
- Phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế: Có 6 dự án, trong
đó có các dự án như "Thúc đẩy Công nghiệp, Thương mại, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ", "Cải cách các doanh nghiệp nhà nước".
- Phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế: Có 26 dự án thuộc các lĩnh vực
như Giao thông vận tải, Viễn thông và Công nghệ Thông tin, Điện, Nước, Du
lịch, Phát triển đô thị và vùng, Mỏ.
- Phát triển Nông thôn: Có 6 dự án tập trung vào hai lĩnh vực lớn là
Tăng thu nhập của nông dân và Thuỷ sản.
- Giáo dục và y tế: Có 1 dự án
- Bảo vệ môi trường: Có 8 dự án thuộc các lĩnh vực Bảo vệ rừng,
Cải thiện vệ sinh đô thị và môi trường.
* Hỗ trợ cho Viện trợ chung không hoàn lại
Viện trợ không hoàn lại được dựa trên sự thoả thuận của chính phủ
Việt Nam và chính phủ Nhật Bản. Các dự án viện trợ không hoàn lại phần
lớn là lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng trong khu vực xã hội ví dụ như cung
cấp thiết bị cho dịch vụ y tê, xây dựng các trường tiểu học. Nội dung các dự
án chính như sau:
- Dự án xây dựng Trung Tâm Nguồn Nhân Lực Việt - Nhật
- Dự án nâng cấp Bệnh viện Bạch Mai
- Dự án Nâng cấp Bệnh viện Chợ Rẫy
- …
* Tình nguyện viên JOCV
Chương trình tình nguyện viên JOCV tuyển mộ thanh niên Nhật ở độ
tuổi 20 đến 39, đào tạo và cử những người này đến các nước
phát triển
để
sống cùng người dân địa phương và chuyển giao kiến thức cho người dân ,

Tính từ năm tài chính 1992 đến năm tài chính 2001, 71 tình nguyện viên đã
được cử sang Việt Nam. Trong năm 2001 có 42 tình nguyện viên đang làm
việc tại Việt Nam trong các lĩnh vực như tiếng Nhật, Thể thao, Văn hoá, Y
tế
* Cứu trợ thiên tai 1 lần vào năm 1998 tại thời điểm lũ lớn xảy ra tại
miền Trung Việt Nam. Đội cứu trợ thiên tai Nhật Bản đầu tiên đã được cử
sang Việt Nam, hỗ trợ nhân dân ở vùng lũ vượt qua khó khăn.
c. Nội dung các dự án do JBIC thực hiện trong các lĩnh vực như sau:
Xét theo cơ cấu ngành, vốn vay do JBIC cung cấp tập trung cao nhất
cho giao thông vận tải và điện khí. Điều này thể hiện rõ mũi nhọn của của
vốn vay ODA là phát triển cơ sở hạ tầng, chủ yếu tập trung vào giao thông và
điện lực nhằm phát triển một môi trường thuận lợi cho công nghiệp và các
hoạt động kinh doanh và đang phát huy tác dụng tích cực trong sự nghiệp
phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Đối với giao thông vận tải, ODA
Nhật được sử dụng vào việc xây các trục đường bộ, cầu và cảng quan trọng
trên toàn quốc. Có thể kể ra đây một số công trình quan trọng được thực hiện
bằng vốn vay ODA Nhật như: Quốc Lộ 5 Hà Nội Hải Phòng, Cảng Hải
Phòng, Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại, Nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ, dự án
Đường dây truyền tải 500KV Phú Mỹ- Thành Phố Hồ Chí Minh…
* Điện – Khí ( xem phụ lục 1)
* Giao thông vận tải ( xem phụ lục 2)
* Thông tin liên lạc ( xem phụ lục 3)
* Thủy lợi và phòng chống lũ lụt
- Dự án thủy lợi Phan Rí – Phan Thiết: số vốn cam kết là
437
triệu

Yên
* Khai thác và sản xuất
- Dự án tài trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ: số vốn cam kết là

4.000
triệu

Yên
* Dịch vụ xã hội ( xem phụ lục 4)
* Vốn vay hang hóa
- Tín dụng hỗ trợ giảm nghèo: số vốn cam kết là 2 tỉ yên
* Nguyên nhân Nhật Bản dành nhiều viện trợ cho Việt Nam:
- Trước hết có thể khẳng định, Việt Nam có vị trí chiến lược quan trọng
ở khu vực Đông Nam Á. Việt Nam nằm trên các tuyến giao thông biển ở khu
vực Tây Thái Bình Dương có nhiều cửa ngõ thông thương ra biển, những hải
cảng lớn như Hải Phòng, Cam Ranh, Đà Nẵng, Vũng Tàu… đều rất có ý nghĩa
lớn về mặt quân sự, có thể được xem như một yếu tố tác động đến chiến lược
an ninh của Nhật Bản và các nước ASEAN.
- Nguyên nhân nữa phải kể đến là tỉ lệ rủi ro thấp của Nhật Bản khi đầu
tư vào Việt Nam. Việt Nam đang nổi lên là một nơi đầu tư khá lý tưởng do
kết hợp được cả các yếu tố khác như nguồn lao động có kỹ năng, chi phí nhân
công thấp, môi trường đầu tư được cải thiện, không có khủng bố, có nhiều
chính sách ưu đãi và khuyến khích đầu tư
- Ưu tiên của Nhật Bản đối với Việt Nam xuất phát từ lợi ích của Nhật
Bản bởi vì ODA giữ vai trò “mở đường” và tạo “cử chỉ thân thiện”, để sau đó
Nhật Bản thực hiện chính sách xúc tiến thương mại và đầu tư trực tiếp FDI.
Qua ODA, các doanh nghiệp Nhật Bản có thể tiếp cận nhanh hơn đến Việt
Nam qua các hợp đồng xây dựng dự án cụ thể, nhà đầu tư Nhật Bản cũng đến
Việt Nam dễ dàng hơn vì cơ sở hạ tầng phát triển. Ngược lại, Việt Nam có
thêm nhiều điều kiện tốt thu hút FDI nước ngoài. Rõ ràng, ODA đang là nền
tảng và trọng tâm trong hợp tác kinh tế Việt - Nhật, giữ vai trò tích cực trong
việc góp sức mình cho mục tiêu đối ngoại của hai quốc gia hướng đến xây
dựng đối tác chiến lược vì hoà bình, phồn vinh ở châu Á.
2.4. Tác động của ODA Nhật Bản đến nền kinh tế Việt Nam:

Trong thời gian qua việc sử dụng ODA Nhật Bản đã hỗ trợ phát triển
cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội phù hợp với chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế -xã hội của đất nước. Nguồn ODA Nhật có vai trò quan trọng
trong việc phát triển hiện nay của ngành năng lượng điện (Nhà máy Nhiệt
điện Phú Mỹ, Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại ; những công trình giao thông
chủ chốt của nền kinh tế Việt Nam đã được thực hiện như các dự án Quốc
Lộ I, Quốc Lộ 5 ODA Nhật được sử dụng để hỗ trợ các lĩnh vực y tế, xã
hội, giáo dục và đào tạo qua việc xây dựng các trường tiểu học cho miền
núi, hỗ trợ các bệnh viện Bạch Mai, Chợ Rẫy, cải thiện việc cung cấp nước
sinh hoạt tại các đô thị như Hải Dương, Hà Nội đào tạo cán bộ Việt Nam tại
Nhật Bên cạnh đó, ODA Nhật góp phần hỗ trợ đáng kể thực hiện điều
chỉnh cơ cấu kinh tế qua các khoản tín dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế, Quỹ
Miyazawa
Một số công trình sử dụng ODA Nhật đã và đang phát huy tác dụng
tích cực trong sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam như nhà
máy nhiệt điện Phú Mỹ. Các công trình như Quốc Lộ 5,Cảng Hải Phòng đã
đưa vào sử dụng nhanh và phát huy hiệu quả tốt.
Vai trò của ODA Nhật trong từng lĩnh vực ưu tiên cho Việt Nam có
thể điểm lại như sau:
a. Về kinh tế vĩ mô:
Theo đánh giá của các chuyên gia Nhật Bản bằng các biện pháp kinh tế
lượng cho 8 năm kể từ khi Nhật nối lại viện trợ cho Việt Nam kể từ năm
1992, ODA Nhật đã góp phần tăng GDP của Việt Nam thêm 1.5%, dự trữ
tiền mặt lên 4.65%, nhập khẩu thêm 5.94% và xuất khẩu thêm 3.84%
trong
năm 2000.
Vì ODA Nhật Bản chủ yếu được đầu tư cho các dự án xây dựng
cơ sở hạ tầng như đường xá, cảng thương mại, các nhà máy điện có qui mô
lớn, trường học, bệnh viện có thẻ đánh giá rằng ODA Nhật là thành phần
không thể thiếu được cho ngân sách của Việt Nam.

b. . Phát triển nhân lực và xây dựng thể chế
Viện trợ ODA của Nhật Bản cho Việt Nam có hai đặc điểm chính. Đặc
điểm thứ nhất là tập trung lớn cho việc phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế. Đặc
điểm thứ hai là trợ giúp trong lĩnh vực phát triển nhân lực và chính sách
để thúc đẩy phát triển nền kinh tế theo định hướng thị trường tại Việt Nam.
Một trong những điều kiện của khoản vay hỗ trợ cải cách kinh tế mà
Nhật Bản đặt ra với Việt Nam là Chính phủ Việt Nam tiến hành chuyển
đổi nền kinh tế thành nền kinh tế thị trường. Đánh giá củaViệt Nam cho thấy
khoản vay này giúp thúc đẩy sự phát triển của khu vực tư nhân, cải cách các
doanh nghiệp nhà nước và cải cách hệ thống thuế quan và thương mại của
Việt Nam.
Việt Nam nhận thức rõ về các tác động của ODA Nhật Bản. Từ lâu,
Việt Nam đã xác định việc phát triển nhân lực và xây dựng thể chế đóng vai
trò chủ chốt trong việc phát triển đất nước. Các quan chức và chuyên gia
Nhật Bản cũng hiểu biết rõ về vấn đề này và đã tổ chức các khoá học có hiệu
quả phù hợp với yêu cầu của Chính Phủ Việt Nam.
c. Phát triển cơ sở hạ tầng
Trong lĩnh vực giao thông, các dự án sử dụng ODA của Nhật đã
đóng góp đáng kể vào việc phát triển giao thông ở Việt Nam. Việc xây

×